Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đầu tư trực tiếp của mỹ vào việt nam từ khi thự hiện luật đầu tư nước ngoài đến 2010 (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.77 KB, 27 trang )

1

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------o0o----------Nguyễn Minh Tuấn

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM
TỪ KHI THỰC HIỆN LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI ĐẾN 2010

Chuyên ngành: Kinh tế Quốc tế
Mã số

: 62.31.01.06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội, năm 2016

HÀ NỘI - 2014


2

Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Tập thể hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đỗ Đức Định


2. PGS.TS. Phạm Thị Thanh Bình

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn
Phản biện 2: PGS.TS. Lê Xuân Bá
Phản biện 2: PGS.TS. Hà Văn Hội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp Học viện, tại: Học viện Khoa học xã hội, 477
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, vào hồi………...giờ,
ngày………tháng……….năm.


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong các con đường
phát triển kinh tế của các quốc gia đang phát triển thiếu hụt vốn, đồng
thời đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng là con đường phát triển có hiệu
quả của các nước “dư thừa” vốn, nhất là đối với các quốc gia phát triển.
Hoa Kỳ là nước có tiềm lực kinh tế mạnh với hàng trăm công ty đa quốc
gia quy mô hàng đầu thế giới, hoạt động trên nhiều lĩnh vực và tại nhiều
quốc gia. Dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Mỹ luôn đứng đầu thế giới,
nhưng FDI Mỹ vào Việt Nam là tương đối thấp và không tương xứng với
điều kiện sẵn có của hai nước cũng như lợi thế so sánh của mỗi nước.
Trong thời gian gần đây, chính sách đối ngoại của Mỹ có những điều
chỉnh mới hướng về Châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á vì lợi ích
quốc gia của Mỹ và đáp ứng mong muốn của nhiều quốc gia trong khu
vực. Động thái này là cơ hội mới mà Việt Nam có thể tận dụng để phát
triển, nhất là khi Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương

(TPP) có hiệu lực. Tuy nhiên, FDI của Mỹ vào đâu còn tùy thuộc vào môi
trường đầu tư kinh doanh, độ rủi ro mà các nước tiếp nhận đầu tư tạo ra.
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam cũng mong muốn
tiếp nhận nguồn vốn đó để góp phần công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước. Đó là bối cảnh và lý do mà tác giả chọn luận án nghiên cứu này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là phân tích đánh giá thực trạng, vấn đề và triển
vọng đầu tư trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam, nêu lên một số đặc điểm cơ
bản của FDI Mỹ ra nước ngoài, trên cơ sở đó, đề xuất những gợi ý chính
sách cho Việt Nam để có thể tiếp nhận dòng FDI của Mỹ vào Việt Nam
trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi mô hình phát triển.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đầu tư trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:


4
Về thời gian, tên của luận án “Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam
từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài đến 2010” tự nó đã giới hạn thời
gian nghiên cứu là đến năm 2010. Tuy nhiên, từ năm 2010 đến nay, bối
cảnh quốc tế cũng như quan hệ Việt - Mỹ đã có nhiều thay đổi sâu sắc,
liên quan chặt chẽ đến đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam. Vì vậy,
giới hạn thời gian nghiên cứu sẽ được kéo dài đến năm 2015 vừa để thẩm
định lại các động thái đầu tư của Mỹ vào Việt Nam thời gian từ năm 2010
trở về trước, đồng thời có thêm cơ sở để gợi ý các chính sách cho Việt
Nam trong việc tiếp nhận FDI của Mỹ trong bối cảnh quốc tế mới.
Về không gian, luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu dòng đầu tư trực
tiếp của Mỹ vào Việt Nam. Các khía cạnh khác được đề cập đến như tình
hình, đặc điểm FDI của Mỹ ra thế giới, ... là nhằm phục vụ cho chủ đề
nghiên cứu trên.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án đã sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống
kê để đánh giá hiện trạng, vấn đề và triển vọng của FDI Mỹ vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận án kế thừa các kết quả nghiên cứu, khảo sát đã có
và bổ sung, phát triển những luận cứ khoa học và thực tiễn mới trong việc
thực hiện những mục tiêu nghiên cứu của luận án.
5. Những điểm mới của luận án
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về đầu tư
trực tiếp nước ngoài liên quan chặt chẽ đến đầu tư của Mỹ vào Việt Nam.
- Góp phần làm rõ thực trạng, vấn đề và triển vọng đầu tư trực tiếp của Mỹ
vào Việt Nam kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nay.
- Đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt Nam để tăng cường sức
hấp đẫn FDI Mỹ vào Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận án gồm 4 chương.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM
1.1. Nghiên cứu ngoài nước
Ở nước ngoài, chưa có những nghiên cứu sâu và cụ thể nào về dòng
vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam hoặc các nghiên cứu về dòng
vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam chỉ là một phần rất nhỏ trong những
nghiên cứu về FDI của Mỹ ra nước ngoài. Vì thế, phần này chỉ nêu một
số nghiên cứu nước ngoài và nhóm lại thành các vấn đề nghiên cứu về
FDI của Mỹ ra nước ngoài, từ đó có thể có sự liên hệ đến dòng FDI Mỹ
vào Việt Nam. FDI của Mỹ ra nước ngoài đã được nghiên cứu trên nhiều

khía cạnh: (1) Về nguyên nhân các nhà đầu tư Mỹ đầu tư ra nước
ngoài có các nghiên cứu của Joosung Jun (1990) trong “U.S. Tax Policy
and Direct Investment Abroad”, Douglas Hotlz Eakin (2005) trong “Why
does U.S. Investment Abroad Earn Higher Returns Than Foreign
Investment in the United States?”, Richard W.Brown (2001) trong
“Examination of U.S. inbound and outbound Direct Investment”,
Marcela Meirelles Aurelio (2006); James K.Jackson (2008, 2011, 2012)
trong “Foreign Direct Investment in the United States: An Economic
Analysis”. Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư Mỹ đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài thu được lợi nhuận lớn hơn rất nhiều lần so với
đầu tư trong nước. (2) Về các nhân tố tác động tới FDI của Hoa Kỳ ra
nước ngoài, có các nghiên cứu của Marcela Meirelles Aurelio (2006)
“Going Global: The Changing Pattern of U.S. Investment Abroad”, U.S.
Chamber of Commerce (2015) trong “Secure U.S. Investment Overseas”,
Richard W.Brown (2001) “Examination of U.S. inbound and outbound
Direct Investment”. Các nghiên cứu này cho thấy những nhân tố quyết
định luồng vốn đầu tư của các nhà đầu tư của Hoa Kỳ đầu tư trong nước
và đầu tư ra thế giới tuỳ thuộc vào tính hấp dẫn của mỗi ngành, mỗi nước.
(i) Tiềm lực kinh tế của nước nhận đầu tư, tiềm lực của nền kinh tế được
thể hiện qua tổng sản phẩn quốc nội (GDP) và dự trữ quốc gia của nước


