Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

BÀI THUYẾT MINH về CHÙA THẦY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.38 KB, 14 trang )

BÀI THUYẾT MINH VỀ CHÙA THẦY

Nếu chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời ngài Từ Đạo Hạnh
thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác
của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này. Chùa Thầy
dựa vào sườn Tây Nam một ngọn núi đá vôi có nhiều hang động là núi
Thầy tức núi Sài Sơn thuộc làng Hoàng Xá, xã Phượng Cách, huyện Quốc
Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 30km. Trong một bài ký ghi trên
vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy "như viên ngọc nổi
lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt
như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu
độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải
lụa".
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư
Từ Đạo Hạnh tu trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm
chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên
chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ XVII, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc
chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu,
nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên
thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng
chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam,
trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long
Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Thủy đình mọc lên giữa
Long Chiểu, nơi thường diễn trò rối nước đặc sắc, chính là viên ngọc ở
đầu rồng. Hai giếng là hai mắt rồng. Hai cầu cổ có mái ngói do Trạng Bùng
Phùng Khắc Khoan xây dựng năm 1602 là hai răng nanh của miệng rồng:
Cầu Nhật Tiên ở bên trái trông vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ
giữa ao. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải dẫn vào đường lên chùa Cao trên
núi.



Đối diện với thủy đình là chùa Cả được xây dựng theo kiểu chữ "Tam"
gồm 3 nếp nhà dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Nếp ngoài là nhà tiền
tế, nếp giữa thờ Phật, nếp trong cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Trong
chùa có đặt 3 pho tượng diễn tả 3 "kiếp" của Thiền sư Từ Đạo Hạnh :
Tăng, Phật và Đế Vương. Bên trái là tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ
bạch đàn lắp máy tự động có thể đứng lên ngồi xuống được, nhắc nhở
thời kỳ Ngài đi tu ở Hương Hải am đã làm thuốc trị bệnh cứu người và
dày công sáng tạo môn nghệ thuật múa rối nước cổ truyền để cho dân
giải trí. Chính giữa là tượng Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen,
tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa vóc vàng. Bên phải là tượng Thiền sư
sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà
vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình
khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.
Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ
Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh
Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ mười tám
vị La Hán. Đường qua cầu Nguyệt Tiên dẫn đến những bậc đá đi lên núi,
nơi có chùa Cao vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự. Trên
vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn
Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài
Từ Đạo Hạnh thoát xác, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.
Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá
hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,? trong đó có một phiến đá nhẵn lì
được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi
chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ giữa thiên nhiên khoáng
đạt như hình ảnh trong bài thơ của Nguyễn Khuyến :


Hóa công xây đắp biết bao đời
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời

Buổi sớm gió tuôn, trưa nắng gắt
Ban chiều mây họp tối trăng chơi
Bày hàng hoa quả tư mùa sẵn
Giãi thủ giang sơn bốn mặt ngồi
Bán lợi mua danh nào những kẻ
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.
Theo lối mòn ven núi, leo lên vài chục bậc đá nữa sẽ đến hang Cắc Cớ, nơi
tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi
lại:
Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
Từ hang Cắc Cớ, một con đường có nhiều cây đại thụ dẫn lên đền
Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời
gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u
và hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu. Ở chân núi
Thầy, về phía Tây có chùa Bối Am còn gọi là chùa Một Mái, vì chùa chỉ có
một mái lợp bằng ngói, còn mái kia chính là vòm hang.


Nét độc đáo của thắng cảnh chùa Thầy là ở sự kết hợp giữa những con
đường, những mái chùa vươn lên tầm cao, với những vẻ đẹp của hồ
nước trải rộng và những bí ẩn trong chiều sâu lòng đất. Cả ba chiều
không gian đó kết tụ lại trong một quần thể thiên nhiên đa dạng về kiến
trúc và màu sắc. Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7
tháng ba âm lịch hàng năm, là dịp để con người chiêm bái danh lam
thắng cảnh này. Trong ngày hội, nhiều Tăng Ni từ các nơi khác trong
vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy
hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn một diễn xướng có tính chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp
của các nhạc cụ dân tộc.
Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn

có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng
vang ở cả nước ngoài. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy
còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu
trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:

Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.


