Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Một số giải pháp tăng năng xuất lao động tại bộ phận đóng gói thành phẩm tại công ty TNHH technopia việt nam từ nay đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 61 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Bài nghiên cứu này được hòan thành nhờ sự nỗ lực cố gắng của em, sự áp
dụng những kiến thức học được ở trường, sự hướng dẫn tận tình của các thầy, cô khoa
Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế trường Đại Học Lạc Hồng, đặc biệt là sự hướng dẫn
tận tình của thầy Ths Nguyễn Văn Dũng, thầy đã có những góp ý và hướng dẫn rất quý
báo để em hòan thiện bài nghiên cứu này. Về phía công ty nơi em đang làm việc và
thực tập, em đã được sự ủng hộ nhiệt tình từ ban giám đốc công ty TNHH Technopia
Việt Nam, các cô, chú, anh, chị các phòng ban và đặc biệt là công nhân, những người
đang trực tiếp sản xuất tạo ra sản phẩm.
Nhân đây cho em gởi lời cảm ơn đến quý thầy, cô trường đại học lạc hồng,
thầy, cô Khoa Quản Trị Kinh Doanh Quốc Tế và đặc biệt là thầy Ths Nguyễn Văn
Dũng.
Cho em gởi lời cảm ơn sâu sắc đến cô, chị, anh, chú đang làm việc tại công ty TNHH
Technopia Việt nam đặc biệt là anh Lê Văn Long phó tổng giám đốc công ty, anh đã
có những đóng góp chân tình, cung cấp số liệu và cho em tiếp cận với số liệu làm cơ
sở để phân tích hoàn thành đề tài.
Cuối cùng cho em gởi lời chúc sức khỏe và những lời chúc tốt đẹp nhất đến
quý thầy, cô trường Lạc Hồng, các anh, chị, cô, chú đang làm việc tại công ty TNHH
Technopia Việt Nam kính chúc các anh, chị, cô, chú tràn đầy sức khỏe để tiếp tục gắn
bó làm việc vì bản thân, sự phát triển của công ty và vị sự phát triển của đất nước.
Kính chúc công ty ngày càng làm ăn thành đạt và ngày càng phát triển.


2

LỜI NÓI ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất
và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là
nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.


Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng bởi
quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào (lao
động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của một
đơn vị hay cả nền kinh tế - xã hội.
Tùy theo mục đích nghiên cứu của mỗi nước, mỗi ngành khác nhau trong từng giai
đoạn khác nhau mà áp dụng chỉ tiêu năng suất lao động theo phương thức khác nhau,
được tính toán bằng chỉ tiêu đầu ra khác nhau.
Ở Việt Nam, năng suất lao động được tính toán theo chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng
(tính toàn bộ giá trị của sản phẩm tương tự như chỉ tiêu giá trị sản xuất ngày nay) được
đưa vào chế độ báo cáo thống kê của các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp,
giao thông vận tải, xây dựng,... ngay từ những năm đầu mới thành lập ngành thống kê.
Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung có những năm năng suất lao động được coi là
một trong những chỉ tiêu pháp lệnh để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước
của doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng.
Trong các yếu tố của quá trình sản xuất, lao động đóng vai trò quyết định, sự thành
công của một đơn vị kinh doanh lệ thuộc rất lớn vào việc tổ chức, sử dụng có hiệu quả
lực lượng lao động.
Vì tầm quan trọng của năng suất lao động và là một người quản lý trực tiếp bộ phận
đóng gói, trực tiếp liên quan đến năng suất lao động nên em trọn đề tài “ Một số giải
pháp tăng năng suất lao động tại bộ phận đóng gói thành phẩm tại công ty TNHH
Technopia Việt Nam từ nay đến năm 2012” làm đề tài nghiên cứu, đây là đề tài về
năng suất lao động, mặc dù đã cố gắng và được sự hướng dẫn tận tình của giáo viên
hướng dẫn nhưng do kiến thức hạn chế nên đề tài không tránh khỏi sai sót, em kính