6
đó, gồm các nhân tố như GDP bình quân đầu người, trình độ của người
lao động, tiền lương, chính sách thuế, quyền sở hữu trí tuệ, hàng rào
thương mại và chi phí vận tải, chính sách tỷ giá hối đoái,... (ii) Các công
ty và các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao thu được nhiều
vốn đầu tư của Hoa Kỳ hơn, trong ngành sản xuất hàng tiêu dùng thì chi
phí quảng cáo có tính chất quyết định mức độ thu hút FDI Hoa Kỳ, các
công ty lớn có khả năng thu hút được vốn FDI Hoa Kỳ nhiều hơn các

doanh nghiệp nhỏ, các công ty là đối thủ cạnh tranh của nhau thì dễ thu
hút vốn đầu tư của nhau. (3) Về vai trò và hiệu quả của FDI Hoa Kỳ ra
nước ngoài đối với nền kinh tế Hoa Kỳ, nghiên cứu của nhóm tác giả
thuộc Office of Industries của United Stades International Trade
Commission (2001) cho rằng có sự liên kết chặt chẽ giữa các dòng vốn
FDI ra nước ngoài của Hoa Kỳ và thương mại của Hoa Kỳ qua biên giới,
trong đó nhấn mạnh vai trò của cả dòng FDI ra và vào Hoa Kỳ trong việc
xuất nhập khẩu hàng hóa, nghiên cứu và phát triển, thu nhập và việc
làm,... của Hoa Kỳ. FDI ra nước ngoài của Hoa Kỳ ngày càng có đóng
góp quan trọng vào GDP của Hoa Kỳ, nó biểu hiện qua tài sản thuộc
quyền sở hữu của Hoa Kỳ ở nước ngoài ngày càng tăng nghiên của
Marcela Meirelles Aurelio (2006) kết luận rằng tài sản của Hoa Kỳ ở
nước ngoài chiếm 40% GDP của Hoa Kỳ năm 1990, nhưng đến năm
2005 con số này là 89%. Laura Alfaro và Andrew Charlton (2007) có
quan điểm tương tự khi nghiên cứu về vai trò của FDI đã đề cập và phân
tích vấn đề chất lượng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
nghiên cứu của Fabienne Fortanier (2007): “Foreign direct investment
and host country economic growth: Does the investor’s country of origin
play a role? Transnational Corporations” cho rằng quan hệ giữa FDI và
tăng trưởng kinh tế là chưa thật rõ ràng. James K.Jackson (2008): “U.S
Direct Investment Abroad: Trends and Current Issues” trong giai đoạn
2002-2007 đầu tư ra nước ngoài của Mỹ gấp 2 lần so với đầu tư trong
nước, vì thế kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng chậm và việc làm trong nước
giảm sút. Nhóm tác giả Harvard College như Mihir A. Desai, C. Fritz


7
Foley, and James R. Hines Jr. (2011) nghiên cứu về “Tax Policy and the
Efficiency of US Direct Investment Abroad” cũng kết luận rằng hoạt động
của FDI ra nước ngoài của Hoa Kỳ trong thời gian trước 2011 không hiệu

quả khi họ so sánh giữa khoản đầu tư ra nước ngoài với khoản lợi nhuận
thu về nước trong năm 2010.
1.2. Nghiên cứu trong nước
Các nghiên cứu về FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam chủ yếu xuất hiện
trong các báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
dưới dạng tổng kết đánh giá tình hình FDI của Việt Nam hàng năm; hoặc
xuất hiện trong các báo điện tử,v.v.. Nhưng hầu hết các nghiên cứu này
chỉ dừng lại ở mức thông tin như tăng giảm số lượng vốn đầu tư và vốn
giải ngân, chỉ có một số ít nghiên cứu có tính chất chuyên sâu. Nghiên
cứu về FDI của Mỹ vào Việt Nam cũng có thể thấy dưới dạng chương
sách trong một số công trình nghiên cứu với một số điểm có thể được tóm
tắt theo chủ đề như sau: (i) FDI vì mục tiêu lợi nhuận và tạo tụ điểm lợi
ích kinh tế có nghiên cứu của Nguyễn Thiết Sơn (1993): “Đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Mỹ - Một số vấn đề và ý kiến”; (ii) Phản ánh
những động thái về mức độ tăng giảm lượng vốn hoặc số lượng dự án
có nghiên cứu của Lê Kim Sa (2002): “Đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ ở
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong những năm cuối thế kỷ XX”,
Báo cáo của MPI - STAR - Việt Nam (2007): “Đánh giá hoạt động của
5 năm triển khai Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ
đối với thương mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam”, Báo cáo của
MPI - STAR - Việt Nam (2005): “Tác động của Hiệp định thương mại
song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đến đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt
Nam”; (iii) Đánh giá chất lượng FDI của Mỹ tại Việt Nam có các
nghiên cứu của Nguyễn Mại (2008): “Tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính Mỹ đến FDI tại Việt Nam”, Lại Lâm Anh và Vũ Xuân Trường
(2007): “Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam: Thực trạng và triển
vọng”, Nguyễn Đồng Anh Xuân (2011): “Giải pháp tăng cường thu hút
Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hoa Kỳ vào Việt Nam”; (iv) Nhiều



8
nghiên cứu cũng phân tích các vấn đề do đầu tư trực tiếp của Mỹ vào
Việt Nam đặt ra như Phạm Thị Hiếu (2012): “Đầu tư trực tiếp của Mỹ
vào Việt Nam sau khủng hoảng tài chính”; Trần Minh Nguyệt (2009):
“Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ ở Việt Nam”; Nguyễn Minh Tuấn (2007):
“Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mỹ tại Việt Nam: Thực trạng và triển
vọng”, (v) Đề xuất cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam và đánh
giá triển có các nghiên cứu của Đỗ Vũ Hưng, Nguyễn Xuân Trung và
Nguyễn Đức Hùng (2012):“Rào cản môi trường kinh doanh: Đánh giá từ
góc nhìn của các doanh nghiệp Mỹ”, Nguyễn Xuân Trung và Lê Hải Hà
(2009): “Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với đầu tư của
Hoa Kỳ vào Việt Nam”, Nguyễn Thiết Sơn (2010): “Quan hệ hợp tác
kinh tế Việt Nam - Mỹ”.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm của các tổ chức quốc tế và Việt Nam về đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Mặc dù diễn đạt khác nhau, nhấn mạnh điểm này điểm kia, nhưng khái
niệm về FDI do các tổ chức quốc tế (IMF, OECD, UNCTAD, WTO) và Việt
Nam đua ra đều được hiểu là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được
những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một
nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành
quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.
2.1.2. Quan điểm của Mỹ về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Quan điểm của các nhà quản lý Mỹ luôn cho rằng tiếng nói hiệu quả trong
quản lý phải đi kèm với một mức sở hữu cổ phần nhất định thì mới được coi là
FDI. Định nghĩa về FDI của Chính phủ Mỹ cũng bao gồm những nội dung
tương tự khái niệm FDI của IMF, OECD và các tổ chức quốc tế khác, nhưng

