Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Cảm hứng thế sự trong bạch vân quốc ngữ thi tập của nguyễn bỉnh khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.75 KB, 71 trang )

LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành đề tài này, em xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong
Bộ môn Văn học Việt Nam - Khoa Ngữ văn, thầy cô ở Trung tâm Thông tin Thư viện, phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo dục Trường Đại học Tây
Bắc, cùng gia đình và các bạn sinh viên lớp K53 - ĐHSP Ngữ văn A, đặc biệt là
TS. Ngô Thị Phượng đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ em trong thời gian
nghiên cứu, hoàn thiện đề tài.
Do năng lực cùng thời gian có hạn nên đề tài khi được hoàn thành sẽ
không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót mà em chưa nhận ra, rất mong nhận được
sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến từ thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2016
Người thực hiện

Nguyễn Thị Chanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 3
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu ....................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 8
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 8
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 8
7. Đóng góp của đề tài........................................................................................... 9
8. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................. 9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 10
1.1. Thơ Nôm Đường luật ................................................................................... 10
1.1.1. Điều kiện ra đời thơ Nôm Đường luật ...................................................... 10
1.1.1.1. Điều kiện văn học................................................................................... 10
1.1.1.2. Những điều kiện ngoài văn học ............................................................. 10


1.1.2. Thành tựu của thơ Nôm Đường luật trong văn học Việt Nam ................. 12
1.1.2.1. Giai đoạn hình thành .............................................................................. 12
1.1.2.2. Giai đoạn phát triển ................................................................................ 12
1.1.2.3. Giai đoạn cuối của thơ Nôm Đường luật ............................................... 15
1.2. Cảm hứng thế sự trong văn học ................................................................... 16
1.3. Nguyễn Bỉnh Khiêm và Bạch Vân quốc ngữ thi tập.................................... 18
1.3.1. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm..................................................................... 18
1.3.2. Bạch Vân quốc ngữ thi tập ........................................................................ 22
CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG BẠCH VÂN QUỐC NGỮ
THI TẬP CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM....................................................... 27
2.1. Những phương diện của cảm hứng thế sự ................................................... 27
2.1.1. Đồng tiền và sự quyết định quan hệ con người ........................................ 27
2.1.2. Quyền lực công danh và quan hệ thế sự ................................................... 34
2.1.3. Những thói đời khác của nhân tình thế thái .............................................. 38
2.2. Giải pháp thoát ly thế sự .............................................................................. 49
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thơ Nôm Đường luật là một trong những thể loại độc đáo vào bậc
nhất của văn học Việt Nam, tuy thể thơ có nguồn gốc ngoại lai nhưng trong quá
trình phát triển nó đã trở thành một thể loại của văn học dân tộc, có địa vị ngang
hàng với những thể loại văn học dân tộc thuần túy khác như truyện thơ viết theo
thể lục bát, khúc ngâm viết theo thể song thất lục bát...
Thế kỷ XVI đánh dấu bước thăng trầm của chế độ phong kiến Việt Nam
trên đà suy thoái, mâu thuẫn xã hội bộc lộ ngày càng rõ, nhà nước phong kiến
không còn tác dụng tích cực đối với nhân dân, bất lực trước thời cuộc. Chính
những đặc điểm này đã có những tác động mạnh vào tầng lớp nho sĩ trí thức

đương thời, đặt cho họ yêu cầu lựa chọn nhân cách và lối sống, nó khiến thơ văn
ở thời kì này có thêm những diện mạo mới, đa dạng, phong phú, đồng thời cũng
phức tạp hơn.
1.2. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), cả cuộc đời ông gắn liền với
những biến cố của lịch sử, “tài năng và nhân cách của ông có ảnh hưởng mạnh
mẽ không chỉ ở thế kỷ XVI mà còn rợp bóng đến cả các thế kỷ sau”.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một con người thông minh, đa tài, ông không chỉ
là một nhà hiền triết, bậc tiên tri, người thầy vĩ đại mà nổi bật lên trên tất cả, ông
là một nhà thơ lớn, là tác gia có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
nền văn học trung đại Việt Nam. Nhìn thời thế với thái độ an nhiên tự tại nên
những suy ngẫm về thế sự, chiêm nghiệm về cuộc sống của ông mang màu sắc
của một nhà nho triết lý, điều này được thể hiện rõ trong Bạch Vân quốc ngữ thi
tập - sự tiếp nối, phát triển từ một nền tảng bền vững và rạng rỡ của văn học
Nôm trước đó (Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Hồng Đức quốc âm thi tập
của Lê Thánh Tông).
1.3. Bạch Vân quốc ngữ thi tập là một tác phẩm có giá trị của văn học
Việt Nam. Nó in một dấu mốc quan trọng đối với quá trình vận động và phát
triển của thể loại thơ Nôm Đường luật, đánh dấu bước tiến đáng kể trong nghệ
thuật ngôn từ thơ Nôm so với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Tập thơ đã
1


chứng minh Nguyễn Bỉnh Khiêm là người kế thừa xuất sắc những thành tựu văn
học của thế kỷ XV và là tiền đề cho sự phát triển của thơ ca dân tộc ở những thế
kỷ sau, “với thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể khẳng định sự giản dị, thuần
tục và thanh thoát của ngôn ngữ văn học dân tộc trong việc đồng hóa những chất
liệu Hán học, trên cơ sở tiếp thu ngày càng nhiều ảnh hưởng ngôn ngữ của văn
học dân gian”.
1.4. Thơ Nôm Đường luật là thể loại có nhiều tác phẩm được tuyển chọn
giảng dạy trong chương trình văn học, ở nhiều cấp học, từ phổ thông cơ sở đến

đại học. Tuy nhiên nó lại chưa được nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện
như các thể loại khác, chưa xứng với vị trí vốn có của nó. Trong các giáo trình
Đại học và Cao đẳng đều đã đề cập đến tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng các
tác phẩm của ông, có một số công trình nghiên cứu khá cụ thể. Bài thơ Nhàn
nằm trong tập thơ Bạch Vân Quốc ngữ thi tập được đưa vào chương trình giảng
dạy ở nhà trường phổ thông (Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (chương trình cơ bản),
tập 1, trang 129, Nhà xuất bản Giáo dục, giảng dạy trong 1 tiết). Song vấn đề
cảm hứng thế sự trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập vẫn chưa được tìm hiểu
chuyên sâu mà mới chỉ dừng lại ở mức khái quát.
Chúng tôi muốn thông qua đề tài cung cấp thêm tư liệu cho người đọc về
cảm hứng thế sự trong tập thơ, mặt khác khẳng định thêm một lần nữa vị trí và
sự đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tiến trình văn học Việt Nam nói
chung và văn học trung đại Việt Nam nói riêng. Đồng thời đề tài sau khi hoàn
thiện sẽ được dùng làm tư liệu tham khảo cho việc giảng dạy thơ văn Nguyễn
Bỉnh Khiêm ở nhà trường phổ thông, đặc biệt là giảng dạy học phần văn học
trung đại theo tiến trình phát triển của thể loại, phù hợp với chương trình mới
trong sách giáo khoa hiện hành.
Trên đây là những lí do thúc đẩy chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu
khoa học với tiêu đề: “Cảm hứng thế sự trong Bạch Vân Quốc ngữ thi tập của
Nguyễn Bỉnh Khiêm”.