3

mong được sự hướng dẫn tận tình của quý thầy, cô trong trường, các anh chị cô chú
trong công ty để em hoàn thành đề tài được tốt hơn, đề tài nghiên cứu năng suất lao
động tại công ty TNHH Technopia Việt Nam và những yếu tố ảnh hưởng đến năng

suất lao động.
Đề tài đã áp dụng thực tế vào công ty, bước đầu đã giảm thao tác tại một số công đoạn
trong quá trình sản xuất thông qua đó đã giảm được nhân lực, tiết kiệm chi phí nhân
công lao động.
Đề tài sẽ được áp dụng vào thực tế tại công ty và sẽ được xem xét đánh giá tính hiệu
quả từ nay cho đế cuối năm 2010, tiếp bước theo đề tài sắp tới em dự định nghiên cứu
về đề tài “ Một số giải pháp để tạo sự gắn bó giữa công nhân viên lao động với
doanh nghiệp” nhằm tạo ra sự ổn định về lực lượng lao động, nguồn nhân lực cho
doanh nghiệp.

Xin chân thành cảm ơn !

Sinh viên thực hiện
VÕ THÀNH TRUNG.


4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
Mục tiêu tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp chỉ có thể đạt được bằng cách
tăng doanh thu thông qua mở rộng thị trường, tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ và hạ
giá thành sản phẩm. Cải tiến năng suất giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu nêu
trên. Có thể nói, cải tiến năng suất là yếu tố gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Năng suất chính là thước đo hiệu quả và hiệu lực trong việc sử dụng các
nguồn lực và trong việc đạt được mục tiêu. Năng suất được hiểu một cách chung nhất
và cơ bản nhất như sau:


Cải tiến năng suất là nhu cầu tất yếu để tồn tại và phát triển.




Nâng cao năng suất luôn đồng hành với đảm bảo chất lượng.



Năng suất nhấn mạnh vào việc giảm lãng phí.



Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để cải tiến năng suất.



Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hiện nay, nâng cao năng suất, phát
triển doanh nghiệp.

Đề tài gồm 4 chương:


Chương 1: Tổng quan về đề tài.
+ Trong chương này trình bày lý do chọn đề tài.
+ Tư liệu được sử dụng để phân tích, làm cơ sở để nghiên cứu.
+ Phương pháp nghiên cứu.



Chương 2: Cơ sở lý thuyết về năng suất lao động.
+ Nêu bật lên một số khái niệm về năng suất lao động.
+ Những yếu tố tác động trực tiếp đến năng suất lao động.

+ Vai trò và ý nghĩa của việc tăng năng suất.
+ Cách tính năng suất.
+ Các lọai hình sản xuất.



Chương 3: Nêu hiện trạng năng suất lao động hiện tại tại bộ phận
đóng gói thành phẩm tại công ty TNHH Technopia việt nam.


5



Chương 4: Một số giải pháp chính nhằm nâng cao năng suất lao
động.



Kiến nghị.



Kết luận.

1.1 Lý do chọn đề tài.
™

Yếu tố khách quan.
Chúng ta nói nhiều đến sự thay đổi ? Có hai câu hỏi được đặt ra: thay đổi cái gì