thêm vào đó, FDI còn được gắn với quyền sở hữu hoặc kiểm soát 10% vốn hoặc


9
hơn thế kèm quyền biểu quyết của một doanh nghiệp, hoặc lợi ích tương đương
trong các đơn vị kinh doanh không có tư cách pháp nhân.
2.1.3. Các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
(i) Lý thuyết về Lợi nhuận cận biên: Mac Dougall (1960)
(ii) Lý thuyết về Lợi thế độc quyền: Stephen Hymer (1976)
(iii) Lý thuyết về Chu kỳ của sản phẩm: R. Vernon (1966)
(iv) Lý thuyết về Quyền lực thị trường: George Akerlof (1970)
(v) Lý thuyết Chiết trung (mô hình OLI): Dunning Jonh H. (1977)
(vi) Lý thuyết Tổ chức công nghiệp: Stephen Hymer và Charles Kindleberger
(vii) Lý thuyết Nội hoá: Agral (1980)
(viii) Lý thuyết Chi phí cận biên
(ix) Lý thuyết về Các bước phát triển của đầu tư
Các lý thuyết trên đây đều lý giải sự tất yếu xuất hiện dòng FDI. Các TNC
sở hữu và có lợi thế về các yếu tố sản xuất. Khả năng xuất hiện dòng FDI từ các
lợi ích của các TNC: tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận, đa dạng hóa danh mục đầu tư,
giảm tối đa rủi ro... Đồng thời, các lý thuyết trên đây cũng lý giải, dòng vốn FDI
vào các nước đang phát triển đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.
2.2. Cơ sở thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.2.1. Dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
Cho đến nay tổng lượng vốn FDI thế giới chủ yếu được thực hiện tại các
quốc gia phát triển. Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2013, khoảng 65 - 90%
tổng vốn FDI thế giới tập trung tại các nước phát triển, mặc dù trong các năm
gần đây, tỷ lệ này đã thay đổi theo hướng giảm đi ở các quốc gia phát triển và
tăng lên ở các quốc gia đang và kém phát triển.
FDI luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào

các nước đang phát triển. Đặc biệt trong giai đoạn 1998 - 2003, FDI chiếm trên
50% tổng vốn ĐTNN vào các nước đang phát triển.
Hầu hết vốn FDI được các TNC thực hiện. Vì vậy, số lượng doanh nghiệp
thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng lên nhanh chóng.


10
Trong tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài có tới 1.300 tỷ USD được thực hiện
bởi các TNC trong năm 2014. Dòng FDI thế giới đạt đỉnh điểm năm 2007 là
2.272 tỷ USD, thấp nhất là năm 2009 đạt 1.149 tỷ USD. Các con số cho thấy sự
gián đoạn của dòng FDI thế giới do cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu năm 2008 gây nên và sự phục hồi mới chỉ bắt đầu trong vài năm
trở lại đây.
Việc mua bán và sáp nhập xuyên biên giới (M & A) ảnh hưởng mạnh
đến dòng chảy FDI, vì đằng sau M&A là sự thổi phồng giá trị thực của
các doanh nghiệp.
Lượng FDI là khác nhau ở các khu vực khác nhau của thế giới. Năm 2014,
thị trường mới nổi thu hút 745 tỷ USD, chiếm 59% dòng FDI toàn cầu (tăng nhẹ
so với năm 2013), trong đó các nước đang phát triển thu hút được 700 tỷ USD,
chiếm 56% tổng FDI toàn cầu, còn các nền kinh tế chuyển đổi đã thu hút được
45 tỷ USD (khoảng 4% tổng FDI toàn cầu và giảm ½ so với năm 2013. Nhìn
chung, đây là năm thứ 3 liên tiếp các thị trường mới nổi chiếm hơn ½ tổng FDI
toàn cầu.
Châu Á đang là khu vực thu hút dòng FDI toàn cầu (39% tổng FDI toàn
cầu) trong đó Trung Quốc tiếp tục là quốc gia nhận được nhiều FDI nhất khi tiếp
nhận 128 tỷ USD, tiếp theo là Hongkong với 111 tỷ USD, sau đó là Singapre với
81 tỷ USD. Singapore không phải là quốc gia đông dân nhưng đang là điểm thu
hút FDI tại khu vực Châu Á. Một điểm đến khác cho dòng FDI toàn cầu đang
được các chuyên gia đánh giá cao, đó là Ấn Độ (35 tỷ USD). Do những gia tăng
về chi phí sản xuất, thiếu hụt lao động đã khiến cho dòng FDI vào Trung Quốc

đang có xu hướng dịch chuyển sang các nước khác như Bangladesh,
Campuchia, Indonesia, Việt Nam…
Tại khu vực Đông và Đông Nam Á, ASEAN đã nỗ lực hội nhập kinh tế,
đặc biệt là việc ký kết các hiệp định thương mại tự do, hiệp định đầu tư với các
nước khác trong khu vực. Trong thời gian 2010 - 2012, các nước ASEAN hay
Đông Á đã cung cấp trên 40% lượng vốn FDI nội bộ khu vực. Một phần của các
dòng vốn đầu tư liên quan đến cơ sở hạ tầng và sản xuất.


11
Khu vực hấp dẫn thứ 2 dòng FDI là các nước Mỹ Latinh và Caribbe. Khu
vực này đã nhận được 153 tỷ USD trong năm 2014.
2.2.2. Tình hình và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Mỹ ra nước ngoài
2.2.2.1. Tình hình
Dòng vốn FDI Mỹ ra bên ngoài luôn chiếm vị trí số 1 thế giới, tuy có lúc
tăng lúc giảm không đều. Từ năm 1989 - 2001, trung bình mỗi năm Mỹ đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài 113,2 tỷ USD. Tốc độ tăng trung bình của FDI Mỹ ra thế
giới giai đoạn năm 1989 đến năm 2004 đạt khoảng 7%/năm. Những năm sau đó,
mức tăng này giảm đi, nhưng từ năm 2010 lại tăng nhanh trở lại. Tốc độ tăng
FDI trong giai đoạn 2010 - 2012 là 14%/năm. Năm 2014, FDI ra nước ngoài của
Mỹ đến các khối và khu vực chính bao gồm Châu Âu (54,2%), Mỹ - Latin và
các nước Châu Mỹ khác (18,8%), Châu Á - Thái Bình Dương (17,2%). Các
nước nhận được nhiều vốn FDI của Mỹ trong năm 2014 là Canada (19,85 tỷ
USD), Singapore (19,44 tỷ USD), Australia (16,59 tỷ USD), Trung Quốc (6,33
tỷ USD), Hongkong (5,24 tỷ USD), Ấn Độ (2,62 tỷ USD).
Về thị trường đầu tư, dòng FDI Mỹ chủ yếu chảy vào các nền kinh tế phát
triển. Từ năm 1966 đến năm 2007, 49 – 60% dòng FDI Mỹ ra nước ngoài chảy
vào các quốc gia phát triển Châu Âu.
Sau khủng hoảng tài chính Châu Á, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
ngày càng trở thành địa điểm đến hấp dẫn của giới đầu tư Mỹ. Trong giai đoạn

từ 2011 - 2014, giá trị vốn đầu tư FDI từ Hoa Kỳ vào khu vực này đã tăng từ
591.657 triệu USD lên 738.786 triệu USD, với tỷ trọng tăng từ 14,5% năm 2011
lên 15,1% năm 2014. Việc Mỹ tuyên bố chuyển hướng chiến lược tái cân bằng
Châu Á là sự mở đường đối với các công ty Mỹ đầu tư vào khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
2.2.2.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp của Mỹ ra nước ngoài
Đầu tư trực tiếp của Mỹ ra nước ngoài có các đặc điểm chủ yếu sau đây:
- FDI của Mỹ thường tiếp cận những lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nước
nhận đầu tư;
- Tối đa hoá lợi nhuận;
- Chú trọng đến khả năng tiếp cận thị trường của nước nhận đầu tư;