Theo thuyết phong thủy, chùa Thiên Phúc, thường gọi là chùa Thầy, nằm
trên thế đất hàm rồng của ngọn núi Sài, được coi là quái long ở vị trí
trung tâm, nơi có thập lục kỳ sơn mang hình tượng của những con lân,
phụng, rùa chầu về. Phía trước chùa là ngọn Long Ðẩu làm tiền án luôn
phủ bóng xanh tươi xuống mặt hồ Long Trì, minh đường của công trình.
Với vị trí đắc địa này, ngôi chùa được coi là đầu của con rồng với sân
trước chùa là lưỡi rồng đang lè ra uống nước, hai bên là cầu Nhật Tiên
Kiều và Nguyệt Tiên Kiều như những sợi râu rồng vểnh lên vờn hòn ngọc
giữa hồ-tòa Thủy Ðình. Cảnh trí của tổng thể công trình nơi non xanh
nước biếc tạo nên một bức tranh sơn thủy vô cùng hữu tình.
Tòa chùa chính được bố cục theo hình nội vương ngoại quốc với hình
chữ công phía trước ứng với 3 tòa tiền đường, thiêu hương, thượng điện
là nơi thờ Phật và một tòa nhà chữ nhất nằm ngang phía sau là nơi thờ
thiền sư Từ Ðạo Hạnh. Tuy nhiên, nhìn từ ngoài cấu trúc của chùa lại nổi
lên ba tòa chùa Hạ, Trung, Thượng được dựng trên 3 bậc nền cao dần từ

trước ra sau rất nhịp nhàng uyển chuyển và có thể chiêm ngưỡng từ
nhiều vị trí mà không bị che khuất. Chùa Hạ và chùa Trung đều có 3 gian
2 chái với bộ mái tựa ra 4 phía bởi các đầu đao vươn cong, vừa bè ra bề
thế, vừa nhẹ nhàng như con thuyền đang bồng bềnh giữa những tán lá,
khóm cây và khói hương nghi ngút.


Tòa chùa Thượng chỉ có gian 2 chái nhưng dàn ra không kém hai tòa
trước là bao với mặt bằng gần vuông. Sự thay đổi độ cao giữa các tòa
điện và sân trong tạo ra sự thay đổi về nhịp điệu, không gian kiến trúc
làm khách tham quan không cảm thấy đơn điệu, nhàm chán, gây được
những hiệu quả và xúc cảm thẩm mỹ rất cao. Phía trước chùa, trên mặt
hồ Long Trì là nhà Thủy Ðình, theo kiểu Phương đình một gian hai dĩ với
kiến trúc chồng diêm hai tầng tám mái xòe ra 4 phía như một bông sen
khổng lồ từ mặt nước nhô lên rất ấn tượng. Ðượm thêm cho vẻ hữu tình
của chùa là hai cây cầu Nhật-Nguyệt Tiên Kiều được làm theo lối thượng
gia-hạ kiều nhẹ nhàng và duyên dáng.
Vẻ đẹp của chùa Thầy đã từng được Ðịnh Vương Trịnh Căn ca ngợi trên
một tấm bia chùa: "...như viên ngọc nổi lên giữa đám ruộng sỏi đá, rạng
vẻ xuân tươi ở cả bốn mùa. Ðộng Tiên hệt như cõi thanh hư, bên vách
còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến độ cầu tiên Nhật Nguyệt đôi
vầng. Núi tựa bình phong, sông như dải lụa. Ðá in dấu lạ mãi mãi ghi điều
thần diệu... Ðó chính là vườn xanh núi thêu dời đền chốn nhân gian vậy
Truyền thuyết về chùa Thầy
Chùa Thầy được gọi là Thiên Phúc tự: Trời ban phúc, gắn liền với tên
chùa là truyền thuyết về nhà sư Từ Đạo Hạnh. Một ngôi chùa độc đáo có
một không hai ở miền BắC