và làm gì để cái đó thay đổi? Không phải sự thay đổi nào cũng tích cực, ví dụ: phá sản
cũng là một sự thay đổi. Mỗi sự thay đổi đều kéo theo vô khối chi phí, vì vậy, nếu nó
không mang lại lợi ích gì thì hiển nhiên chúng ta sẽ bị thiệt hại. Vì thế “thay đổi cái
gì ?” thực sự là một câu hỏi nghiêm túc đối với mọi tổ chức.
Bạn có thể đưa ra những thay đổi về công nghệ, về mô hình tổ chức, về chính
sách khen thưởng hoặc cách thức tiếp thị mới để mở rộng thị phần… Nhưng một tổ
chức có năng suất lao động thấp không bao giờ có năng lực cạnh tranh trong một thị
trường mở như hiện nay.
Vì vậy, sự giảm bớt thời gian cần thiết để tạo ra một đơn vị sản phẩm là một
trong những thay đổi quan trọng nhất mà mọi tổ chức phải lưu tâm. Có thời, chúng ta
luôn nhấn mạnh đến lợi thế giá nhân công Việt Nam rẻ, đây là một sự ngộ nhận. Việc
xem xét giá nhân công chỉ có ý nghĩa, nếu đặt nó trong mối tương quan với năng suất
lao động. Nếu một kỹ sư Ấn Độ nhận lương cao gấp đôi kỹ sư Việt Nam, nhưng năng
suất lao động có thể cao gấp ba, thì thực chất giá nhân công của Ấn Độ rẻ hơn. Năng
suất lao động cao đã cho phép Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh với cả những quốc gia
có mức lương chỉ bằng 1/5: ví dụ năng suất cao đã làm cho đơn giá một đơn vị sản
phẩm sản xuất tại Hoa Kỳ thấp hơn cả Malaysia hay Philippine.
Hệ quả của năng suất lao động là rất trực tiếp. Một cá nhân có năng suất lao động kém
thì lương sẽ thấp. Một công ty có năng suất lao động kém thì giá thành sản phẩm sẽ cao
và chỉ số lợi nhuận thấp. Một quốc gia có năng suất lao động kém thì sẽ ngày càng tụt
hậu so với những quốc gia có năng suất lao động cao hơn.


6

Có 3 sự kiện đáng chú ý trong hầu hết các tổ chức:


Năng suất đang ở mức thấp và các nhà quản lý biết về điều đó, nhưng

không có ai cảm thấy mình buộc phải làm điều gì đó để nâng cao năng
suất.



Năng suất rất khác nhau giữa những người đang làm cùng một việc và
được trả lương ngang nhau.



Công ty không có một tiến trình nào mang tính hệ thống để cải thiện
năng suất theo thời gian.
Hầu hết các công ty đều có kế hoạch tiếp thị, kế hoạch mua hàng, kế hoạch

bán hàng, kế hoạch đầu tư trang thiết bị, kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất,… Nhưng
rất ít công ty có kế hoạch nâng cao năng suất nguồn lực quan trọng bậc nhất là con
người.
Làm gì để nâng cao năng suất của một tổ chức? Đây phải là một quá trình lâu dài và
liên tục, có mục tiêu, có kế hoạch, có xem xét đánh giá,… Ở đây tôi xin lưu ý, lương
khoán sản phẩm là hình thức khuyến khích nhân viên chủ động tăng năng suất tốt nhất.
Vì vậy, bất kỳ công việc nào, nếu có thể quy thành số lượng đơn vị sản phẩm, thì nên
trả lương khoán. Riêng đối với những công việc không thể khoán thì cũng cần thường
xuyên thi chuyên môn để tìm ra những người có năng suất cao hơn để trả lương cao
hơn. Công nghệ lạc hậu cũng không thể cho năng suất cao. Nếu chúng ta cứ dùng mãi
cái cày chìa vôi thì không thể tiến đến những cánh đồng 10 tấn, 20 tấn. Vì vậy đổi mới
công nghệ là rất cần thiết để nâng cao năng suất.Với cá nhân, làm thế nào để có thể
nâng cao năng suất lao động? Nếu bạn thực tâm muốn thay đổi thì đây không phải việc
quá khó! Ngoài công việc, trong cuộc sống, những việc như đi lại, đọc sách, ăn uống,
nghỉ ngơi,… chiếm của bạn rất nhiều thời gian. Vì thế chúng ta cũng nên nghĩ cách cải
thiện năng suất ở những chuyện này. Tại sao bạn mua xe máy? Đơn giản vì xe máy nó