12
- Quan tâm đến vị trí chiến lược của nước nhận đầu tư
- Tập trung vào những dự án lớn với trình độ công nghệ cao
- Các nhà đầu tư Mỹ rất coi trọng cơ sở hạ tầng của nước nhận đầu tư
- Quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực
- Cơ cấu công nghiệp của các nước nhận đầu tư, tạo điều kiện để ngành này
dịch chuyển theo hướng phù hợp cơ cấu kinh tế của Mỹ và bổ trợ cho ngành
công nghiệp Mỹ.
2.2.3. Thực tiễn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số quốc gia
Châu Á
2.2.3.1. Tại Thái Lan
Việt Nam có thể học hỏi Thái Lan thu hút FDI Mỹ thông qua các khu chế
xuất và dự án du lịch giải trí, đặc biệt ở các địa điểm như Phú Quốc hay Đà Nẵng
2.2.3.2. Tại Indonesia
Việt Nam có thể học hỏi ở Indonesia về sử dụng tất cả các hình thức đầu tư
mà các TNC Mỹ muốn và thực hiện chế độ ưu đãi thuế.
2.2.3.3. Tại Malaysia
Từ thực tế thu hút FDI của Malaysia, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm

đào tạo nguồn nhân lực cho FDI và xây dựng chiến lược chung về thu hút FDI.
Đây là một cánh cửa quan trọng để thu hút FDI của Mỹ vào Việt Nam.
2.2.3.4. Tại Trung Quốc
Việt Nam có thể học tập Trung Quốc về cải thiện môi trường pháp pháp
luật, môi trường đầu tư kinh doanh, triển khai các dự án ở những khu vực thuận
lợi về giao thông, có cơ sở hạ tầng tốt.
Chương 3
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM
3.1. Quan điểm chính sách của Mỹ về đầu tư vào Việt Nam
3.1.1. Quan điểm chính sách của các nhà đầu tư Mỹ
Giai đoạn từ năm 1988 - 2001. Trong thời kỳ từ năm 1988 đến năm 1995,
bao vây cấm vận vẫn là trọng tâm chính sách của Chính phủ Mỹ đối với Việt
Nam. Do đó, các công ty của Hoa Kỳ chưa thể có mặt chính thức tại Việt Nam.
Kể từ sau khi bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ (năm 1995), diễn ra Làn sóng


13
đầu tư thứ nhất khi các công ty sản xuất hàng tiêu dùng như Procter & Gamble,
Coca-Cola, Pepsi-Cola… đầu tư vào Việt Nam. Chính sách đầu tư của các
công ty Mỹ trong giai đoạn này chủ yếu là đầu tư để phục vụ cho các thị
trường ở nước ngoài chứ không phải để xuất khẩu vào Hoa Kỳ như
những năm 70, 80 thế kỷ XX. Tại Việt Nam, FDI của Mỹ trong giai đoạn
này cũng tương tự như FDI ra nước ngoài của Mỹ khi tỷ trọng các ngành
công nghiệp, dịch vụ và nông-lâm-ngư nghiệp lần lượt là 59,5%; 28,2%
và 12,5%.
Giai đoạn 2002-2007. Làn sóng đầu tư thứ hai diễn ra tiếp theo sau Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ được thực hiện cho đến khi bắt đầu cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Chính sách đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong
giai đoạn này đã có những sự thay đổi khá rõ, đặc biệt là những thay đổi trong
quan hệ giữa công ty mẹ và các chi nhánh của chúng. Các TNC Hoa Kỳ thực

hiện chính sách phi tập trung hóa, tức là các vấn đề chiến lược không chỉ do các
công ty mẹ quyết định mà nó đã được giao cho các chi nhánh nhiều hơn. Do đó,
các chi nhánh chủ động hơn trong việc tìm kiếm thị trường và đầu tư. FDI của
Mỹ vào Việt Nam trong giai đoạn này phân theo các ngành công nghiệp, dịch vụ
và nông-lâm-ngư nghiệp tại Việt Nam lần lượt là 71,3%; 20,6% và 8,1%.
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay được coi là làn sóng đầu tư thứ ba của
đầu tư Mỹ vào Việt Nam. Sau khi Việt Nam tham gia WTO thì đó là giai
đoạn các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam chú trong đến thị trường
toàn cầu nhiều hơn. Giai đoạn này các công ty Mỹ chú trọng đến các nhà
máy sản xuất hiện đại. Sản phẩm làm ra ngoài việc tiêu thụ ở Việt Nam
còn chủ yếu xuất khẩu sang thị trường toàn cầu. Cơ cấu FDI của Mỹ vào
Việt Nam ở giai đoạn này đã ghi nhận sự đột phá của các dự án vào khu
vực dịch vụ với tổng lượng vốn chiếm 68,76%, ngành công nghiệp là
29,62% và nông-lâm-ngư nghiệp là 1,62%.
3.1.2. Quan điểm chính sách của Chính phủ Mỹ
Chính phủ Mỹ đẩy mạnh ký các hiệp định song phương với các đối tác như
Hiệp định bảo hộ đầu tư, Hiệp định thương mại và các Hiệp định đa phương


14
khác. Hầu hết các quy định về cơ chế chính sách đầu tư ra nước ngoài của Mỹ
đều thực hiện theo những nguyên tắc của WTO.
Chính phủ Mỹ sử dụng những ưu tiên và chính sách thúc đẩy đầu tư ra nước
ngoài để bảo vệ các công ty Mỹ và các nhà đầu tư Mỹ hoạt động kinh doanh tại
thị trường nước ngoài trong đó có Việt Nam.
3.2. Quan điểm chính sách của Việt Nam đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giai đoạn 1988 - 2001. Từ 1995 trở về trước, luật quy định về trình tự đăng
ký, trong đó một dự án FDI chỉ được nhận giấy phép đầu tư trong khoảng thời
gian 45 ngày, sau khi có giấy phép doanh nghiệp FDI vẫn phải xin đăng ký hoạt
động. Luật cũng quy định về lĩnh vực đầu tư, theo đó luật khuyến khích các dự án

liên doanh với doanh nghiệp trong nước; hạn chế dự án 100% vốn nước ngoài.
Việt Nam cũng thực hiện các ưu đãi về chính sách sử dụng đất như chính
quyền đứng ra chịu trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng cho các dự án có
vốn FDI; dự án có vốn FDI được thuê đất để hoạt động, nhưng không được cho
các doanh nghiệp khác thuê lại.
Về chính sách tỷ giá, ngoại tệ, các dự án FDI đầu tư hạ tầng và thay thế
nhập khẩu được Nhà nước bảo đảm cân đối ngoại tệ; các doanh nghiệp FDI
thuộc các lĩnh vực khác phải tự lo cân đối ngoại tệ, Nhà nước không chịu trách
nhiệm về cân đối ngoại tệ đối với các dự án này.
Về chính sách thuế, Việt Nam áp dụng thuế ưu đãi cho các dự án đầu tư vào
các lĩnh vực đặc biệt ưu tiên với mức thuế thu nhập 10% trong vòng 15 năm kể
từ khi doanh nghiệp đi vào hoạt động, mức thuế thu nhập của doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài không bao gồm phần bù trừ lợi nhuận của năm sau đề bù
lỗ cho các năm trước, không được tính vào chi phí sản xuất một số khoản chi
nhất định, thuế nhập khẩu được áp với mức giá thấp trong khung giá do Bộ Tài
chính quy định.
Từ năm 1996 đến 2001, Việt Nam chưa tách riêng khu vực vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài thành một “thành phần kinh tế” trong nền kinh tế nhiều thành
phần của Việt Nam.
Về đất đai, ủy ban nhân dân địa phương tạo điều kiện mặt bằng kinh doanh
khi dự án được duyệt, doanh nghiệp phải thanh toán tiền giải phóng mặt bằng