Chùa Trăm Gian, chùa Trầm (Hà Nội) vừa bị xâm hại gây nên không ít

nuối tiếc cho những ai yêu thích kiến trúc cổ. Ở vùng đất xứ Đoài xưa,
chùa Trăm Gian, chùa Trầm, chùa Tây Phương và chùa Thầy là 4 ngôi
chùa cổ nổi tiếng khắp cả nước. Trong đó, Chùa Thầy được gọi là Thiên
Phúc tự: Trời ban phúc, gắn liền với tên chùa là truyền thuyết về nhà sư
Từ Đạo Hạnh. Một ngôi chùa độc đáo có một không hai ở miền Bắc.
Truyền thuyết về một thiền sư
Chùa Thầy, cái tên quá đỗi quen thuộc đối với mảnh đất xứ Đoài với bề
dày văn hóa lâu đời. Ngôi chùa cổ nằm ở chân núi Sài, xã Sài Sơn, huyện
Quốc Oai, Hà Nội. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là
chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Khám phá ngôi chùa này
có nhiều điều lý thú chắc hẳn ít người biết.
Ông Đào Ngọc Dư, một người cao niên sống cạnh chùa Thầy cho biết:
"Ngôi chùa được xây dựng trên một mảnh đất hình rồng. Từ ngày xưa
cách đây hàng chục thế kỷ, ông cha ta đã cố tình xây dựng chùa theo một
kiến trúc vô cùng độc đáo theo hình con rồng". Quả vậy, không chỉ là lời
kể của ông Dư nữa mà những gì chúng tôi trực tiếp tìm hiểu cũng thấy
những gì ông nói là có lý. Chùa Thầy đặc biệt và độc đáo ở chỗ mọi chi tiết
nhỏ tạo nên một "dáng long" hoàn chỉnh. Núi Sài Sơn mà chùa tựa vào là
đuôi rồng, sân chùa là hàm trên, bờ hồ là hàm dưới con rồng. Giữa đình
có cái ao nhỏ gọi là Thủy đình chính là viên ngọc rồng. Giữa cái ao nước
ấy có nhà Thủy Đình, nơi để đời đời người làng Sài Sơn diễn lại những
vở rối nước để tưởng nhớ tổ nghề và cũng là để lưu giữ văn hóa quê
hương. Qua thời gian phôi phai, Thủy Đình đã cũ kỹ càng gợi lên sự cổ
kính và tạo nên một không gian như trong cổ tích.
Theo ông Dư, người xưa cũng quy ước rằng bên trong chùa có cầu Nhật
Tiêu Kiều và Nguyệt Tiêu Kiều là hai nanh con rồng, hai bên có hai giếng
là mắt rồng. Không gian chùa thoáng đãng, gồm có ba lớp chùa hạ, chùa
trung, chùa thượng tạo thành đầu rồng, còn gác chuông, gác chống hai



bên là tai rồng.
Người Sài Sơn nói rằng trước khi thiền sư Từ Đạo Hạnh đến với vùng đất
này lập chùa thì ở dưới chân núi đã có hồ nước. Phía trước hồ có một doi
đất lớn chạy từ khoảng giữa của dải núi nhô ra như một con rồng đang
trườn mình uống nước hồ. Những người xây dựng chùa đã đắp cho doi
đất rộng thêm ra, đủ để xây dựng một ngôi chùa bề thế. Người ta cũng ví
dãy núi Sài Sơn như một con rồng đang trầm mình, đầu gác lên thành
ngọn Long Đẩu. Hoặc ví Sài Sơn chính là con rồng và ngọn Long Đẩu là
viên ngọc trong miệng rồng. Không chỉ là chốn Phật mà chùa Thầy còn là
nơi quần cư, bốn bề làng xóm bao bọc ngày một đông đúc và phồn thịnh.
Đến chùa Thầy chúng tôi vẫn cảm nhận được sự cổ kính yên bình qua
từng đường nét kiến trúc có từ thời Lý cho đến ngày nay vẫn không bị
mất đi.