giúp bạn đi nhanh hơn. Ngày nay có rất nhiều sách và bạn muốn biết nhiều thì phải đọc
nhiều. Nếu bạn biết cách đọc nhanh hơn, bạn sẽ đọc được nhiều hơn. Việc nghỉ ngơi
cũng cần có năng suất. Có người cứ lên giường là trằn trọc thao thức rồi mộng mị
hoảng loạn, tối đi nằm sớm, sáng dậy trễ, nhưng cơ thể vẫn mệt mỏi. Nhưng nếu bạn
biết cách ngủ thật sâu, thì 4-5 tiếng là quá đủ để con người bắt đầu một ngày mới đầy
sảng khoái.


7

Năng suất lao động là cái quyết định sức mạnh của một tổ chức. Ngày xưa, Lê Nin đã
từng nói, sự ưu việt của Chủ nghĩa Xã hội phải thể hiện ở năng suất lao động. Tiếc
rằng, chúng ta đã không theo được lời dạy của Người, dẫn đến sự sụp đổ của cả một hệ
thống xã hội lý tưởng. Với những công việc đơn giản như lao động chân tay, sự khác
biệt về năng suất lao động không lớn, nhưng với những công việc trí tuệ, sự khác biệt
về năng suất lao động là vô hạn. Tóm lại năng suất có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh
vực từ việc cá nhân cho đến sản suất của cải vật chất. lao động có năng suất tạo nên lợi
thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
™

Yếu tố chủ quan.


Do qui mô sản xuất ngày càng cao, đòi hỏi nguồn nhân lực càng tăng.



Nếu tăng năng suất lên 20% đồng nghĩa với việc giảm tuyển dụng để đáp
ứng nhu cầu sản suất.




Năng suất lao động tại bộ phận đóng gói của công ty thấp hơn so với một
số công ty trong cùng lĩnh vực sản suất.



Do yêu cầu phải nân cao năng suất lao động nhằm nân cao năng lực.
cạnh tranh từ ban giám đốc nhà máy.

2.1 Những tư liệu được sử dụng.
™

Những tư liệu được xử dụng để nghiên cứu năng suất hiện chủ yếu từ các
nguồn sau:


Báo cáo hằng tháng của bộ phận đóng gói 2006,2007,2008 và 6 tháng
đầu năm 2009.



Năng suất bình quân của bộ phận đóng gói hằng năm.



Dữ liệu báo cáo của các công ty cùng nghành trong tập đoàn cùng thời
điểm.




Cơ sở dữ liệu quan sát được thực tế hằng ngày (từ phiếu ghi nhận tự thiết
lập).

3.1 Phương pháp nghiên cứu:
™

Phương pháp được áp dụng chủ yếu ở bên dưới. Phương pháp này dựa trên
việc phân tích kết cấu bước công việc từ các tài liệu kỹ thuật, hướng dẫn
công việc và thông qua việc chụp ảnh cá nhân ngày làm việc và bấm giờ
bước công việc của công nhân để tính mức lao động cho bước công việc.


8

Bên cạnh đó, còn sử dụng mô hình kinh tế lượng để xác định các ảnh hưởng
đến năng suất lao động.


Phương pháp quan sát.



Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm.



Phương pháp thống kê.

4.1 Phạm vi nghiên cứu:



Năng suất lao động.



Năng suất lao động tại bộ phận đóng gói và những yếu tố ảnh hưởng đến
năng suất lao động từ đó có những giải pháp cho những yếu tố này.

Chương 2:

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NĂNG SUẤT

LAO ĐỘNG

2.1 Một số khái niệm về năng suất lao động, những yếu tố ảnh hưởng đến
năng suất lao động.
2.1.1 Một số khái niệm về năng suất lao động:


Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống,
đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất)
và một chỉ tiêu đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng
hợp nói lên năng lực sản xuất của một đơn vị hay cả nền kinh tế - xã hội.