15
cho ủy ban nhân dân, được quyền cho thuê lại đất đã thuê tại các khu công
nghiệp, khu chế xuất.
Nhà nước quy định về tỷ giá và ngoại tệ: dự án phải bảo đảm cân đối nhu
cầu về ngoại tệ cho các hoạt động của mình, áp dụng tỷ lệ kết hối ngoại tệ do tác
động khủng hoảng tài chính khu vực (80%).
Các ưu đãi về thuế: miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, vận tải

chuyên dụng, nguyên liệu vật tư…; miễn thuế nhập khẩu đối với doanh nghiệp
đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên, địa bàn ưu tiên trong 5 năm đầu hoạt động.
Doanh nghiệp xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để xuất
khẩu sản phẩm. Hơn thế nữa, doanh nghiệp cung ứng sản phẩm đầu vào cho các
doanh nghiệp xuất khẩu cũng được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu trung
gian với tỷ lệ tương ứng.
Giai đoạn 2002 – 2007. Từ năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài được công nhận là một thành phần kinh tế.
Ban hành danh mục doanh nghiệp FDI được đăng ký kinh doanh, không
cần xin giấy phép, bỏ chế độ thu phí đăng ký đầu tư FDI.
Về lĩnh vực đầu tư, ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư FDI cho giai
đoạn 2001 - 2005, mở rộng lĩnh vực cho phép FDI đầu tư xây dựng nhà ở. Hơn
nữa, các hình thức đầu tư đa dạng hơn, các doanh nghiệp FDI được mua cổ phần
của các doanh nghiệp trong nước.
Việt Nam ban hành Luật Đầu tư năm 2005 với nhiều chỉnh sửa quan trọng
so với luật cũ. Trong đó, trình tự đăng ký trở nên dễ dàng hơn: các dự án có vốn
đầu tư nước ngoài có vốn dưới 15 tỷ đồng và không thuộc danh mục đầu tư có
điều kiện thì không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư.
Về hính sách đất đai, các nhà đầu tư được miễn, giảm tiền thuế đất, thuê mặt
nước trong các trường hợp thuê đất, thuê mặt nước sử dụng vào mục đích sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, các dự án thuộc lĩnh vực
khuyến khích đầu tư…
Về chính sách ngoại hối, các doanh nghiệp FDI được hưởng một số ưu đãi
liên quan tới chính sách ngoại hối như đưa các doanh nghiệp FDI vào đối tượng
được hỗ trợ cân đối ngoại tệ, bãi bỏ việc bắt buộc trả lương cho người lao động


16
bằng VND và tạo điều kiện để nhà đầu tư trả lương cho lao động người nước
ngoài của mình bằng tiền nước ngoài.

Nhà đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế cho phần thu nhập được chia từ hoạt động
góp vốn, mua cổ phần trong các tổ chức kinh tế theo quy định của pháp luật về thuế sau
khi tổ chức kinh tế đó đã nộp đủ thuế thu nhập doanh nghiệp.
Về thuế xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập
khẩu đối với hàng hoá bao gồm các thiết bị máy móc, vật tư, phương tiện vận tải
và hàng hoá khác để thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay. Luật Đầu tư năm 2014 thay thế cho Luật
đầu tư năm 2005 và luật đầu tư hiện nay chỉ quản lý các dự án đầu tư. Luật đầu
tư 2014 chỉ rõ những ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh và liệt kê rõ ràng 267
ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (phụ lục 4, luật đầu tư 2014).
Phạm vi áp dụng giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với doanh nghiệp FDI
cũng được thu hẹp lại (nhà đầu tư nước ngoài hoặc có nhà đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp FDI nắm giữ từ 51% vốn điều lệ trở lên sẽ phải xin giấy chứng
nhận đầu tư còn nếu thấp hơn sẽ không cần phải xin giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư).
Luật Đầu tư 2014 phân chia các nhà đầu tư nước ngoài làm ba nhóm: (i) nhà
đầu tư có quốc tịch nước ngoài; (ii) doanh nghiệp Việt Nam có 51% vốn nước
ngoài; (iii) doanh nghiệp Việt Nam có dưới 51% vốn nước ngoài. Nhóm (i) và
(ii) sẽ áp dụng các điều kiện như nhà đầu tư nước ngoài còn nhóm (iii) sẽ áp
dụng các thủ tục điều kiện như doanh nghiệp trong nước. Điều này cho thấy
Luật đầu tư năm 2014 vẫn có sự bảo hộ và khác biệt giữa doanh nghiệp FDI và
doanh nghiệp trong nước, ngoài ra nếu công ty con của doanh nghiệp FDI và
doanh nghiệp FDI nắm giữ 51% vốn thì công ty con này cũng áp dụng như
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3.3. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam
3.3.1. Quy mô đầu tư
Giai đoạn từ năm 1988 - 2001, Mỹ là quốc gia đầu tư vào Việt Nam chậm nhất.
FDI của Mỹ vào Việt Nam trong giai đoạn này đã đạt tới đỉnh cao
nhất vào năm 1995 khi tiến trình bình thường hoá được tuyên bố chính