Người dân Sài Sơn vẫn truyền miệng câu chuyện đầy màu sắc huyền bí về
thiền sư Từ Đạo Hạnh. Theo truyền thuyết thiền sư Từ Đạo Hạnh trước
đây là thầy lang, có tấm lòng nhân ái đi chữa bệnh cho những người dân
nghèo khổ trong vùng mà không lấy tiền. Ngày ngày, ngài lên núi tìm
thuốc chữa bệnh cho dân, ngoài ra còn dạy dân biết trồng cây ăn quả, rau
màu và các trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà. Đặc biệt ngài còn được
coi là tổ nghề của múa rối nước bởi vậy người dân nơi đây cảm phục,
kính trọng gọi thiền sư bằng cái tên gần gũi mà kính trọng là Thầy.
Phía trong nơi thờ nhục thể của thiền sư là một khám thờ được điêu
khắc tỉ mỉ, họa tiết văn hoa rất tinh xảo. Ông Dư cho biết chỉ khi nào lễ
hội diễn ra thì khám thờ này mới được mở ra để những người nhà chùa
cắt cử tắm rửa, thay lễ phục. Đã từ lâu người Sài Sơn vẫn tin rằng kẻ nào
dám tự ý mở khám ra thì chắc chắn sẽ gặp tai ương. Đây được coi là một
bức tượng độc đáo chỉ có ở chùa Thầy. Trải qua hàng chục thế kỷ nhưng
bức tượng vẫn giữ được nét đẹp, mặc dù phải trải qua bao nhiêu thăng

trầm biến cố của lịch sử.
Một quần thể cổ tích
Chùa Thầy còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý giá khác nhau như hai vị
tượng hộ pháp lớn nhất Việt Nam với chiều cao 4m nặng 3 tấn làm từ đất
sét và giấy bản đã hơn 400 năm tuổi, bức phù điêu Thập điện Diêm
Vương nói về cảnh địa ngục, khuyên răn con người sống tốt nếu không
sau này bị đẩy xuống địa ngục, hay cây cột gỗ Ngọc Am có từ thế kỉ XI…
Nhưng có giá trị nhất, được nhiều người biết đến chính là bệ đá kép
"Bách hoa đài" với những nét điêu khắc tinh tế.
Chùa Thầy độc đáo bao nhiêu thì núi Sài Sơn hay còn gọi là núi Thầy kỳ bí
bấy nhiêu. Ngọn núi được chọn để chùa Thầy tựa lưng ấy lại mang trong
mình nhiều điều huyền bí. Núi Sài Sơn có hình con rồng. Và trong lòng
ngọn núi đó lại là một cái hang tưởng chừng như không đáy, người ta ví
đó bụng rồng và còn là nơi được coi là điểm giao nhau của đất trời.
Từ chân núi nơi chùa Thầy tọa lạc, con đường 251 bậc thang dẫn lên
chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn tự, là nơi thiền sư


Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Hai bên đường vô số cây đại cổ thụ thân
gộc gạc góc cạnh sần sùi nằm ngả nghiêng có tuổi đời hàng trăm năm.
Chúng tôi như lạc vào chốn cổ tích và tưởng chừng như những bậc đá đã
nghìn năm tuổi dưới chân mình nối nhau ngoằn nghèo không có bậc cuối
cùng.
Từ chùa Cao đi ngược lên núi là đến đền Thượng, gần đền Thượng có
hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như
tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò, đến hang Gió, chùa Bối Am, còn gọi là
chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau
chùa dựa vào vách núi.