2


2. Lịch sử vấn đề
Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tập thơ kế thừa và
tiếp nối thành tựu thơ Nôm thế kỷ XV, đánh dấu bước phát triển mới trên hành
trình từ hoàn thiện mình của văn học viết Việt Nam, bước đầu chạm chân vào
phản ánh hiện thực của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI dưới góc độ đời thường,
mở đầu cho dòng thơ văn giàu tính triết lý, tư duy thế sự, vì vậy đã có một số

công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm này, tiêu biểu như:
Lã Nhâm Thìn trong cuốn Thơ Nôm Đường luật (Nxb Giáo dục - 1998)
có nhận định: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là người “mở ra hướng mới cho sự nghiệp
thơ ca của mình: tư duy thế sự”. “Ở đây trí tuệ và tâm hồn dân tộc đã tiến đến
một trình độ khái quát tư duy nghệ thuật cao hơn: văn học tiếp cận những bình
diện cuộc sống, những mâu thuẫn nội bộ dân tộc qua những vần thơ trữ tình có
giá trị tự thuật cá tính và tự sự xã hội rất sinh động, cụ thể” [20; 112].
Trần Thị Băng Thanh - Vũ Thanh trong lời giới thiệu cuốn Nguyễn Bỉnh
Khiêm về tác gia và tác phẩm (Nxb Giáo dục - 2001) viết: “Cùng với Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du... Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đỉnh cao về thi ca thời trung đại.
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự kết hợp từ chiều sâu chất trí tuệ và thi ca. Những
kiến thức sâu sắc về triết lý phương Đông tự trong ngọn nguồn của kinh sách kết
hợp với triết lý của cuộc đời nhiều trải nghiệm của một thi nhân, một người
hành đạo đã đem lại cho thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm tầm vóc của một nhà thơ lớn
của thời đại. Thơ ông như một khu rừng thâm nghiêm linh thiêng và thách thức
sự tìm kiếm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người trí thức trong thơ và là nhà thơ giàu
tri thức, uyên bác trong nhiều trường hợp không dễ tạo được sự hài hòa giữa
chất thơ và triết luận” [19; 7].
Nguyễn Bỉnh Khiêm được ví như “một cây đại thụ tỏa bóng suốt thế kỷ
XVI” và được công nhận là nhà lý học của An Nam (Chu Xán Nhiên, Trung
Quốc). Ông sáng tác khá nhiều thơ, thơ ông có nhiều bài để nói về “chí”. Theo
Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Có kẻ chí để ở đạo đức, có kẻ chí để ở công danh, có kẻ
chí để ở sự nhàn dật. Tôi lúc nhỏ chịu sự dạy dỗ của gia đình, lớn lên bước vào
giới sĩ phu, lúc về già thích nhàn dật, lấy cảnh núi non sông nước làm vui”
3


[19; 199].
Đinh Gia Khánh trong bài viết Nguyễn Bỉnh Khiêm và “tấm lòng lo trước
thiên hạ đến già chưa nguôi” có nhận xét: “Quan niệm chữ nhàn của ông gắn

với quan niệm về một phẩm chất cao khiết trong xã hội mà ông cho là đục lầm,
về một thái độ tự chủ trong một cõi đời mà ông cho là hỗn loạn, về một chỗ
đứng vững vàng trong một thời thế mà ông cho là đảo điên” [19; 279].
“Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện rất mực trung thực con người
và nhân cách của ông. Lời thơ đậm đà phong vị quê hương, miêu tả cuộc sống
của một ẩn sĩ chốn thôn quê” [19; 283].
Nguyễn Đăng Thục trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam đã đánh giá Nguyễn
Bỉnh Khiêm là người “tìm đến thuần thục cái học về nguyên lý” [19; 324]. Tuy
nhiên ông mới chỉ giới thiệu Nguyễn Bỉnh Khiêm trên phương diện là nhà tư
tưởng chịu ảnh hưởng của Tống Nho.
Nguyễn Huệ Chi trong bài Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhìn từ một nhân cách
lịch sử đến dòng tư duy thế sự có viết: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhân cách
có tầm thước không phải ở những hành vi trực tiếp cứu thế mà ở tấm lòng băn
khoăn cứu thế và ở cái bản lĩnh biết làm chủ suy nghĩ” [19; 390].
Nguyễn Quân trong bài viết Bạch Vân quốc ngữ thi tập - giá trị hình thức
và nội dung có nhấn mạnh “Căn bản tư tưởng của tác giả Bạch vân quốc ngữ thi
tập trước sau vẫn là căn bản của triết thuyết Khổng Mạnh” [19; 517]. Tuy nhiên
bài viết chỉ nhằm khẳng định tác phẩm thuộc loại tư tưởng gì chứ chưa đi sâu
vào khai thác mảng cảm hứng thế sự.
Đặng Thanh Lê có bài viết về Cảm hứng thế sự trong thơ Nôm, nhưng
ông mới chỉ điểm qua một số chủ đề thường gặp mang cảm hứng thế sự trong
thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm và có sự so sánh với thơ Nôm Nguyễn Trãi
chứ chưa khai thác chi tiết, cụ thể trong toàn bộ tập thơ Bạch Vân quốc ngữ thi
tập, ông cho rằng chủ đề cảm hứng thế sự trong thơ Nôm “bao hàm những quan
điểm đạo đức và quan niệm cuộc sống của nhà thơ vì chiều sâu của bức tranh
hiện thực nói trên chính là dòng tâm tư, cảm xúc của nhà nho và nhà thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm” [19; 570 - 571].
4



Bàn về thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vũ Khâm Lân viết: “Văn chương
tiên sinh rất tự nhiên, không cần điêu luyện, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà
nhiều ý vị, câu nào cũng có liên quan đến sự dạy đời” [19; 632].
Các bài viết trong cuốn này tập trung nghiên cứu theo từng phương diện:
Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỷ XVI đầy biến động; Triết nhân Nguyễn Bỉnh
Khiêm - Tư tưởng và nhân cách; Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà thơ; Nguyễn Bỉnh
Khiêm trong tâm thức thế nhân xưa và nay. Cảm hứng thế sự trong Bạch Vân
quốc ngữ thi tập được đan xen trong các phương diện nghiên cứu, chưa được
nghiên cứu một cách cụ thể, riêng rẽ.
Trần Đình Hượu trong cuốn Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại
(Nxb Giáo dục - 2004) có những nhận xét, lí giải về sự ảnh hưởng của Nho giáo
tới văn học, chi phối ngòi bút, quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Do
đó cảm hứng thế sự, những suy ngẫm về con người thời trung đại, chủ yếu được
nhìn nhận về phương diện đạo đức, xã hội: “Nho giáo xác định văn học nghệ
thuật là phương tiện giáo hóa chính tâm, chế dục, là công cụ chính trị động viên,
tổ chức xã hội nhằm biến thành hiện thực hài hòa của Trời, sự trật tự của Đất. Vì
lẽ đó Nho giáo chỉ chấp nhận một thứ văn học nghệ thuật chí thiện, hoàn toàn
hợp đạo đức” [5; 33].
Nhóm các tác giả Đinh Gia Khánh - Hồ Như Sơn - Bùi Duy Tân trong
cuốn Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nxb Văn học - 2005) có nhận xét: “thơ văn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện một chuyển biến quan trọng của lịch sử văn
học nước ta” [6; 7]. “Xưa kia, mỗi khi muốn nói về đạo lý, về những sự kiện
chính trị, về sự nghiệp kinh bang tế thế, các tác giả hay viết bằng chữ Hán vì
Nhà nước phong kiến coi đó là chữ chính thức. Nhưng mỗi khi muốn vui chơi
giải trí, hoặc muốn buông thả tâm hồn theo những xúc động hoặc nhận thức
riêng tư, tức là không có dụng ý lấy văn để “chở đạo” là chủ yếu, thì tác giả lại
hay viết văn làm thơ chữ Nôm... từ việc phê phán thói đời, đến việc tỏ thái độ
thanh cao không màng danh lợi, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện rất
mực trung thực con người và nhân cách của ông” [6; 57].