Năng suất lao động là năng lực của người lao động được thể hiện bằng số
lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc có thể hoàn thành trong một
đơn vị thời gian hay số thời gian cần thiết để tạo ra một đơn vị sản phẩm

hoặc khối lượng công việc trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định.


9



Hiệu quả lao động được xác định theo thời gian qui định với sản phẩm
hoàn thành.



Xét theo quan điểm “ Nhấn mạnh vào đầu ra” thì: Sản phẩm và dịch vụ
đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng, kể cả những
mong muốn hiện tại và tương lai, hiện có hoặc tiềm ẩn.Giảm thiểu tác
động xấu tới môi trường, đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội. Thoả
mãn người lao động trong doanh nghiệp.



Xét theo quan điểm “Nhấn mạnh vào việc giảm chi phí thông qua áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, các phương pháp quản lý, các tính toán
chi phí hợp lý. nhằm hạ giá thành sản phẩm.



Xét theo quan điểm hướng vào việc tạo ra giá trị: giảm thiểu những khâu,
công đoạn không tạo ra giá trị gia tăng; không ngừng nghiên cứu, tái thiết
kế, phát triển sản phẩm để nâng cao giá tri cho sản phẩm [6-trang 22].




Xét theo quan điểm làm đúng việc ngay từ đầu và luôn làm đúng: đảm
bảo định hướng đúng sản phẩm, kiểm soát quá trình chế tạo theo đúng
hướng.

™

Như vậy, nếu quan tâm đến khái niệm năng suất một cách đúng đắn và vận
dụng những triết lý cơ bản thì sự phát triển của năng suất sẽ thực sự khẳng
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Năng suất chỉ có nghĩa khi
được gắn liền với cụm từ "Cải tiến". "Cải tiến", "phát triển" hay "Nâng cao"
là những yếu tố rất quan trọng thể hiện sự tiến lên không ngừng của nhân
loại.

2.1.2 Những yếu tố tác động tới năng suất:
™

Năng suất chịu tác động của nhiều yếu tố: môi trường kinh tế - chính trị - xã
hội, cơ chế chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, tình hình thị trường,
trình độ công nghệ, hệ thống tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất của doanh
nghiệp, mối quan hệ lao động - quản lý, khả năng về vốn, phát triển nguồn
lực... Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất có thể được chia thành hai nhóm:
nhóm yếu tố bên ngoài bao gồm môi trường kinh tế thế giới, tình


10

hình thị trường, cơ chế, chính sách kinh tế của Nhà nước; những yếu tố bên
trong bao gồm lao động, vốn, công nghệ [3-trang 15].

™

Tình hình và khả năng tổ chức quản lý sản xuất.

™

Ngoài các yếu tố bên ngoài tác động, các yếu tố tác động từ bên trong nội bộ
tổ chức có thể cải tiến và thay đổi được để tăng năng suất của doanh nghiệp.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu năng suất, trong các yếu tố nêu trên
có 3 yếu tố được coi là cơ bản nhất trong cải tiến năng suất, đó là:


Người lao động: Con người được coi là nguồn gốc của sự cải tiến. Nâng
cao năng suất là quá trình tư duy và tạo ra sự thay đổi trong thiết kế, sản
xuất, phân phối, sử dụng, duy trì và loại bỏ sản phẩm. Trong suốt quá
trình này, con người đóng vai trò quan trọng nhất vì chỉ con người mới
nghĩ ra được các thay đổi và thực hiện chúng. Đặc biệt trong thời đại mà
kiến thức, sự sáng tạo và đổi mới được coi là vũ khí cạnh tranh mạnh
nhất thì vai trò của con người hay nói cụ thể hơn là người lao động - càng
trở nên quan trọng hơn. Trước nhiều cách thức họ nghĩ về tổ chức, vai
trò, mong muốn của họ, công việc, giá trị và tầm nhìn của họ hình thành
nên hành vi và sự tham gia vào các quá trình hoạt động, mà năng suất
phụ thuộc rất nhiều vào thái độ, hành vi và sự tham gia vào các quá trình
như vậy.



