Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Giới thiệu âm nhạc truyền thống và dân gian nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.41 KB, 6 trang )

Âm nhạc truyền thống và dân gian Nhật Bản
Có hai hình thức âm nhạc được công nhận là cổ nhất của âm nhạc truyền thống Nhật
Bản. Đó là shōmyō (声明 hay 聲明?) hay Phật hát, và gagaku (雅声?) hay dàn âm nhạc
triều đình, cả hai đều có lịch sử từ thời Nara và Heian.[6] Gagaku là loại ca nhạc cổ
được biểu diễn trong cung điện hoàng gia từ thời Heian[phạt cần]. Kagura-uta (神声歌),
Azuma-asobi(東遊) và Yamato-uta (大和歌) là các tiết mục địa phương. Tōgaku (唐声)
và komagaku xuất phát từ thời nhà Đường của Trung Quốc thông qua bán đảo Hàn
Quốc[phạt cần]. Thêm vào đó, gagaku chia ra làm kangen (管弦) (âm nhạc nhạc cụ) và
bugaku (舞声) (nhảy đi kèm với gagaku).
Bắt nguồn từ đầu thế kỷ 13 chính là honkyoku (本曲 "bản gốc"). Có bản chơi đơn
là shakuhachi (尺八) được chơi bởi các nhà sư của trường thiền Fuke của phái phật
Sơn[phạt cần]. Những thầy tu này, gọi là komusō ("hư vô tăng"), chơi honkyoku để xin bố
thí và sự khai sáng. Trường Fuke đã ngừng hoạt động từ thế kỷ 19 nhưng các bản viết
và truyền miệng của honkyoko vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay, mặc dù thường xuất
hiện trong bối cách các buổi biểu diễn.[phạt cần] Các samurai vẫn thường nghe và tham gia
biểu diễn trong các hoạt động âm nhạc này và qua đó làm phong phú thêm cho cuộc
sống và hiểu biết của mình.[phạt cần].
Âm nhạc truyền thống
Đàn Biwa hōshi, Heike biwa, mōsō, và goze

Đàn Biwa.


biwa (琵琶 - Tiếng Trung: pipa), một dạng đàn cổ ngắn, được chơi bởi những người
nghệ sỹ lang thang (biwa hōshi) (琵琶法師, và các bài hát thì như những câu chuyện.
[phạt cần]
Truyện nổi tiếng nhất là Heike truyền kỳ, một câu truyện về chiến thắng oanh liệt
của nhà Minamoto trước nhà Taira[phạt cần]. Biwa hōshi bắt đầu tổ chức thành những hội
(tōdō) cho nhưng người trông có vẻ yếu ớt vào đầu thế kỷ 13. Hiệp hội này cuối cùng
cũng nắm giữ phần lớn của nền văn hóa âm nhạc Nhật Bản. [phạt cần] Biwa trở thành nhạc
cụ truyền thống Nhật .


Thêm vào đó, nhiều nhóm nhạc công mù nhỏ lẻ khác được thành lập ở khu vực
Kyushu[phạt cần]. Những nhạc công đó, được gọi là mōsō (盲僧 thầy tu mù) đi quanh khu
vực địa phuơng và thi hành nhiều hoạt động tôn giáo và bán tôn giáo để trừ tà và mang
lại sức khỏe và may mắn. Họ cũng duy trì các tiết mục thuộc thể loại cổ. Biwa mà họ
chơi nhỏ hơn nhiều so với chiếc Heike biwa (平家琵琶) được chơi bởi những nhạc
công biwa hōshi.[phạt cần]
Nhà văn Làccadiio Hearn đã đề cập trong cuốn Kwaidan: những câu truyện và nghiên
cứu về điều dị thường "Mimi-nashi Hoichi" (Hoichi không tai), một câu truyện ma Nhật
Bản về một nhạc công biwa hōshi biểu diễn bài "Heike truyền kỳ"
Những người phụ nữ mù, được gọi là goze (声女), cũng đi khắp vùng đất từ thời trung
cổ, ca hát đi kèm với chơi trống.[phạt cần] Từ thế kỷ mười bảy họ vẫn thường chơi
đàn koto hay shamisen. Các tổ chức Goze xuất hiện trên khắp vùng, và tồn tại cho đến
ngày nay tại tỉnh Niigata.[phạt cần]
Taiko