5


Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII (Nxb Giáo
dục - 2005), đồng chí Trường Chinh ở Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 3
ngày 01/12/1962 Tăng cường tính Đảng đi sâu vào cuộc sống mới để phục vụ
nhân dân, phục vụ cách mạng tốt hơn nữa (Báo Nhân dân số 3200 ngày
29/12/1962) có nhận xét: “Lòng “ái ưu vằng vặc” thái độ dũng cảm phê phán
những tệ lậu của chế độ phong kiến, đức tính liêm khiết, giản dị, lão thực, phong
thái an nhiên kết hợp nỗi chân tình... làm nên giá trị của thơ văn và phẩm chất
con người Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm kế thừa và phát huy những truyền thống của
văn học từ trước để lại, đồng thời lại thể hiện sự chuyển biến của văn học trong
một giai đoạn mới khi mà việc bảo vệ và phát huy nền văn hóa dân tộc trong
cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến mục nát, trở thành nhiệm vụ quan trọng
của nhân dân và trí thức yêu nước” [9; 459].
Nguyễn Đăng Na trong cuốn Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, tập
1 (Nxb Đại học Sư phạm 2012) viết: “Đến Bạch Vân quốc ngữ thi tập của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, tầm khái quát nghệ thuật của thơ Nôm Đường luật được
nâng lên một bước. “Tư duy thế sự” ở Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa thơ Nôm
Đường luật tiếp cận với cuộc sống vừa cụ thể, sinh động, vừa có tầm khái quát
xã hội rộng lớn” [12; 101]. “Từ chỗ hiện thực đạo đức suy đồi của thời đại, thơ
ông có sức khái quát mang ý nghĩa phê phán, tố cáo những tiêu cực của nhiều
thời đại khác nhau. Nguyễn Bỉnh Khiêm tố cáo thế lực đồng tiền, tố cáo thói đời
chủ yếu trên lập trường đạo đức phong kiến, khẳng định Nho giáo chứ không
phải chủ yếu trên lập trường nhân bản như các tác giả văn học cuối thế kỷ XVII
- nửa đầu thế kỷ XIX” [12; 168].
PGS. TS. Lã Nhâm Thìn trong cuốn Giáo trình văn học trung đại Việt
Nam, tập 1 (Nxb Giáo dục Việt Nam - 2012) có đánh giá: “Nguyễn Bỉnh Khiêm
là nhà thơ lớn nhất của văn học viết Việt Nam thế kỷ XVI đồng thời là một

trong những tác gia tiêu biểu của văn học viết dưới thời phong kiến. Sáng tác
của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ghi một mốc lớn trên con đường phát triển của lịch
sử văn học Việt Nam, là một trong những chiếc cầu nối giữa hai thời đại văn học
6


- thời đại Nguyễn Trãi trước đó và thời đại Nguyễn Du sau này” [21; 168].
“Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà thơ tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế
kỷ XVI. Thơ ông như “cây thông chót vót cao trăm thước” tỏa rợp bóng cả một
giai đoạn văn học. Tiếng nói trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh một xu
hướng tư tưởng thời đại: xu hướng của tầng lớp trí thức bất mãn với hiện thực xã
hội phong kiến, “lánh đục về trong” nhưng vẫn canh cánh nỗi lòng ưu dân ái
quốc. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là bức tranh rộng lớn và chân thật về đất
nước, xã hội, con người Việt Nam thế kỷ XVI. Đóng góp lớn của Nguyễn Bỉnh
Khiêm đối với lịch sử văn học dân tộc là thơ triết lí và thơ thế sự. Hai nét đặc
sắc này đã làm nên “bản ngã Nguyễn Bỉnh Khiêm” trong văn học trung đại Việt
Nam.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác gia vừa kế thừa những truyền thống văn học
của thế kỉ trước, vừa tiêu biểu cho những chuyển biến của văn học trong một
giai đoạn mới, khi mà chế độ phong kiến bước đầu có những biểu hiện khủng
hoảng, khi mà nhân dân ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với công
cuộc xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa dân tộc” [21; 182 - 183].
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu này chưa đề cập hoặc mới chỉ điểm
qua một vài nội dung mang cảm hứng thế sự trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
Từ những lý do trên chúng tôi quyết định tiến hành tìm hiểu những vấn đề
liên quan đến cảm hứng thế sự trong tập thơ này.
3. Đối tượng, mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tập thơ trên các phương diện sau:
- Cảm hứng thế sự trong văn học.

- Cảm hứng thế sự trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm khẳng định vị trí của Bạch Vân
quốc ngữ thi tập trong hệ thống thơ văn Việt Nam nói chung và trong văn học
trung đại nói riêng. Từ đó góp phần khẳng định vị trí của tập thơ cũng như tài
năng của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
7


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát tài liệu.
- Thống kê, phân loại.
- Phân tích, tổng hợp để thấy được cảm hứng thế sự trong tập thơ.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Về văn bản, chúng tôi dựa theo cuốn Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tập
1; Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Bùi Văn Nguyên phiên âm - chú thích - giới
thiệu, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1989.
Chúng tôi có chọn lọc, so sánh với tập Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm do
nhóm các tác giả Đinh Gia Khánh - Hồ Như Sơn - Bùi Duy Tân biên soạn (in
lần thứ 3 có bổ sung, sửa chữa), Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 2005.
Đề tài còn sử dụng cuốn Thơ Nôm Đường luật của Lã Nhâm Thìn, Nhà
xuất bản Giáo dục, 1998.
6. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng
tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau đây:
6.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Đây là phương pháp nhằm đưa vào những khảo sát cụ thể để làm dữ liệu,
cơ sở chứng minh cho nhận định, đánh giá. Phương pháp này giúp người nghiên
cứu có thể lựa chọn những nét tiêu biểu trong tác phẩm tương ứng với từng luận
điểm.

6.2. Phương pháp phân tích tổng hợp
Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng thường xuyên trong quá trình
nghiên cứu. Qua phân tích các nội dung trong thơ để làm nổi bật cảm hứng thế
sự.
6.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
So sánh Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm với các tập
thơ của các tác giả khác như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc
âm thi tập của Lê Thánh Tông... để thấy được sự khác biệt về mặt cảm hứng thế

8


sự của tập thơ với cảm hứng thế sự của các tập thơ khác trong nền văn học trước
và sau nó.
7. Đóng góp của đề tài
Đề tài giúp người đọc có cái nhìn tương đối hoàn chỉnh về cảm hứng thế
sự trong tập thơ, cũng như những đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nền
văn học trung đại Việt Nam.
Đề tài sau khi nghiệm thu sẽ được dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên khoa Ngữ văn trong quá trình học tập, nghiên cứu về tác gia Nguyễn Bỉnh
Khiêm, là tư liệu giảng dạy cho giảng viên Đại học, Cao đẳng trên các phương
diện: Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt là thể
loại thơ Nôm Đường luật, giáo viên phổ thông khi giảng dạy những bài thơ của
Nguyễn Bỉnh Khiêm trong nhà trường, đồng thời bổ sung thêm một số thông tin
hữu ích cho những ai yêu thích và muốn hiểu sâu hơn về Nguyễn Bỉnh Khiêm,
đặc biệt là tập thơ chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
đề tài được triển khai qua hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Cảm hứng thế sự trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm.