Ở nơi cao nhất là miệng hang Cắc Cớ. Và đó cũng là đường dẫn tới nơi

sâu nhất. Cái bụng rồng không đáy chẳng ai biết dẫn tới đâu. Chỉ biết
rằng ở Sài Sơn những năm 80 của thế kỷ trước có người cất công cả tuần
lễ thám hiểm hang động mà vẫn không tìm đến đáy. Không biết từ lúc
nào, người ta truyền nhau về miệng hang Cắc Cớ hay còn gọi là "Thần
Quang Tự" trên núi Sài Sơn là nơi khởi đầu để... xuống 9 tầng địa ngục,
nơi có con quỷ án ngữ cổng trời, làm công việc "tuyển" các linh hồn
trước khi cho lên cõi Niết bàn đầu thai làm kiếp khác hay đày xuống âm
phủ làm mồi cho chó ngao, vạc dầu... Huyền thoại thì sẽ mãi là điều bí ẩn.
Chỉ có điều, mãi đến giờ dân gian vẫn truyền câu ca: "Gái chưa chồng
trông hang Cắc Cớ. Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy". Do vậy, rất nhiều
bạn trẻ vẫn tin rằng chùa Thầy với núi Sài Sơn vẫn là chốn linh thiêng để
se duyên.
May mắn làm sao , hôm đó chúng tôi có dịp đi chùa Thầy vào đúng ngày mồng một.
Mùa thu xứ Bắc , trời không một chút nắng , thỉnh thoảng có mưa lâm thâm . Người
miền Nam ra Bắc chỗ nào cũng muốn đi , muốn đến. Danh thắng này nằm trong
chương trình tham quan xứ Ðoài của đoàn chúng tôi từ trước: đến chùa Thầy để
chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc của nước ta thời nhà Lý, chưa đến chùa
Thầy coi như chưa ra đất Bắc. Khởi hành từ Ðại Lải , Vĩnh Phúc , ngược trở lại con
đường đã đến từ hôm mới ra nhưng thấy nơi nào cũng mới . Nước sông Hồng đang
lên cao đỏ quạch màu phù sa , nếu không có cái màu đỏ này cứ ngỡ như mình đang ở
miền Tây , và tôi chợt cảm thấy hạnh phúc vô cùng khi mình đã có dịp đi qua hai
dòng sông gắn liền từ thời thơ ấu trong những cuốn sách địa lý mỗi khi tập vẽ bản đồ.


Hà Nội hôm đó ngày chủ nhật , dập dìu người đi đền , chùa cầu phúc và đặc biệt là
hoa , nơi nào cũng thấy hoa , hoa hồng đóa nhỏ , lớn hơn hoa tiểu muội ở miền Nam
một chút , hoa chở trên xe đạp về phố , hoa bán trên đường , trên phố .... Xe rẽ vào
phố Chùa Hà , chật ních xe cộ , lớp người đi , lớp người dừng lại mua nhang , hoa ,
còi xe cứ tin tin hết xe hai bánh đến xe bốn bánh , rộn ràng , nôn nóng . Thoát khỏi
nút giao thông chùa Hà, mới thấy nhẹ nhõm khi xe bắt đầu ra