Trình diễn Taiko


Taiko (太鼓) là một loại trống Nhật bản có nhiều kích thước khác nhau và được sử dụng
để chơi nhiều thể loại nhạc. Chúng đang trở nên nổi tiếng trong mấy năm trở lại đây do
là nhạc cụ chính của tiết mục đồng diễn dựa trên nhiều điển tích và nhạc lễ hội thời
xưa.Những bài trống Taiko đồng diễn trên trống lớn được gọi là kumi-daiko. Mặc dù
nguồn gốc không rõ ràng, trống Taiko có lịch sử kéo dài đến tận thể kỷ thứ 7 với bằng
chứng là tượng đất sét của một người đánh trống. Tuy trống Taiko cũng du nhập
vào Trung quốc, nhưng nhạc cụ và giai điệu vẫn mang phong cách Nhật Bản .
[7]
Taiko được sử dụng trong thời kỳ đó như một công cụ để hăm dọa kẻ địch hoặc đưa
ra mệnh lệnh trên chiến trường. Taiko sau đó tiếp tục dùng cho nhạc tôn giáo như
của Phật giáo hay Shintō. Trong quá khứ, những người chơi thường là người sùng đạo,
thường chỉ trong những dịp đặc biệt và trong nhóm nhỏ, nhưng rồi những người già

(hoặc hiếm khi là phụ nữ) cũng chơi trống Taiko trong những lễ hội bán tôn giáo như là
lễ hội Bon.
Nhạc đông diễn taiko được cho là phát minh bởi Daihachi Oguchi vào năm 1951. Là
một ty trống nhạc Jazz, Oguchi đã lồng ghép nhạc nền của mình với dàn trống Taiko
mà chính tay ông thiết kế. Phong cách mạnh mẽ của ông đã làm cho nhóm nhạc nổi
tiếng cả Nhật Bản, và góp phần làm cho vùng Hokuriku là trung tâm của nhạc Taiko.
Các nhóm nhạc nổi lên từ phong trào này bảo gồm nhóm Oedo Sukeroku Daiko, với
Seido Kobayashi. Năm 1969 chứng kiến nhóm mang tên Za Ondekoza thành lập bởi
Tagayasu Den; Za Ondekoza đã tập trung các nhạc công trẻ để cải tiến một dòng của
nhạc Taiko, cái mà trước đó được sử dụng như phong tục địa phương. Vào những năm
1970, chính phủ Nhật Bản trợ cấp tiền để bảo tồn văn hóa Nhật Bản, và nhiều cộng
đồng Taiko đã ra đời. Vào thế kỷ tiếp, các nhóm Taiko đã vươn ra thế giới, đặc biệt là ở
Mỹ. Một ví dụ điển hình cho nhóm nhạc Taiko hiện đại là nhóm Gocoo.


Nhạc dân gian Min'yō

Một phụ nữ dân gian Nhật Bản cầm đàn shamisen, 1904
Nhạc dân gian Nhật Bản ( min'yõ) có thể được gộp và phân loại theo nhiều cách nhưng
thường được chia theo 4 loại chính: nhạc công việc, nhạc tôn giáo( như là sato kagura,
nhạc Thần đạo(Shinto), nhạc dùng trong dịp tụ tập như cưới hỏi, ma chay, lễ hội ( đặc
biệt là lễ hội Obon) và nhạc thiếu nhi( warabe uta)
Trong min'yō, các ca sỹ thường chơi kèm với đàn 3 dây được gọi là shamisen,
trống taiko, và một sáo trúc gọi là shakuhachi. Nhạc cụ khác cũng có thể đi kèm như là
sáo ngang shinobue, một cái chuông gọi là kane, một cái trống tay gọi là tsuzumi,
và/hoặc đàn tam thập lục được biết như koto. Ở Okinawa, nhạc cụ chính là sanshin.
Đây là những nhạc cụ truyền thống của Nhật Bản, nhưng thiết bị hiện đại, như
cái guitar điện và nhạc cụ điện tử, cũng được dùng ngày nay, khi những ca sỹ enka hát
những bài min'yō truyền thống.[9]
Khi đề cập tới min'yō, người ta thường có những khái niệm như là ondo, bushi, bon uta,

và komori uta. Một ondo thường dùng để miêu tả các bài hát với các nhịp đặc biệt có
thể được nghe như nhịp 2/4 (mặc dù người biểu diễn không thường đánh nhịp theo
nhóm). Những bài thường dùng ở lễ Obon sẽ thường là ondo. Bushi là một bài hát với
một giai điệu đặc biệt. Ngay từ cái tên, "bushi" là tổ hợp của hai từ "giai điệu" và "nhịp
điệu". Từ này ít khi dùng một mình mà đứng trước những khái niệm nói đến địa điểm,
nghề nghiệp, tên riêng hoặc những gì tuơng tự. Bon uta, giống như tên gọi, là những
bài hát cho Obon, lễ hội đèn lồng của người chết. Komori uta là bài hát ru trẻ con. Tên
các bài hát của nhạc min'yo thường bao gồm các khái niệm miêu tả, thường là ở cuối,