17
thức và thoả thuận thúc đẩy đàm phán Hiệp định thương mại được ký kết.
Chỉ riêng trong năm 1995, có thêm 25 công ty nữa của Mỹ được cấp giấy
phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký lên tới 523,62 triệu USD (gấp 2,5
lần 1994). Kết quả là Mỹ đã nhanh chóng chuyển từ vị trí thứ 14 lên vị trí
thứ 9. Đến năm 1996, chỉ có thêm 12 công ty Mỹ đăng ký vào Việt Nam
với tổng lượng vốn đầu tư là 92,76 triệu USD; một sự giảm sút đáng kể
so với năm 1995, báo hiệu việc xuất hiện sự không hài lòng của các nhà
đầu tư Mỹ về những yếu tố môi trường đầu tư tại Việt Nam. Nhưng điều
đáng chú ý là các công ty lớn của Mỹ cũng đã chính thức vào cuộc ngay
với nhiều dự án có giá trị cao. Hầu hết các dự án đều nhằm vào các mục
tiêu sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ với thời hạn thấp nhất là 10 năm, cao
nhất là 40 năm. Trước diễn đàn thương mại tại Washington, các doanh
nghiệp Mỹ đã tuyên bố sẽ tăng tốc độ hoạt động đầu tư ở Việt Nam và hy
vọng Mỹ sẽ là một trong những đối tác có vốn đầu tư lớn nhất ở thị
trường này. Cùng với những dự án đầu tư mới, đã xuất hiện một số tập
đoàn lớn của Mỹ ở Việt Nam như tập đoàn Mobil Oil, hãng thang máy
Otis, hãng hàng không America Airline, Ngân hàng City Bank...
Từ 1/1/2000 đến thời điểm ký kết Hiệp định thương mại 13/7/2000,
chỉ có thêm 6 dự án với 19,27 triệu USD vốn đăng ký, biểu hiện rõ xu
hướng giảm sút trong sự quan tâm của các nhà đầu tư Mỹ đối với Việt
Nam. Tuy nhiên, đây cũng là xu hướng chung của tất cả các nhà đầu tư
FDI tại Việt Nam. Do đó, Mỹ vẫn thuộc danh sách 10 nhà đầu tư lớn nhất
vào Việt Nam, đứng thứ 9 với 121 dự án và 1.398 triệu USD vốn đầu tư.
Giai đoạn 2002 - 2007. Trên thực tế sau hơn 4 năm thực thi Hiệp
định thương mại song phương Việt - Mỹ (tính đến thời điểm 30/06/2006)
tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam (kể cả qua nước thứ 3) đạt 4,042
tỷ USD. Lượng đầu tư này tuy tăng đáng kể so với thời kỳ trước, nhưng
so với FDI của Mỹ vào khu vực Đông Nam Á là quá nhỏ, chỉ chiếm gần

0,72% . Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này xuất phát từ quy mô thị
trường của Việt Nam còn nhỏ, môi trường đầu tư kinh doanh chưa đáp
ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư Mỹ.


18
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay. Đây là giai đoạn ghi nặng dấu ấn của
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 xuất
phát từ Mỹ và lan ra các quốc gia khác. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài
chính đã tác động nặng nề đến nền kinh tế Mỹ nhưng dòng FDI của Mỹ
vào Việt Nam năm 2009 vẫn tăng mạnh và đạt đỉnh điểm.
FDI của Mỹ vào Việt Nam khá giống với xu hướng FDI thế giới vào
Việt Nam. Tuy nhiên, nếu so sánh dòng FDI của Mỹ vào Việt Nam và
dòng FDI của Mỹ ra nước ngoài thì lại có những điểm khác biệt khá lớn,
chẳng hạn, năm 2009 FDI của Mỹ vào Việt Nam tăng cao thì dòng FDI của
Mỹ ra nước ngoài giảm mạnh và ngược lại, năm 2011 FDI của Mỹ vào Việt
Nam giảm thì FDI của Mỹ ra nước ngoài tăng. Hiện tượng này cho thấy, các
nhà đầu tư của Mỹ rất nhạy cảm đối với môi trường kinh doanh và những
thay đổi trong môi trường đầu tư ở Việt Nam. Do quan ngại về những thay
đổi đó nên họ quyết định thận trọng trong đầu tư của mình. Từ đó cũng có
thể hiểu rằng tốc độ cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam chậm hơn so
với thế giới và các nước trong khu vực.
3.3.2. Cơ cấu đầu tư
Giai đoạn 1988 – 2001. Trong giai đoạn này, tuy các nhà đầu tư Mỹ đã
chú ý đến đầu tư vào Việt Nam song các dự án còn nhỏ và có tính chất thăm
dò. Khu vực công nghiệp được quan tâm nhiều hơn với 84/129 dự án với
mức vốn đăng ký đạt 617,8 triệu USD, chiếm khoảng gần 60% tổng vốn đầu
tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giai đoạn này.
Trong khi đó, khu vực nông, lâm, thuỷ sản chỉ có 15 dự án và chiếm
khoảng hơn 12% lượng dự án mà Hoa Kỳ đã đầu tư vào Việt Nam.

Lượng vốn đầu tư/dự án nhỏ và phía Việt Nam chủ yếu thực hiện khâu sơ
chế cho đối tác Hoa Kỳ.
Giai đoạn 2002 – 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng vẫn đang là
khu vực chiếm tỷ trọng lớn với 183 số dự án (chiếm 77,8%) và 1.183
triệu USD (chiếm 78,5%) vốn đăng ký, 714 triệu USD (chiếm 80,54%)
vốn thực hiện. Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ và cuối cùng là nông - lâm ngư nghiệp.


19
Các nhà đầu tư Hoa Kỳ rất quan tâm tới ngành công nghiệp dầu khí tại
Việt Nam. Tuy không có nhiều dự án nhưng các dự án đều có lượng vốn
đầu tư lớn trên 100 triệu USD/dự án. Điều này cũng dễ hiểu vì Hoa Kỳ là
nước có nhu cầu lớn về năng lượng và khí đốt, trung bình mỗi năm Hoa
Kỳ phải nhập khẩu từ bên ngoài trên 50% lượng dầu tiêu thụ. Mặc dù dầu
khí vẫn đang là một trong những thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam trong
giai đoạn này nhưng phần lớn là khai thác và bán dầu thô.
Các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ (tài chính, ngân hàng, văn
phòng cho thuê, dịch vụ phần mềm, y tế, giáo dục,…) với tổng vốn đầu
tư đạt 410 triệu USD. Trong đó, lĩnh vực tài chính và bất động sản đang
được các nhà đầu tư Hoa Kỳ chú ý với tổng vốn đăng ký khoảng 480
triệu USD.
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, các nhà đầu tư Hoa Kỳ càng thể
hiện nhiều hơn sự quan tâm của họ tới khu vực dịch vụ khi dẫn đầu về số
dự án lẫn vốn đầu tư.
Về cơ bản, các nhà đầu tư Mỹ thường quan tâm tới các dự án lớn
trong các lĩnh vực dầu khí, năng lượng và công nghệ thông tin.
3.3.3. Hình thức đầu tư
Về cơ bản, các nhà đầu tư Hoa Kỳ chủ yếu quan tâm tới hình thức 100%
vốn nước ngoài bởi hình thức này phù hợp với quan điểm về đầu tư và mang
lại nhiều lợi ích cho họ. Trong giai đoạn 1988 - 2001 chỉ có 3 hình thức theo

thứ tự gồm 100% vốn nước ngoài, liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh
doanh thì giai đoạn 2002-2007 có thêm hình thức công ty cổ phần và trong
giai đoạnh 2008 đến nay hình thức công ty cổ phần đã được các nhà đầu tư
Mỹ chú ý hơn so với hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
3.3.4. Phân bố đầu tư
Những đặc điểm của FDI Mỹ cũng được thể hiện rõ trong đầu tư tại
Việt Nam khi phần lớn các dự án thường nằm ở phía Nam nơi có điều
kiện vị trị, giao thông và cơ sở hạ tầng thuận lợi, môi trường đầu tư hấp
dẫn hơn. Các tỉnh/thành phố như Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương và TP.
Hồ Chí Minh tiếp tục là điểm đến của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Trong khi