9


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Thơ Nôm Đường luật
Sự ra đời của thơ Nôm đường luật Việt Nam là kết quả của việc học hỏi
và tiếp thu sáng tạo thành tựu của thơ ca Trung Hoa, điển hình là thơ Đường,
đây là sự trưởng thành của ý thức dân tộc Việt Nam sau một thời gian dài chúng
ta sáng tác thơ Đường bằng chữ Hán dựa trên đề tài của họ.
“Khái niệm thơ Nôm Đường luật là bao hàm những bài thơ viết bằng chữ
Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo thơ luật Đường phá
cách - những bài có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào bài thơ thất ngôn. Bởi lẽ
việc đưa câu thơ năm chữ hoặc sáu chữ vào bài thất ngôn luật Đường góp phần
làm thay đổi bản chất và hình thức của Đường luật Nôm so với thơ Đường luật,
nhưng nhìn chung cái hình thức cơ bản của thơ Đường luật vẫn được giữ lại: số
câu trong bài, kết cấu bài thơ, luật về đối, về vần, về thanh điệu” [21; 141].
1.1.1. Điều kiện ra đời thơ Nôm Đường luật
1.1.1.1. Điều kiện văn học
Ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Hán có sự gần gũi tương đồng ở một số
phương diện cơ bản như: không biến hình, đơn âm và tuyến tính. Thêm vào đó
là sự gần gũi về thanh điệu. Tiếng Việt đã cung cấp những điều kiện quan trọng
và quyết định để người Việt có thể sáng tác thơ Nôm Đường luật.
Bên cạnh đó, thơ Đường luật là một trong những thành tựu rực rỡ nhất
của nền văn học Trung Quốc, là đỉnh cao của nền nghệ thuật nhân loại. Lựa
chọn thơ Đường luật làm đối tượng để sáng tạo nên thơ Nôm Đường luật - một
trong những thành tựu được xem là xuất sắc nhất của nền văn học dân tộc, là
điều hoàn toàn đúng quy luật bởi thơ Đường luật là thơ có kết cấu ổn định và rất

chặt chẽ.
1.1.1.2. Những điều kiện ngoài văn học
Thế kỷ X Việt Nam đã thực hiện một bước ngoặt hết sức quan trọng và có
ý nghĩa: độc lập dân tộc và tự chủ đất nước.
Tiếp thu tinh hoa phương Bắc, ngoài giao lưu tự nhiên còn là nhu cầu
hướng tới một cách chủ động, mở cửa có ý thức, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn của
10


văn hóa Đại Việt.
Hoàn cảnh lịch sử với những thuận lợi cơ bản trên là một tiền đề quan
trọng cho sự hình thành thơ Nôm Đường luật.
Về xã hội, đã có sự hình thành tầng lớp trí thức Việt Nam ngày một đông
đảo và có vị trí trong xã hội, là những người sáng tạo văn hóa ở Việt Nam.
Thơ Nôm Đường luật - một hiện tượng văn học đồng thời là một sản
phẩm văn hóa, một sản phẩm “nhập ngoại” chỉ có thể ra đời khi trong xã hội đã
xuất hiện những nhà văn hóa tuy không chuyên nghiệp nhưng có tài năng và tâm
huyết.
Trước thế kỷ X đã có những người như Lý Ông Trọng (thời Tần), Trương
Trọng, Lý Tiến (thời Hán) có học thức, giỏi ứng đối, học là những tri thức việt
Nam đầu tiên, tuy nhiên chưa có đóng góp gì. Sau thế kỷ X, trí thức mới có
nhiều đóng góp, qua Đại Việt sử ký toàn thư: “Thánh Tông hoàng đế... Đinh
Mão năm thứ 10 (1267)... Mùa hạ, tháng tư, chọn lấy những nho sinh hay chữ
bổ vào quán, các, sảnh, viện... Bấy giờ Đặng Kế làm hàn lâm viện học sĩ, Đỗ
Quốc Tá làm trung thư sảnh, trung thư lệnh, đều là người văn học cả... Theo chế
độ cũ, không phải là nội nhân (hoạn quan) thì không được làm chức hành khiển,
chưa từng dùng người văn học, người học được giữ quyền bính bắt đầu từ đây”
[8; 37].
Theo nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, trước thế kỷ X “chưa thấy có
vết tích nào chứng tỏ là đã có cách viết Nôm các hư từ. Chưa có cách viết hư từ

thì nhất định chưa thể viết được những câu hoàn toàn Nôm thực sự”. “Chỉ từ
cuối thế kỷ X trở đi thì chữ Nôm với tư cách là một hệ thống văn tự thực thụ
mới dần dần hình thành. Thế kỷ XI, XII nó tiếp tục phát triển, tự hoàn chỉnh
thêm và ngày càng trưởng thành. Cuối cùng đến giữa thế kỷ XIII thì về cơ bản
nó đã được khẳng định thực sự” [20; 35].
“Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác gia vừa kế thừa những truyền thống văn học
của thế kỉ trước, vừa tiêu biểu cho những chuyển biến của văn học trong một
giai đoạn mới, khi mà chế độ phong kiến bước đầu có những biểu hiện khủng
hoảng, khi mà nhân dân ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với công
11


cuộc xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa dân tộc” [21; 182 - 183]. Tuy
nhiên các tác giả mới chỉ khái quát về thân thế, sự nghiệp, giá trị văn chương
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, còn vấn đề cảm hứng thế sự mới chỉ được điểm qua và
nói đến một cách ngắn gọn. Người Việt đã có một công cụ quan trọng trong tay
đó là chữ Nôm, nó góp phần vào việc sáng tạo văn học Việt.
Trong văn hóa giáo dục, thơ Đường luật được đưa vào thi cử từ thế kỷ
XIII. Bắt đầu từ khoa Giáp Thìn (1304) đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng
Long thứ 12. Thơ Đường luật là sự gắn bó khăng khít của nó đối với tư tưởng.
1.1.2. Thành tựu của thơ Nôm Đường luật trong văn học Việt Nam
Cũng giống như nhiều thể loại văn học khác, chúng ta khó có thể khẳng
định một cách chính xác thời điểm ra đời và kết thúc của thơ Nôm Đường luật.
Tuy nhiên có thể thấy khá rõ thơ Nôm Đường luật trải qua ba giai đoạn cơ bản:
giai đoạn hình thành, giai đoạn phát triển và giai đoạn cuối.
1.1.2.1. Giai đoạn hình thành
Thơ Nôm Đường luật ra đời có lẽ từ cuối thế kỷ XIII. Đại Việt sử ký toàn
thư ghi lại: “Nhâm Ngọ (Thiên Bảo) năm thứ 4 (1282). Mùa thu, tháng 8...bấy
giờ có cá sấu đến sông Lô. Vua sai thượng thư Hình bộ là Nguyễn Thuyên làm
văn ném xuống sông. Con cá sấu tự đi mất. Vua cho là việc này giống như việc