Vai trò của Lãnh đạo: Người lãnh đạo thúc đẩy và thực hiện cải tiến.
Người lãnh đạo tổ chức chính là người ra quyết định và lựa chọn sản
phẩm, dịch vụ, công nghệ, hệ thống, phương pháp, là người huy động và

phát triển nguồn lực, định hướng cho tổ chức và tạo ra môi trường quyết
định sự phát triển [5-trang 12]



Công nghệ và các quá trình kinh doanh: Công nghệ và các quá trình kinh
doanh là các yếu tố then chốt. Công nghệ là yếu tố then chốt quyết định
sự thành công vì một lý do đơn giản, một công ty không có thể đứng
vững được nếu trang bị cho mình những thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu
giữa một thời đại phát triển nhanh chóng về công nghệ. Bên cạnh đó, các
quá trình kinh doanh cũng có vai trị quan trọng vì chỉ có


11

định hướng tốt, quản lý tốt mới tạo được những cơ hội thích ứng với
những thay đổi nhanh chóng về công nghệ, nhu cầu của con người và xã
hội [4-trang 9].
3.1 Quá trình phát triển của quản trị năng suất lao động.
™

Quản trị năng suất lao động bắt đầu từ thời cổ đại khi con người tiến hành
xây dựng Vạn Lý Trường Thành , Kim Tự Tháp, Đường Xá …..

™

Tới những năm 1770, cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu ở nước Anh, rồi
lan sang phần còn lại của Châu Âu và nước Mỹ. Nhiều phát minh khoa học
mang tính cách mạng ra đời đã làm thay đổi nhanh chóng công cụ lao động
và phương pháp sản xuất, tạo điều kiện chuyển hóa từ lao động thủ công

sang cơ khí. Song hành với phát minh khoa học kỹ thuật là những khám phá
quan trọng về khoa học quản lý, tạo điều kiện hoàn thiện tổ chức quản lý sản
xuất.

™

Năm 1776 Adam Smith đề cập đến lợi ích của phân công lao động trong
cuốn “ Của cải của các quốc gia” từ đó, quá trình chuyên môn hóa sản xuất
được tổ chức, ứng dụng đã đưa năng suất lao động tăng lên đáng kể.

™

Năm 1790, lý thuyết trao đổi lấp lẫn giữa các chi tiết, bộ phận của Eli
Whitney đã đóng góp to lớn cho vấn đề nân cao năng lực sản xuất xã hội,
mở ra khả năng phân công hợp tác giữa các doanh nghiệp, điều đó có tác
động sâu sắc tới quan niệm quản trị sản xuất, năng xuất lao động và qui mô
doanh nghiệp không ngừng tăng lên trong giai đoạn này.

™

Năm 1911, bằng việc công bố học thuyết “Quản Lý Khoa Học” Frederick
Winslow Taylor đã tạo ra một bước ngoặc cơ bản trong tổ chức hoạt động
sản xuất ở các doanh nghiệp. quá trình sản xuất phải được hợp lý hóa thông
qua quan sát, đo lường, ghi chép, phân tích và cải tiến phương pháp làm
việc. trên cơ sở đó tiến hành chia nhỏ công việc thành những bước đơn giản
để giao cho một cá nhân thực hiện. Như vậy, muốn tổ chức sản xuất thì trước
hết phải lập kế hoạch, hướng dẫn, phân công công việc hợp lý. Nhờ áp dụng
phương pháp của ông, năng suất lao động giai đoạn này tăng lên nhanh
chóng.