20
đó, Hà Nội và đặc biệt là Hải Phòng đang được các nhà đầu tư Hoa Kỳ
đánh giá cao khi đầu tư tại phía Bắc.
3.4. Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài Mỹ tại Việt Nam
- Góp phần vào tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy quá trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam.
- Góp phần thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới
sản xuất toàn cầu.
- Góp phần bổ sung vốn và chuyển giao công nghệ cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Góp phần tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển.
3.5. Những nhân tố hạn chế đầu tư Mỹ vào Việt Nam
Giai đoạn từ 1988 - 2001. Các dự án của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong
giai đoạn này là không nhiều và lượng vốn đầu tư là không lớn (8,08 triệu
USD/dự án) thậm chí thấp hơn mức bình quân chung của các đối tác đầu
tư tại Việt Nam (16,23 triệu USD/dự án)
Từ năm 1997 đến năm 2001, có dấu hiệu một số công ty của Hoa Kỳ

rút vốn, không tăng đầu tư, một số dự án có quy mô khá lớn đã phải giải
thể trước thời hạn. Một số nguyên nhân khách quan có thể lý giải hiện
tượng này là do sau khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, các nước đã có
những động thái tốt hơn trong việc thay đổi chính sách thu hút luồng vốn
đầu tư như Thái Lan, Hàn Quốc… nên đã thu hút được sự quan tâm lớn
hơn của các nhà đầu tư, trong đó có luồng vốn đầu tư từ Hoa Kỳ. Trong
khi đó, chính sách thu hút FDI của Việt Nam ít thay đổi, môi trường đầu
tư kinh doanh của Việt Nam không thật sự hấp dẫn các nhà đầu tư Hoa
Kỳ.
Giai đoạn 2002 - 2007. Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh đã xuất
hiện, chẳng hạn, tập đoàn nước giải khát Coca Cola với 3 dự án tại Việt
Nam, khi cấp phép đều là liên doanh nhưng sau đó đã chuyển thành
100% vốn nước ngoài. Vấn đề xuất phát từ phía Việt Nam: các doanh
nghiệp Việt Nam thường yếu kém về vốn, kinh nghiệm quản lý nên khi


21
gặp những thua thiệt trong thời gian dài, các doanh nghiệp Việt Nam
thường buộc phải tự rút lui khỏi liên doanh.
Giai đoạn 2008 đến nay. Giai đoạn này được bắt đầu bằng cuộc khủng
hoảng tài chính tại Mỹ và sau đó là suy thoái kinh tế toàn cầu. Bên cạnh lý
do khó khăn của kinh tế Mỹ sau khủng hoảng, còn có những vấn đề khác
quan trọng hơn, liên quan đến môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam.
Các nhà đầu tư Mỹ không hài lòng về thủ tục hành chính, tình trạng tham
nhũng, chưa thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết khi hội nhập quốc tế, hệ
thống văn bản pháp luật, kết cấu hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực...
Chương 4
TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ VÀO VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
4.1. Triển vọng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Mỹ vào Việt Nam

4.1.1. Bối cảnh quốc tế, Mỹ và Việt Nam
Đặc điểm của đầu tư trực tiếp Mỹ ra nước ngoài thường chịu ảnh
hưởng của các sự kiện quốc tế, trong nước và nước nhận đầu tư. Vì vậy,
việc phân tích xu hướng bối cảnh quốc tế khu vực, Mỹ và Việt Nam có
thể đánh giá được triển vọng đầu tư FDI của Mỹ vào Việt Nam
4.1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Mỹ muốn tiếp tục
duy trì trật tự thế giới do Mỹ làm bá chủ, trong khi Trung Quốc trỗi dậy một
cách hung hăng, đặt Mỹ trước nguy cơ mất vị trí lãnh đạo thế giới. Trong bối
cảnh đó, Mỹ tuyên bố chiến lược xoay trục để tăng cường vai trò lãnh đạo châu
Á, kiềm chế Trung Quốc, nhất là khi Trung Quốc đang có những dầu hiệu khó
khăn về kinh tế, chính trị và đối ngoại.
4.1.1.2. Bối cảnh tại Mỹ
Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, Mỹ thực hiện tái cấu trúc kinh tế. Về
đối ngoại, chính phủ Obama đưa ra “Chiến lược xoay trục” hay “Chiến lược
tái cân bằng” khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông
Nam Á đặc biệt chú ý để kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc. Việc đàm
phán, ký kết Hiệp định TPP là năm trong chiến lược này.


22
4.1.1.3. Bối cảnh tại Việt Nam
Trở thành nước thu nhập trung bình thấp, hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, khu vực đã đến lúc Việt Nam cần phải thay đổi mô hình
phát triển dựa vào tri thức, khoa học công nghệ thay vì dựa vào vốn, tài
nguyên như trước đây. Vì vậy, nâng cao chất lượng FDI là vấn đề rất
quan trong, và FDI Mỹ được Việt Nam đánh giá rất cao.
4.1.2. Triển vọng đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam
Từ những phân tích về bối cảnh quốc tế, Mỹ và Việt Nam có thể xuất
hiện mấy khả năng.

Thứ nhất, nếu như trật tự thế giới được duy trì, trong đó Mỹ vẫn là
siêu cường bá chủ thế giới, Trung Quốc trỗi dậy chấp nhận trật tự đó, tình
hình biển Đông được kiểm soát không xảy ra chiến tranh thì trong những
năm tới, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam sẽ tiếp tục ổn định, kinh tế
tiếp tục tăng trưởng nhanh, thị trường sẽ tiếp tục được mở rộng, cơ sở hạ
tầng cũng sẽ tiếp tục được nâng cấp. Nền kinh tế thế giới tiếp tục phục
hồi kéo theo sự phục hồi dòng vốn FDI trên toàn cầu.
Thứ hai, nếu trong trường hợp Trung Quốc trỗi dậy không hòa bình,
Trung - Mỹ đối đầu, quan hệ Việt - Trung xấu đi, quan hệ Việt - Mỹ được
nâng cấp, mà khả năng này khó nhưng không phải không thể xảy ra, thì
tình hình kinh tế xã hội Việt Nam có thể gặp khó khăn tạm thời, nhưng
rất có khả năng đầu tư của Mỹ vào Việt Nam, vì thế vẫn sẽ tăng lên mạnh
mẽ. Điều này tùy thuộc vào năng lực về thể chế, cơ sở hạ tầng cứng và
mềm, mức độ cải cách sâu rộng của Việt Nam.
Thứ ba, nếu trong trường hợp quan hệ Việt - Trung được cải thiện tốt
hơn, quan hệ Việt - Mỹ ở mức vừa phải như hiện nay, nghĩa là không
được nâng cấp, thì FDI Mỹ vào Việt Nam sẽ ở mức vừa phải, thậm chí là
trồi sụt.
4.2. Một số gợi ý chính sách tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài của Mỹ vào Việt Nam
4.2.1. Những chính sách chung
4.2.1.1. Sớm chuyển sang kinh tế thị trường hiện đại


23
4.2.1.2. Hoàn thiện hành lang pháp lý
4.2.1.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
4.2.1.4. Xây dựng và cải thiện kết cấu hạ tầng
4.2.1.5. Tháo gỡ các rào cản trong quy hoạch và triển khai thực
hiện dự án