của Hàn Dũ, cho đổi họ là Hàn Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc âm. Nước ta
thơ phú dùng nhiều quốc âm, thực sự bắt đầu từ đây” [8; 48].
Văn bản chữ viết đầu tiên của thơ này còn giữ được là Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi mặc dù nó đã được manh nha từ trước.
1.1.2.2. Giai đoạn phát triển
“Sinh mệnh nghệ thuật” của thơ Nôm Đường luật kéo dài hơn bảy thế kỷ.
Bắt đầu từ Hàn Thuyên thế kỷ XIII và kết thúc ở đầu thế kỷ XX với đại biểu lớn
cuối cùng là Nguyễn Khuyến... Như nhiều thể loại văn học, thơ Nôm Đường
luật có quá trình hình thành, phát triển, kết thúc.
Tuy nhiên “đường đời” của thể loại này có những điểm khác biệt. Ngoài
giai đoạn hình thành chúng ta chưa được rõ, diện mạo thơ Nôm Đường luật là
diện mạo không có tuổi già.
12


Từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đến thơ Nôm Nguyễn Khuyến, Tú
Xương, thơ Nôm Đường luật phát triển và đạt được nhiều thành tựu qua hai
chặng đường khá rõ.
Với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, lịch sử văn học Việt Nam trên thực
tế đã có thêm một thể thơ mới: thơ Nôm Đường luật. Ông khẳng định sự hiện
diện của thơ Nôm Đường luật với tư cách một thể loại văn học dân tộc. Để sáng
tạo một thể thơ mới trên cơ sở tiếp thu thơ văn Trung Hoa. Nguyễn Trãi đã “giải
tỏa những gò bó của Đường luật, xây dựng một lối thơ Việt Nam có những điểm
khác biệt dễ nhận thấy so với thơ Nôm Đường luật.
Nguyễn Trãi là người đầu tiên sử dụng nhiều và thành công những thành
ngữ, tục ngữ, hình tượng nghệ thuật đậm đà tính dân giã và màu sắc dân tộc
trong các sáng tác thơ Nôm. Ông thể hiện mạnh mẽ xu hướng phá cách trong
sáng tác thơ Đường luật Nôm, xu hướng dân tộc hóa biểu hiện ở chỗ tìm cho
mình cái riêng, cố gắng khác nước ngoài.
Nguyễn Trãi là người đầu tiên sử dụng nhiều, sử dụng thành công thơ sáu

chữ, những thành ngữ, tục ngữ, hình tượng nghệ thuật đậm đà tính chất dân dã
và màu sắc dân tộc trong sáng tác thơ Nôm. Ông đã khẳng định sự hiện diện của
thơ Nôm Đường luật với tư cách một thể loại văn học dân tộc.
Thế kỷ XV có thể gọi là thế kỷ của thơ Nôm Đường luật, xuất hiện 2 tập
thơ lớn: Quốc âm thi tập nửa đầu thế kỷ và Hồng Đức quốc âm thi tập nửa cuối
thế kỷ. Hồng Đức quốc âm thi tập là bước phát triển tiếp theo của thơ Nôm
Đường luật, phạm vi phản ánh những vấn đề xã hội được mở rộng hơn, đây
cũng chính là quy luật phát triển của thơ Nôm Đường luật.
Nếu so với hai tác phẩm thơ Nôm Đường luật của thế kỷ XV, quy mô và
số lượng của Bạch Vân quốc ngữ thi tập không bằng nhưng không vì thế mà
dung lượng phản ánh của tác phẩm bị hạn chế, nhờ nó mà tầm khái quát nghệ
thuật của thơ Nôm Đường luật được nâng lên một bước. “Tư duy thế sự” trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm một mặt làm cho sáng tác của ông gần “triết” và xa
“thơ” hơn so với Nguyễn Trãi, mặt khác đưa thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp cận
cuộc sống vừa cụ thể, sinh động, vừa có tầm khái quát xã hội rộng lớn.
13


Xu hướng phá cách trong sáng tác thơ Nôm Đường luật vẫn được Nguyễn
Bỉnh Khiêm tiếp tục, tuy nhiên số lượng câu thơ sáu chữ trong Bạch Vân quốc
ngữ thi tập giảm khá nhiều so với Quốc âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi
tập. Nó phản ánh quy luật phát triển của thơ Nôm Đường luật: hiện tượng không
theo quy cách thơ Đường giảm dần và quá trình phát triển của thơ Nôm Đường
luật là đi từ thế chưa ổn định tới ổn định.
Việc dùng thơ Đường luật để trào phúng được manh nha từ Nguyễn Trãi,
tới Nguyễn Bỉnh Khiêm, chức năng trào phúng của thơ Nôm Đường luật đã
được khẳng định. Là một nhà đạo đức mực thước không thể chê trách, một triết
gia lớn của thời đại, một bậc thầy đầy uy vọng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không
từ chối bút pháp trào phúng khi sáng tác thơ Nôm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là dấu nối giữa hai thời kỳ - thời kỳ Nguyễn Trãi và

thời kỳ Hồ Xuân Hương.
Thế kỷ XVII, XVIII, mặc dù số lượng không phải ít song thơ Nôm Đường
luật không có tác giả, tác phẩm lớn, chất lượng thơ không cao. Nó nhường đỉnh
cao cho những thể loại khác sáng tác bằng chữ Nôm như truyện thơ (Song Tinh
Bất Dạ), diễn ca lịch sử (Thiên Nam ngữ lục).
Cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX Đường luật Nôm khởi sắc trở lại.
Hồ Xuân Hương - “bà chúa thơ Nôm” (chữ dùng của Xuân Diệu) đã giành lại vị
trí vốn có trước đây của thơ Nôm Đường luật, tiếp tục xu hướng dân tộc hóa
đồng thời chuyển nhanh trên con đường dân chủ hóa nội dung và hình thức thể
loại. Cuộc sống đời thường, nguyên sơ, chất phác, dân dã đã trở thành đối tượng
thẩm mĩ của bà. Cái bản năng, tự nhiên, trần tục vốn xa lạ với phong cách trang
trọng, cao quý của Đường luật bỗng trở nên thích dụng với phong cách trữ tình
trào phúng của thơ Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương đã đưa một nội dung “không nghiêm chỉnh” vào một
hình thức “nghiêm chỉnh” để tạo nên sức công phá mạnh mẽ, để khẳng định
chức năng trào phúng to lớn của Đường luật Nôm. Đến Hồ Xuân Hương, thơ
Nôm Đường luật đã đạt tới đỉnh cao. “So trước nhìn sau, mọi người đều thừa