ngoại thành về hướng Hà Tây .
Những cánh đồng lúa xanh rờn , ngút mắt níu bầu trời xuống thấp
hơn một chút . Một vài ngọn núi đá vôi nhô lên nổi rõ trên nền tấm
thảm nhung xanh của lúa . Mười tám ngọn núi đá vôi , ngày xưa ,
vua Lý Công Uẩn khi đi kinh lý qua đây đã nói : “Ta thấy nơi đây
là nơi sơn kỳ thủy tú “ , và rót ba chén rượu đặt cho vùng đất là Hạ Long cạn giờ chắc
không còn đủ . Tôi chợt nhớ lại vùng đất Ninh Bình vừa đi qua mấy ngày hôm trước ,
những ngọn núi đã vôi đã bị ngoạm dần . Ðá vôi được nghiền làm xi măng , chỗ núi
mất đi đã thành nhà , thành phố. Một người trong đoàn , quê gốc Ninh Bình ngâm
nga : “Sơn kia rày đã nên nhà” với một chút ngậm ngùi , luyến tiếc .
Thủy đình hiện ra trong mắt , một đội quân tí hon tiến đến tiếp thị : “Ðây là sân khấu
rối nước , phim “Ðêm hội Long trì “ quay tại đây, bác mua giúp cháu mấy con rối, kỷ
niệm một lần đến chùa Thầy...” . Một cô bé khoảng chừng mười lăm tuổi sẵn sàng
thuyết minh cho du khách mà không đòi hỏi một tí thù lao nào , miễn sao chút nữa :
“Bác mua giúp cháu ít quà”. Tôi đồng ý . Bằng một giọng nói nhanh , líu lo như
chim , Nga , cô bé thuyết minh kể cho tôi nghe về chùa Thầy , nơi gắn bó từ thuở mới
sinh ra đời, những câu chuyện, những ngày tháng năm nằm lòng trong ký ức của
người dân sống trong vùng , từ đời này sang đời khác , bám lấy chùa làm kế sinh nhai.
Chùa Thầy tên chữ là “Thiên Phúc Tự” nằm ở chân núi Sài thuộc địa phận xã Sài Sơn
– huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây , cách Hà Nội khoảng 20km về phía Tây Nam . Chùa
được xây dựng vào thời vua Lý Nhân Tông (1072-1127) lưu dấu tu hành của một vị
cao tăng thời Lý , Thiền sư Từ Ðạo Hạnh . Theo thiền phả thì Thiền sư họ Từ tên tục
là Lộ , con quan đô sát Từ Vinh , mẹ là Tăng thị Loan , quê ở An Lãng , huyện Vĩnh
Thuận nay là làng Láng , huyện Từ Liêm , Hà Nội .
Chuyện kể rằng , từ thuở nhỏ Thiền sư đã có những hành động khác thường . Lớn lên
ngài ứng thi khoa bạch liên , đỗ đầu nhưng không ra làm quan mà xuất ra hoc đạo , rồi
cùng với ngài Giác Hải , không lộ sang Tây Thiên (Aán Ðộ) cầu pháp . Khi đắc đạo ,
ngài trở về núi Sài dựng gậy tích ngày đêm tập tụng. Khi lòng thiền được rộng mở
ngài đi khắp bốn phương tham thiền vấn đạo . Lúc ngộ được tâm ấn Thiền sư trở về
giảng đạo , dạy học, hái lá làm thuốc giúp dân , tổ chức cho dân sinh hoạt văn hóa như

đá cầu , đánh vật , múa rối nước .... Do đó nhân dân cảm phục kính mến gọi thiền sư
bằng một từ thân mật , gần gũi là “Thầy”. Chùa ngài tu là chùa Thầy , núi ngày hóa đá
là núi Thầy , làng ngài sống là làng Thầy , thậm chí đến cả tổng cũng là “Tổng Thầy”.
Theo truyền thuyết phong thủy thì núi Sài là con rồng lẻ đàn (Qoái Long) , sân chùa


là lưỡi rồng , thủy đình là ngọc, còn xung quanh “Thập lục kỳ sơn” là quy là phượng
chầu về.
Ban đầu , chùa Thầy chỉ là thảo am nhỏ mang tên Hương Hải . Nay tổng quan
chùa Thầy gồm có : Trước chùa có hồ Long Trì (ao rồng) giữa hồ có nhà thủy đình là
hậu trường của nghệ thuật biểu diễn trò rối nước trong ngày hội . Hai bên chùa có hai
chiếc cầu xây dựng theo kiểu “Thượng gia hạ kiều” , bên trái là Nhật tiên kiều thông
ra đền thờ tam phủ , bên phải là Nguyệt tiên kiều bắc qua áo lên núi xây dựng vào
năm 1602 do ông “Trạng Bùng” xây cung tiến.
Toàn khu chính điện của chùa là một khuôn viên hình chữ nhật gồm 3 tòa nhà
to và dài xây song song hình chữ tam ,có hai dãy hành lang chạy kèm hai bên , đầu
hồi thờ A La Hán , sau chùa là nhà tổ , gác chuông , gác trống hệ thống kiến trúc theo
kiểu “Nội Vương ngoại quốc” ngôi bảo điện đồ sộ chỉ có 36 mộng chính , còn gỗ
được xếp chồng lên nhau nhưng lại rất vững chắc.
Bước vào chùa Thượng (chùa chính) , Nga nhắc tôi bỏ giày phía ngoài rồi mới bước
vào gian chánh điện . Nga thuyết minh cho tôi, gỗ trong chùa chính là gỗ lấy từ Hòa
Bình (Thanh Hóa) đưa về, khoảng hơn 100 tấn gỗ , chủ yếu là gỗ lim và toàn bộ
những chi tiết đều được kết nối bằng mộng , tất cả qua 7 lần trùng tu . Có hai cột gỗ
nguyên bản từ năm 930 bằng gỗ kim giao , là một loại gỗ phản ứng ngả màu đen khi
gặp độc được không hề bị mối mọt qua thời gian , và người ta tính toán rằng hai cột
gỗ này còn chịu được cả ngàn năm nữa . Có ba gian thờ trong chùa chính : gian giữa
thờ tượng Phật A Di Ðà , gồm bên trái có tượng Ðức quán Âm , bên phải là tượng Ðại
Thế Chí , phía dưới là bệ đá “Bách Hoa Ðài” tạc từ thời Trần thế kỷ thứ tám , bên trên
để hòm lịch triều tôn phong của Thiền sư , gồm có 36 sắc phong bằng giấy dó không
hề bị hư theo thời gian , dưới nữa là tượng Thiền sư nhập định trên toà sen tạc vào