4.2.1.6. Bảo vệ sở hữu trí tuệ
4.2.1.7. Đào tạo nguồn nhân lực
4.2.1.8. Xây dựng hệ thống công nghiệp phụ trợ
4.2.2. Những chính sách thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư Mỹ
4.2.2.1. Thành lập quỹ và tổ chức tư vấn, xúc tiến và phát triển
nghiên cứu thị trường dành riêng cho các nhà đầu tư Mỹ
4.2.2.2. Xây dựng tiêu chí đánh giá riêng cho việc phê duyệt các
dự án đầu tư của các nhà đầu tư Mỹ vào Việt Nam
4.2.2.3. Hỗ trợ và hợp tác đào tạo lao động theo nhu cầu của các
nhà đầu tư Mỹ
4.2.2.4. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các nhà đầu tư Mỹ
và hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp Việt Nam có kinh doanh với
doanh nghiệp có vốn đầu tư của Mỹ
4.2.2.5. Lựa chọn vị trí và xây dựng khu công nghiệp đồng bộ
4.2.2.6. Tăng cường các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ Việt kiều
Mỹ đầu tư về nước
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu Luận án “Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam từ
khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài đến 2010”, xin được rút ra một số
kết luận quan trọng liên quan đến cả lý luận và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, các lý thuyết cơ bản về FDI đã nghiên cứu nguồn gốc, bản
chất cũng như tác động của dòng vốn FDI ở các khía cạnh khác nhau.
Tuy vậy, nhìn chung các lý thuyết đều thống nhất ở khía cạnh: FDI là
hiện tượng tất yếu của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển của
khoa học công nghệ. Mặc dù có những tác động tiêu cực đối với những
lĩnh vực khác nhau trong những điều kiện nhất định đối với nước nhận


24
đầu tư và nước đầu tư, nhưng vai trò FDI đối với phát triển kinh tế của

các quốc gia là không thể phủ nhận.
Thứ hai, FDI Mỹ ra nước ngoài chủ yếu được các TNC thực hiện,
nhưng Chính phủ Mỹ luôn có các chính sách thúc đẩy, khuyến khích, hỗ
trợ để các công ty Mỹ yên tâm đầu tư ra nước ngoài thông qua việc Chính
phủ Mỹ tăng cường ký kết các hiệp định đa phương, song phương về
thương mại, đầu tư với các khu vực, quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, FDI Mỹ ra nước ngoài có những đặc điểm nổi bật: (1) FDI
Mỹ đánh giá cao môi trường pháp lý minh bạch; (2) FDI của Mỹ thường
tiếp cận những lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nước nhận đầu tư; (3) Tối đa
hoá lợi nhuận trong các hoạt động ở nước ngoài; (4) Chú trọng tiếp cận
thị trường của nước nhận đầu tư và coi đó là nền tảng để xây dựng chiến
lược đầu tư của công ty; (5) Chú trọng đến vị trí chiến lược của nước
nhận đầu tư; (6) Tập trung vào những dự án lớn với trình độ công nghệ
cao như công nghệ thông tin, viễn thông, dịch vụ tài chính; (7) Các nhà
đầu tư Mỹ đánh giá cơ sở hạ tầng của nước nhận đầu tư như là điều kiện
cần thiết tối quan trọng cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của các
TNC Mỹ diễn ra một cách trôi chảy; (8) Chất lượng nguồn nhân lực được
đánh giá cao hơn là lao động rẻ; (9) Các công ty Mỹ rất chú ý đến cơ cấu
công nghiệp của các nước nhận đầu tư, tạo điều kiện để các cơ cấu này dịch
chuyển theo hướng phù hợp cơ cấu kinh tế của Mỹ và bổ trợ cho ngành công
nghiệp Mỹ.
Các đặc điểm FDI Mỹ ra nước ngoài trên đây cũng đã được thể hiện
rõ trong đầu tư của Mỹ vào Việt Nam kể từ khi thực hiện Luật Đầu tư
nước ngoài cho đến nay.
Thứ tư, động thái đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam gắn liền với
các sự kiện cải thiện quan hệ giữa hai nước, gắn liền với việc Việt Nam
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới: Việt Nam gia nhập ASEAN
(7/1995), bình thường hóa quan hệ Việt Mỹ (7/1995) và ký kết Hiệp định
thương mại song phương Việt - Mỹ (12/2001), Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (1/2007). Sau các sự kiện này, quan hệ thương



25
mại, đầu tư Việt Nam - Hoa Kỳ đều ghi dấu sự cải thiện đáng kể. Từ khi
Việt Nam thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài đến nay, đầu tư trực tiếp của
Mỹ vào Việt Nam đã trải qua 3 làn sóng lớn gắn liền với các sự kiện trên.
Làn sóng đầu tư thứ nhất (1988 - 2001) gắn liền với sự kiện Việt Nam gia
nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Làn sóng đầu tư
thứ hai (2002 - 2007) gắn liền với việc thực hiện BTA và Việt Nam gia
nhập WTO. Làn sóng đầu tư thứ ba (từ năm 2008 đến nay) gắn liền với
khủng hoảng tài chính và suy thóa kinh tế toàn cầu, gắn với việc nâng cấp
quan hệ Việt - Mỹ lên quan hệ đối tác toàn diện, gắn với việc Mỹ xoay
trục sang khu vực Châu Á. Sắp tới đây, Hiệp định TPP được ký kết và có
hiệu lực sẽ mở ra thời kỳ mới cho đầu tư Mỹ vào Việt Nam. Thực chất
TPP là hiệp định thương mại tự do xuyên khu vực, vì vậy sẽ mở ra thời
kỳ mới cho quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Nhưng như mọi người đều
biết, đối với Mỹ, thương mại và đầu tư luôn gắn liền với nhau, hỗ trợ
nhau, ở đâu thương mại tăng lên thì ở đó đầu tư xuất hiện và hỗ trợ cho
thương mại.
Thứ năm, FDI Mỹ vào Việt Nam tác động tích cực đến phát triển kinh
tế Việt Nam, đặc biệt là thúc đẩy xuất khẩu sang Mỹ. Các dự án đầu tư
của Mỹ vào Việt Nam ngày càng tập trung vào sản xuất hàng hóa để xuất
khẩu ra thị trường thế giới, trong đó có thị trường Hoa Kỳ, đặc biệt sau
khi Việt Nam gia nhập WTO.
Thứ sáu, tuy có những bước nhảy vọt, nhưng đầu tư của Mỹ vào Việt
Nam còn khá khiêm tốn, quy mô dự án chưa thực sự lớn, các dự án FDI
thuộc các lĩnh vực có tiềm năng và thế mạnh của Hoa Kỳ vào Việt Nam
trong các lĩnh vực như điện tử, công nghệ thông tin, y tế, giáo dục, ... đã xuất
hiện nhưng số lượng còn hạn chế. Mặc dù Mỹ là đối tác xuất khẩu hàng đầu
của Việt Nam, nhưng đầu tư Mỹ vào Việt Nam mới chỉ xếp thứ 7 trong số các

nhà cung cấp FDI cho Việt Nam. Nguyên nhân xuất phát từ cả hai phía. Về phía
Mỹ, thị trường đầu tư của Mỹ rất rộng lớn nên các nước muốn thu hút FDI Mỹ
phải thực sự hấp dẫn. Về phía Việt Nam, việc năng suất lao động còn thấp, mức


×