14


nhận rằng: Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc
hơn và đại chúng hơn cả” [10; 124].
Giai đoạn sau Hồ Xuân Hương là giai đoạn tiếp tục sự phát triển của thơ
Nôm Đường luật, thành tựu không bằng trước nhưng vẫn có những đóng góp
lớn. Đây cũng là giai đoạn cuối của Đường luật Nôm để chuyển sang thơ quốc
ngữ Đường luật.
Nguyễn Công Trứ cũng là tác giả có những đóng góp đáng kể vào quá
trình dân chủ hóa nội dung, hình thức thơ Nôm Đường luật: những tình cảm
chân thành, phóng khoáng, cuộc sống đời thường được diễn đạt bằng lời thơ đơn

giản, bình dị.
Đến Bà huyện Thanh Quan, dòng thơ Nôm Đường luật xuất hiện phong
cách tác giả. Nhờ có bà mà tâm hồn dân tộc được biểu hiện một cách tuyệt vời
trong một phong cách Đường thi mẫu mực, chải chuốt nhưng không sáo mòn,
công thức, thơ đa dạng và phong phú hơn.
1.1.2.3. Giai đoạn cuối của thơ Nôm Đường luật
Trần Tú Xương, Nguyễn Khuyến là hai tác giả đã chuyển thơ Nôm
Đường luật từ văn học trung đại sang văn học cận - hiện đại, tầm khái quát nghệ
thuật của thơ Nôm Đường luật vừa được mở rộng vừa được nâng cao hơn. Chức
năng phản ánh xã hội của thể loại không chỉ dừng ở mức “trữ tình thế sự”, “tư
duy thế sự”, “trào phúng thế sự” mà còn vươn tới chỗ phản ánh xã hội với
những chi tiết hiện thực sinh động, phong phú.
Ngày mà Tú Xương viết: “Vứt bút lông đi viết bút chì” cũng là ngày báo
hiệu thời kỳ suy giảm của thơ Nôm Đường luật. Đáp ứng nhu cầu phản ánh và
nhu cầu thưởng thức mới, văn học dân tộc xuất hiện những thể loại khác thực
hiện tốt chức năng xã hội và chức năng thẩm mỹ mà Đường luật Nôm không
vươn tới được.
Suốt bảy thế kỷ thơ Nôm Đường luật đã tồn tại với tư cách một thể loại
của văn học dân tộc. Tuy có nguồn gốc ngoại lai song trong quá trình tồn tại, thơ
Nôm Đường luật đã mang một chức năng văn học mới, chức năng thẩm mĩ mới,

15


khẳng định sự tồn tại không thể thay thế của thể loại này trong lịch sử văn học
Việt Nam.
1.2. Cảm hứng thế sự trong văn học
Có rất nhiều cách hiểu, giải thích và định nghĩa cho cụm từ “cảm hứng thế
sự”, cụ thể là:
Từ điển tiếng Việt phổ thông A - C do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa:

“Cảm hứng là trạng thái tâm lý đặc biệt, khi sức chú ý được tập trung cao độ, kết
hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động
tích cực và có hiệu quả” [16; 152].
Từ điển tiếng Việt thông dụng do Như Ý chủ biên: “Cảm hứng là dâng
trào những xúc cảm, thúc đẩy óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả, là
trạng thái cảm hứng” [22; 142].
Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi chủ biên thì “cảm hứng” hay còn gọi là “cảm hứng chủ đạo”
được hiểu là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm, xuyên suốt tác phẩm nghệ
thuật gắn liền với một tư tưởng nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những
người tiếp nhận tác phẩm” [2; 38].
Theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: “Cảm hứng có nghĩa là trạng thái
tâm lý đặc biệt khi có cảm xúc và sự lôi cuốn mãnh liệt, tạo điều kiện để óc
tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả...dâng trào những xúc cảm, thúc
đẩy óc tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả hay là một dạng biểu hiện
trạng thái cảm hứng” [15; 106]. “Thế sự (theo cách nói khái quát) là việc đời”
[15; 918].
Như vậy từ những khái niệm trên ta có thể hiểu cảm hứng là yếu tố quan
trọng quy định nhà văn trong việc sáng tạo ra tác phẩm. Hiện thực khách quan đi
vào tác phẩm khi người nghệ sĩ nắm bắt chính xác, sâu sắc hiện thực, tuy sự
nhận thức này mang đậm tính chủ quan. Bởi vậy mà cảm hứng ở mỗi nhà văn
luôn khác nhau, ngay cả trong cùng một tác giả thì việc bộc lộ cảm hứng cũng
không giống nhau, ở mỗi thời đại, mỗi nhà thơ, nhà văn lại có cảm hứng sáng
tác riêng.
16


Hai chữ “việc đời” ngắn gọn nhưng lại cung cấp một lượng thông tin lớn.
Những “việc đời” ở đây có thể bao gồm nhiều vấn đề xung quanh cuộc sống,
sinh hoạt, phong tục, tập quán, lối sống... của xã hội con người.

Cảm hứng thế sự là dòng tâm tư cảm xúc của con người về việc đời, cảm
hứng về cuộc sống đời thường, về con người thực tại. Nói đến cảm hứng thế sự
là nói đến những điều gần gũi, quen thuộc về đời sống và con người được tác giả
đưa vào trong các tác phẩm của mình. Cảm hứng thế sự trong Bạch Vân quốc
ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm là tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ trước
thực tại, suy nghĩ về nhân tình, thế thái.
Văn học bắt nguồn từ đời sống để tạo nên những đứa con tinh thần phản
ánh đời sống. Văn học thế sự có nghĩa là văn học hướng tới phản ánh thực tại xã
hội, phản ánh cuộc sống đời thường, hằng ngày của nhân sinh, thế cuộc, của thế
thái nhân tình, khám phá mọi vấn đề của cuộc hành trình đi tìm kiếm sự sống và
hạnh phúc của con người...
Nhà văn, nhà thơ “góp nhặt chuyện đời mà viết nên trang giấy” làm tái
hiện trước mắt người đọc nhiều góc cạnh của đời người, với cái đau khổ, vui
sướng, hạnh phúc, cái cao cả, cái thấp hèn, cái bi, cái hài xoay quanh cuộc sống.
Họ miêu tả cuộc sống như nó vốn có, biểu thị sự đổi mới trong quan niệm của
bản thân về tính chân thực của văn học, đưa văn học khỏi tình trạng “minh họa”
hay “tô vẽ”.
Các tác phẩm mang cảm hứng thế sự vừa là nơi người cầm bút bày tỏ suy
nghĩ, tình cảm, cách nhìn nhận của mình về cuộc sống vừa là nơi người đọc có
cơ hội tìm hiểu, khám phá cuộc sống một cách sinh động nhất. Nói tóm lại, văn
học thế sự luôn hướng tới phản ánh thực trạng cuộc sống ngổn ngang, bề bộn
như nó vốn có và đang tồn tại. Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại chính là
tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực trong thời kỳ sau.
Thơ thế sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm phần nhiều là những bài thơ viết về
mặt trái của hiện thực xã hội đương thời mà nổi bật lên là vấn đề thói đời đen
bạc, về những mối quan hệ người với người đầy thực dụng, giả dối, những mối