thời Lý , thế kỷ thứ sáu , một án nhang bằng gỗ vàng tâm, văn hoa chạm trỗ nguyên
bản cách đây 500 năm có một chỗ bị khuyết . Chỉ vào chỗ bị khuyết này, Nga bảo với
tôi : “ Giả thuyết cho rằng ngày ấy con người không cao , mỗi lần đến viếng chùa, mỗi
người người chạm tay một ít lâu dần mòn đi như thế”.
Gian bên trái chùa chính thờ tượng toàn thân Thiền sư bằng gỗ chiêm đàn đặt trong
khám . Giọng líu lo như chim cô bé kể với tôi rằng : Hàng năm vào ngày mùng 7
tháng 3 tổ chức lễ rước Thầy . Từ một giờ chiều ngày mùng 5 là lễ Mộc dục, khám
được mở cửa làm lễ . Gian bên phải chùa chính thờ tượng vua Lý Thần Tông , là hậu
thân của Thiền sư . Tượng đức vua bằng gỗ mít , làm từ thế kỷ mười lăm , đặc biệt ở
gian này có một đôi chim phượng cũng bằng gỗ mít , dưới chân là thân cây mít tròn
có đường kính lớn hơn 1 mét bên trên tạc hình đôi phượng làm công tác đưa thư .
Bước sang chùa Hạ , là nơi lễ bái và giảng đạo 2 ngày trong tháng. Ngày xưa , trong
ba tháng hè nơi đây có khoảng 300 vị sư về học đạo . Vui nhất là khi chỉ vào bức phù
điêu “Thập điện diêm vương” bằng gỗ mít , mới được làm cách đây 5 năm , ghép gỗ
chạm trỗ hoa văn copy lại bản chính , cô bé líu lo: “Ở trên dương thế người buôn bán
điêu toa chết xuống âm phủ sẽ bị đưa vào vạc dầu , người nào cân gian , cân dối chết
sẽ bị quả cân đập vào đầu.....” Như trả một bài học thuộc lòng , cô bé kể rành rọt


chuyện Mục Liên, Thanh Ðề, chuyện ân đền oán trả ..... nghe như thật. Nhìn bức phù
điêu hoành tráng quá , không kềm được tôi hỏi một câu hơi “thực tế phũ phàng” :
“Bức phù điêu này làm hết bao nhiêu tiền vậy cháu?”. “Dạ 40 triệu đó bác”. Cô bé trả
lời rồi đưa tôi sang chùa Trung. Tôi ngoái nhìn lần nữa mái nhà lợp bằng ngói mũi
hài của chùa hạ , có những cây cỏ khô mọc thẳng đứng lên mái ngói giống như những
ngôi nhà cổ ở Hội An .
Nổi bật nhất ở bên trong chùa Trung là tượng hai vị hộ pháp thật to lớn . Cô bé Nga
khẳng định với tôi rằng đây là hai tượng hộ pháp to nhất nước , tượng ngồi mà đã cao
đến bốn mét , được làm với hơn hai tấn đất sét và giấy bản , cách đây khoảng 400
năm . Chỉ vào hai tượng ông Thiện , ông Aùc , cô bé tròn môi : “Bác đừng tưởng là
ông Thiện tượng trưng cho việc thiện , ông Aùc tượng trưng cho việc ác nhé . Ý nghĩa