thường là ở cuối. Ví dụ như: Tokyo Ondo, Kushimoto Bushi, Hokkai Bon Uta, và Itsuki
no Komoriuta.
Rất nhiều bài hát trong số đó bao gồm thêm nhấn âm vào các âm tiết và tiếng hô
(kakegoe). Kakegoe thường là tiếng cổ vũ nhưng trong nhạc min'yō, chúng thường
dùng như một phần của đồng ca. Có nhiều loại kakegoe, dù ở từng vùng thì khác nhau.
Ví dụ như trong vùng Okinawa, tiếng hô thường là "ha iya sasa!". Trong đại lục Nhật
Bản,chúng ta có khả năng nghe thấy tiếng "a yoisho!," "sate!," hoặc "sore!". Những
tiếng hô khác như là "a donto koi!," và "dokoisho!"
Gần đây, có một hệ thống phường hội gọi là iemoto đã được áp dụng cho vài thể loại
min'yō. Hệ thống này đầu tiên được phát triển để chuyển giao các loại nhạc cổ điển
như nagauta, shakuhachi, hay nhạc koto, nhưng kể từ khi người ta chứng minh được là
nó cũng mang lại lợi ích cho giảng viên và được hộ trợ bới sinh viên đang mong muốn
có được tấm bằng certificates of proficiency và các tên tuổi nghệ sỹ mong muốn truyền
bá các dòng nhạc như min'yō, Tsugaru-jamisen và các hình thức âm nhạc khác không
được chuyển giao không chính thưc. Ngày nay, min'yō được truyền lại trong các tổ
chức gia đình không theo huyết thống và các khóa học việc dài hạn đang rất phổ biến .
Nhạc dân gian Okinawan
Umui, nhạc tôn giáo, shima uta, nhạc múa, và đặc biệt là kachāshī, nhạc chúc mừng kỷ
niệm, đều nổi tiếng.
Nhạc dân gian Okinawan khác biệt so với nhạc dân gian trên đại lục Nhật Bản theo

nhiều cách khác nhau.
Đầu tiên, Okinawan thường sử dụng đàn sanshin trong khi trên đất liền Nhật, người ta
sử dụng đàn Shamisen. Nhạc cũ khác của okinawan là sanba (nhạc cụ tạo ra tiếng
lách cách như chiếc catanhet), taiko và kỹ thuật huýt sáo the thé gọi yubi-bue (指笛?)
(指笛?).
Thứ hai, về khóa nhạc. Một ngũ cung, mà trong đó hơi giống với ngũ cung của nhạc lý
phương tây, thường được nghe trong các bản nhạc min'yō trên những đảo chính của
Nhật bản. Trong ngũ cung này, âm át dưới và âm dẫn (âm 4 và âm 7 trong âm giai của
phương Tây) sẽ bị lược bỏ, tạo ra âm giai mà không có nửa cung giữa mỗi nốt. (Đồ, rê,
Mi, Vậy, La trong solfeggio, hay 1, 2, 3, 5, and 6) Okinawan min'yō, tuy nhiên, có đặc
điểm là có âm giai bao gồm cả nửa cung đã bị lược bỏ đi như ngũ cung đề cập ở trên
sau khi đã được phân tích trong nhạc lý của phương Tây. Thực tế, hầu hết âm giai
thường dùng trong Okinawan min'yō gồm âm độ 1, 2, 3, 4, 5, 6, và 7.
Nhạc cụ truyền thống


Biwa (琵琵)



Fue (琵)




Hichiriki (琵琵)



Hocchiku (琵琵)




Hyōshigi (琵琵琵)



Kane (琵)



Kakko (琵琵)



Kokyū (琵琵)



Koto (琵)



Niko (琵琵)



Okawa (hay Ōtsuzumi) (琵琵)




Ryūteki (琵琵)



Sanshin (琵琵)



Shakuhachi (sáo trúc) (琵琵)



Shamisen (琵琵琵)



Shime-Daiko (琵琵琵)



Shinobue (琵琵)



Shō (琵)



Suikinkutsu (琵琵琵)




Taiko (i.e. Wadaiko) 琵琵琵琵琵鼓



Tsuzumi (琵) (hay Kotsuzumi)



×