17



quan hệ đã bị vật chất chi phối... Đó là những biểu hiện trong cuộc sống rối loạn
thế kỉ XVI mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng chứng kiến, chiêm nghiệm.
Trên cơ sở khái niệm thơ thế sự và căn cứ vào nội dung cụ thể của các câu
thơ trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, người ta đã thống kê được số các bài thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về thế sự là 40 trên 153 bài thơ Nôm (trừ phần Cương
thường tổng quát). Đây chỉ là một cách phân định có tính chất tương đối bởi vì
ông có nhiều bài thơ vừa mang nội dung triết lí, vừa mang nội dung thế sự. Hoặc
có thể nói, qua những vấn đề thực tế xã hội Nguyễn Bỉnh Khiêm nâng lên thành
vấn đề triết lí.
1.3. Nguyễn Bỉnh Khiêm và Bạch Vân quốc ngữ thi tập
1.3.1. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi (1491), húy là Văn Đạt, tự là
Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, được học trò suy tôn làm Tuyết Giang phu tử
(Tuyết Giang là biệt danh của sông Hàn (lạnh) nơi quê hương ông, phu tử là từ
học trò dùng để gọi tôn thầy học của mình thời phong kiến) người làng Trung
Am, huyện Vĩnh Lại, trấn (tỉnh) Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh
Bảo, ngoại thành Hải Phòng. Ông mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Sửu (17/01/
1585).
Sinh ra trong một gia đình trí thức Nho học phong kiến, cha là Nguyễn
Văn Định, có tài nhưng chỉ làm chức quan nhỏ. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con gái
Thượng thư, Tiến sĩ Nhữ Văn Lan, là một người rất thông tuệ, am hiểu kinh sử,
lại giỏi văn chương, tinh thông lý số.
Từ nhỏ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tỏ ra thông minh, hiếu học, thường được
mẹ đem chính văn, kinh truyện và thơ quốc âm ra dạy. Năm ông năm, sáu tuổi,
trong gia đình có sự không hòa thuận, mẹ ông bỏ nhà ra đi, ông đã phải chịu
cảnh bơ vơ không mẹ, ở với cha. Lớn lên theo học bảng nhãn Lương Đắc Bằng
(1472 -?), được thầy yêu mến, tận tình dạy bảo, truyền thụ cho những điều uyên
thâm trong sử sách, đặc biệt là những kiến thức trong Kinh dịch và Thái ất thần
kinh.


18


Nguyễn Bỉnh Khiêm mặc dù sinh ra thời Hồng Đức huy hoàng nhưng lớn
lên lại rơi vào thời kì suy thoái của triều đình nhà Lê, không còn vua sáng tôi
hiền thời Thánh Tông, Hiến Tông mà xuất hiện những hôn quân, bạo chúa kiểu
Uy Mục, Tương Dực, ít chú ý đến hạnh phúc của quần chúng mà chỉ biết hưởng
lạc, sống trên nhung lụa, ham mê tửu sắc khiến cho bọn quan lại kém cỏi dốt
nát, có dịp “trổ tài” gian nịnh, kết bè kéo cánh, lũng đoạn triều đình, dối trên lừa
dưới, ức hiếp nhân dân, khắp nơi máu chảy thành sông, xương chất như núi.
Trên cơ sở đó, Mạc Đăng Dung và phe cánh đứng lên lật đổ nhà Lê để
cướp ngai vàng. Đăng Dung vốn chỉ là người đánh cá có sức khỏe ở hạt Đồ Sơn,
thi trúng võ cử, ban đầu làm lính túc vệ trong cung, leo mãi lên đến chức Tiết
chế thủy, lục quân. Cuộc nổi loạn giữa hai phía Lê, Mạc thực chất là hai phía
Trịnh - Mạc, rồi chuyển dần sang cả hai phía Trịnh - Nguyễn, vốn hai họ có
công khôi phục nhà Lê trung hưng.
Trước khung cảnh xã hội rối ren, Nguyễn Bỉnh Khiêm và một số bạn thân
của mình lấn ná mãi không chịu ra thi, kể cả những kì thi cuối cùng của nhà Lê
thời Cung Hoàng đế năm 1523 và năm 1526, phải tổ chức ở cạnh dinh Bồ Đề,
bên kia sông Nhĩ. Sau đó là kì thi hội lần đầu dưới triều Mạc Đăng Dung năm
1529, tại trấn lị Hải Dương, ở xã Mao Điền (nay là Cẩm Điền, huyện Cẩm Bình,
Hải Hưng), ông cũng không ra thi.
Đến kì thi hội lần thứ hai, tại Mao Điền dưới triều Mạc Đăng Doanh năm
1532 ông vẫn còn lấn ná, lúc này ông đã 42 tuổi.
Khoa thi tiếp theo đó là khoa thi năm Ất Mùi (1536), khoa thi cuối cũng
tại Mao Điền (vì sau đó tình hình ổn định, triều mạc chuyển trường thi trở lại
Đông Kinh), ông mới ra thi và đỗ trạng nguyên, lúc này ông 45 tuổi.
Cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với cuộc xung đột và khủng hoảng
triều chính Lê - Mạc gần như chạy suốt thế kỷ XVI đầy sóng gió, được chia làm
3 chặng:

- Chặng 1: từ thời niên thiếu đến năm 1535, khi ông đỗ trạng nguyên, làm
quan dưới triều Mạc Đăng Doanh, được sơ bổ chức Hiệu thư ở Hàn lâm viện.

19


- Chặng thứ 2: gồm 8 năm làm quan tại triều cho đến năm Nhâm Dần
1543, dưới triều Mạc Phúc Hải, ông xin về hưu trí sớm hơn tuổi quy định, là
chặng đường đầy sóng gió của ông ngoài xã hội cũng như chính lòng mình.
- Chặng thứ 3: ông tưởng an nhàn như “ông tiên trên mặt đất” nhưng lại
thăng trầm và khổ nhục, bị nhà Mạc ép làm việc này việc kia như làm tham mưu
hành quân chống anh em Vũ Văn Mật ở Đại Đồng (Tuyên Quang), hay chống
Trịnh ở địa đầu Thanh Hóa,... trong tình trạng khi về hưu mà luôn phải “thoắt tới
thoắt lui” nơi cửa quyền.
Ông là người yêu nước thương dân, luôn luôn có ý thức lấy dân làm gốc,
cho nên mới chần chừ không ra thi, vì thi đỗ thì phải làm quan, mà đã làm quan
thì phải có ích cho dân, cho nước, nếu không được như vậy thì không nên tham
quyền cố vị.
Biết cuộc đời mình thất bại trong quan trường, Nguyễn Bỉnh Khiêm hành
nghề dạy học từ thời còn là thanh niên trai tráng dựa vào dịch lí vòng đời làm
chuẩn (vòng đời tương đối mà bản thân ông chứng kiến trong thời đại và so sánh
với vòng đời vô cùng, vô tận của vũ trụ), ông hiểu lẽ sinh hóa - hóa sinh, theo
nguyên lí mâu thuẫn thống nhất như câu tục ngữ “tre già thì măng mọc”. Ông
đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước như Giáp Hải, Lương Hữu Khánh,
Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ...
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà lí học uyên thâm nhưng có quan niệm tích cực
xây dựng cuộc sống, ông làm thơ, làm văn để ghi cái chí xây đời vì dân vì nước
của ông và dạy học để truyền cái chí ấy cho giới trẻ nối tiếp ông thực hiện sứ
mệnh cao quý đó.
Tiếp nối xuất sắc tinh thần của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp

tục khẳng định sự tồn tại và phát triển của thơ Nôm Đường luật bằng sự ra đời
của Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Nó đã góp phần thúc đẩy giá trị của thơ Nôm
thời trung đại lên một tầm cao mới, tác phẩm không chỉ có giá trị ở thời bấy giờ
mà nhiều tư tưởng nội dung vẫn còn có nhiều giá trị và lợi ích to lớn đối với
cuộc sống của con người thời nay.
Được ví như cây đại thụ văn học thế kỷ XVI, Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu
20