của ông Aùc ở đây là khuyên người ta không làm việc ác mà phải làm việc thiện , gọi
là cải ác đấy” . Tôi gật gù ra chiều tán thưởng . Chùa Trung có rất nhiều tượng , từ vị
Tuyết Sơn gầy ốm , phật Di Lặc tươi vui , Phật bà quan âm thiên thủ , thiên nhãn , các
vị sao Nam Tào Bắc Ðẩu đến Bát bộ kim cương là tám vị tướng có sức khỏe và trí
tuệ phi thường ... Tất cả làm bằng thạch cao có từ thế kỷ mười tám. Bước chân ra
khỏi của chùa Trung , cô bé chỉ cho tôi xem một hòn đá chìm có kích thước khoảng
2x1m và nói : “Ðây là hòn đá chìm mà thiền sư Từ Ðạo Hạnh đã yểm bùa , hơn 1000
năm nay không xê dịch được , với ý nghĩa như là giữ gìn hiện vật trong chùa không
bị mất cấp , không ai có thể lấy được thứ gì trong chùa ra ngoài mà bước qua khỏi hòn
đá chìm này” . Tuy không tin dị đoan, nhưng nhìn quang cảnh chùa ngày mùng một ,
dập dìu khách du lịch , người lễ bái , trong tôi cũng nhen nhóm một ý nghĩ: “Chùa
Thầy tồn tại qua bao nhiêu năm , nhất là giữa những năm bon đạn ném xuống như
mưa trên đất Bắc , khiến lòng người không tin cũng phải tin”.
Tôi theo cô bé Nga ra khu vực bên ngoài chùa chính , qua hai chiếc cầu, đến
đền Tam Phủ , rồi bước bãi cỏ nhìn bao quát hết quang cảnh chùa , phía trước mặt tôi
là ao rồng có thủy đình nổi lên giống như một sân khấu rối nước , quay ra phía sau
trên núi cao kia có nhiều hang động như : hang Thanh Hóa , hang Các Cớ , hang Gió ,
hang Phật sinh .... Và gần 50 chiếc bia đá cổ nằm rải rác trên núi đang chờ thử sức
bền của đôi chân mang giày cao gót của tôi . Nhưng tiếng gọi của mọi người trong
đoàn đã làm tiêu tán ý nghĩ này : chúng tôi còn phải đi nhiều nơi nữa trong ngày . Ừ
thôi , thời gian có hạn , cũng là một dịp “cưỡi ngựa xem hoa” khi ra xứ Bắc . Giá mà
mình có nhiều thời gian hơn để có thể ngắm nhìn tường tận kỹ càng một nơi mà tất cả
những người đi theo ngành mỹ thuật , điêu khắc của đất nước đều phải đến đây nghiên
cứu . Một di tích lịch sử cấp I của Quốc Oai , một công trình kiến trúc độc đáo , một
danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Bắc Hà .....
Tặc lưỡi tiếc nuối , tôi theo cô bé thuyết minh ra ngoài và mua giúp một ít quà
của chùa Thầy : bánh chè lam , kẹo vừng , những con rối .... Lên xe , tôi ngoái nhìn
lần nữa tổng quan cảnh chùa Thầy , nhủ thầm sẽ trở lại một ngày nào đó , và dứt
khoát sẽ có bọn trẻ con đi cùng. Nhưng chắc là khi đó chúng nó phải đủ lớn để hiểu



được ý nghĩa công trình kiến trúc độc đáo này và đủ sức khám phá cho bằng hết
những hang động trên núi kia.



×