nhiều ảnh hưởng từ ý thức hệ phong kiến, tư tưởng Nho giáo. Ông lên án tất cả
những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến, cảnh đảo điên của nhân tình thế
thái, sự sụp đổ của cương thường đạo lý. Ngoài ra, tình hình chính trị xã hội thời
bấy giờ cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm và nhận thức đời
sống của ông.
Thế kỷ XVI bên cạnh thơ chữ Hán, xuất hiện thơ Nôm với thể loại mới
như lục bát, song thất lục bát, trong số những người tiêu biểu có Nguyễn Bỉnh
Khiêm.
Là người trọn cuộc đời sống chủ yếu ở nơi thôn dã, bên cạnh sự ảnh
hưởng của Nho gia và văn chương chính thống, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ít nhiều
trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tư tưởng, tình cảm của nhân dân, đạo lý dân
tộc và các sáng tác dân gian.
Lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đậm đà tinh thần phê phán
thói đời đen bạc và cũng đậm đà tính dân tộc chân chính sáng ngời “lo trước
thiên hạ” và “vui sau thiên hạ”, tự hi sinh quyền lợi cá nhân của bản thân mình
để thực thi đạo lý cao cả.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có một hoài bão là được làm “ông tiên trên mặt đất”
(địa thượng tiên), đó là quan niệm về triết lí chữ “nhàn” của ông, một cuộc sống
lành mạnh:
Ai hỏi: “Làm chi vui nữa?”
Thưa rằng: “Một sự làm lành”

(Thơ quốc âm, bài 17)
Người dữ thời ta miễn có lành
Làm chi đo đắn nhọc đua tranh!
(Thơ quốc âm, bài 29)
Nguyễn Bỉnh Khiêm làm thơ khá nhiều, nhất là thơ chữ Hán, chính ông
đã nói rõ điều đó trong bài Tựa cuốn Bạch Vân am thi tập. Riêng thơ quốc âm
không rõ tổng số là bao? Trong số 177 bài thơ còn lại, có khoảng mấy chục bài
giống thơ quốc âm của Nguyễn Trãi hoặc thơ quốc âm thời Hồng Đức, có thể do

21


những người thừa kế khi tập hợp đã chép lẫn lộn thơ người này với người khác,
cùng với những khảo dịch khó tránh khỏi.
1.3.2. Bạch Vân quốc ngữ thi tập
“Bạch Vân” là tên hiệu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nó còn có cách hiểu
khác là mây trắng, ngụ ý tâm hồn của tác giả cả đời trong trắng, cao cả, không
có vết bùn nhơ. “Quốc ngữ thi tập” là tập thơ viết bằng chữ quốc ngữ. Có thể
hiểu Bạch Vân quốc ngữ thi tập là tập thơ viết bằng chữ quốc ngữ của Bạch Vân
cư sĩ (sử dụng theo cách nói của chính tác giả).
Theo Bùi Văn Nguyên trong phần mở đầu cuốn Thơ văn Nguyễn Bỉnh
Khiêm, tập một, Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm lâu nay chỉ
nghe nói có 100 bài, chép trong các bản Nôm khác nhau với nhiều kí hiệu:
AB.157, AB.309, AB.414,... trước ở Thư viện khoa học xã hội, nay ở Thư viện
Hán - Nôm 1918 - 1926, trong Tạp chí Nam Phong, hay năm 1932, trong sách
Văn Đàn bảo giám của Trần Trung Kiên, hay năm 1939 trong Bạch Vân am thi
tập do Sở Cuồng Lê Dư soạn.
Năm 1957, trong phần phụ lục sách Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà thơ triết lí
do Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà viết.
Năm 1974 trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập do Nguyễn Quân soạn dưới

chế độ Sài Gòn tạm chiếm thì một phần, chứ không phải 100 bài nói trên, được
phiên âm và giới thiệu, mỗi người một kiểu.
Khoảng những năm 60, kí hiệu AB635 được phát hiện dưới cái tên Trình
Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập, trong đó có 177 bài Nôm chứ không
phải chỉ có 100 bài như các bản Nôm nói trên, tuy nhiên trật tự ghi chép lại lộn
xôn, so sánh thì vẫn đúng, có thêm 77 bài không kể 12 bài chữ Hán được chép
phần cuối sách.
Nhà xuất bản Văn học Hà Nội đã nhờ người phiên vỡ 177 bài trong kí
hiệu AB.635.
Năm 1983 nhóm Đinh Gia Khánh - Hồ Như Sơn - Bùi Duy Tân chọn 161
trong tổng số 177 bài đưa vào tập Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.

22


Theo Bùi Duy Tân trong cuốn Từ điển văn học Bộ mới, Bạch Vân quốc
ngữ thi tập (Thơ quốc ngữ Bạch Vân), tập thơ Nôm của nhà thơ Việt Nam
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có tên: Trình quốc công Bạch Vân thi tập (Tập thơ
Bạch Vân của Trình Quốc công).
Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập (Tập thơ của Trình Quốc
công Nguyễn Bỉnh Khiêm, AB, 309; AB, 635...). Theo Lê Quý Đôn và Phan
Huy Chú sách này gồm hai quyển, nhưng có lẽ nguyên cảo đã thất lạc; các bản
còn lại sao chép không thống nhất, có 100 bài, có bản non 200 bài, bản nào cũng
có một số bài lẫn lộn với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Đối chiếu so sánh
thì tập thơ có khoảng 170 bài. Thể thơ chính là Bát cú Đường luật có xen nhiều
thể pha lục ngôn, không ghi rõ đầu đề từng bài, từng môn loại như Quốc âm thi
tập hay Hồng Đức quốc âm thi tập. Cũng gần giống như Bạch Vân am thi tập,
chủ đề nổi bật của tập thơ Nôm này là ca tụng cảnh nhàn dật, phủ định công
danh phú quý, than trách thế tục đen bạc, khuyên mọi người sống theo đạo lý tự
nhiên để đạt đến sự hài hòa với tự nhiên, xã hội trong cõi phù thế đảo điên, trọc

loạn.
Tập thơ được viết trong thời gian tác giả đã trí sĩ nên tư tưởng nhàn dật
bao trùm, những lời khuyên miễn, trách móc thường nhẹ nhàng, kín đáo, có kinh
nghiệm của sự từng trải và am hiểu tâm lý người đời. Thơ có vẻ nặng về triết lý,
nhẹ về cảm xúc, đọc qua tưởng như những lời giáo huấn khô khan. Sự thực nặng
lòng thương nước, lo đời, quan tâm đến thế sự, thơ của Bạch Vân cư sĩ bao giờ
cũng ân cần, tình nghĩa, đặc biệt khi nói về thiên nhiên, khi miêu tả cuộc sống
của nhà thơ ở thôn dã thì lời thơ vừa trong trẻo, hồn nhiên, vừa đậm phong vị
dân tộc.
“So với thơ Nôm thế kỉ XV, Bạch Vân quốc ngữ thi ít dùng hơn những từ
ngữ điển cố Hán học, tiếp tục truyền thống thơ Nguyễn Trãi, Bạch Vân quốc
ngữ thi là một cố gắng mới đẩy mạnh quá trình Việt hóa trong sáng tác thơ văn
Nôm; đồng thời lại kết hợp sử dụng tục ngữ, thành ngữ và khẩu ngữ để miêu tả
những nét sinh hoạt chất phác ở thôn quê cũng như biểu hiện những khái niệm,
triết lý trừu tượng. Bạch Vân quốc ngữ thi đạt đến mức giản dị về mặt ngôn ngữ
23


×