12

™

Sang những năm 30 của thế kỷ 20, luận thuyết của Taylor đã ở giới hạn tối
đa và bộc lộ những nhược điểm cơ bản. các công ty luôn vắc kiệt sức lao
động của công nhân khi đi tiềm kiếm hiệu quả. Người lao động không chỉ
được xem xét ở khía cạch kỹ thuật thuần túy như một bộ phận kéo dài của
máy móc thiết bị mà là thực thể sáng tạo có nhu cầu tâm lý, tình cảm riêng.
Mọi vấn đề về xã hội, hành vi, tâm lý, tình cảm riêng. Mọi vấn đề xã hội,
hành vi, tâm lý con người được nghiên cứu và đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhằm khai thác khả năng vô tận của riêng họ trong việc nâng cao năng suất
tao động, tăng số lượng và chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất [1trang 20].
4.1 Vai trò và ý nghĩa của năng suất lao động.


Năng suất lao động là chỉ tiêu chất lượng quan trọng thể hiện trình độ sản
xuất kinh doanh, là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự hiệu quả sử dụng lao
động và kết quả của quá trình sản xuất.



Nâng cao năng suất lao động là tăng số lượng sản phẩm và giảm thời
gian cần thiết trong sản xuất sản phẩm.



Để đánh giá trình độ của người lao động.


5.1 Các cách tính năng suất lao động: Có 3 cách tính.
™

Năng suất lao động tính theo đơn vị hiện vật (Wh).
Đây là năng suất lao động mà kết quả của quá trình sản xuất được tính theo
dạng hiện vật như lượng sản phẩm sản xuất….
Wh = Q/CN
Trong đó: Q: số lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc
CN: số lượng công nhân sản xuất.
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị công việc do một người lao động hoàn thành
trong đơn vị thời gian.
Đánh giá trực tiếp giá trị năng suất lao động.

™

Năng suất lao động tính bằng giá trị.


13

Wg = G/CN
Trong đó: G: tổng giá trị sản lượng hay doanh thu.
CN: số lượng công nhân sản xuất.
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị công việc do một người lao động tạo ra trong
một đơn vị thời gian.
™

Năng suất lao động tính bằng thời gian Wt.
Wt = T/Q
Trong đó: T: tổng thời gian sản xuất.

Q: Số lượng sản phẩm sản xuất trong đơn vị thời gian.
Chỉ tiêu này phản ánh thời gian cần thiết để hoàn thành một đơn vị sản phẩm
Thông thường người ta áp dụng “Năng suất lao động tính bằng thời gian Wt”
để tính năng suất lao động.

6.1 Phân loại các loại hình sản xuất.
6.1.2 Sơ đồ quá trình sản xuất.
Giá trị gia tăng
Đầu vào

Quá trình chuyển hóa

Đầu ra

Phản hồi
Kiểm tra

Phản hồi

Phản hồi
Sơ đồ 2.1: Quá trình sản suất

Trong thực tiễn có rất nhiều kiểu, dạng sản xuất khác nhau. Sự khác biệt về kiểu,
dạng sản xuất có thể do sự khác biệt về trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức
sản xuất, về tính chấtsản phẩm... Mỗi kiểu, dạng sản xuất đòi hỏi phải áp dụng
một phương pháp quản trị thích hợp. Do đó phân loại sản xuất là một yếu


14


tố quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn phương pháp quản trị sản xuất
phù hợp. Cũng vì lý do trên, việc phân loại này phải được tiến hành trước khi thực
hiện một dự án quản trị sản xuất. Sản xuất của một doanh nghiệp được đặc trưng
trước hết bởi sản phẩm của nó. Tuy nhiên người ta có thể thực hiện phân loại sản
xuất theo các đặc trưng sau đây:


Số lượng sản phẩm sản xuất.



Tổ chức các dòng sản xuất.



Mối quan hệ với khách hàng.



Kết cấu sản phẩm.



Khả năng tự chủ trong việc sản xuất sản phẩm.

6.1.3 Phân loại theo số lượng sản xuất và tính chất lặp lại. Phân loại theo
số lượng sản xuất và tính chất lặp lại là một cách phân loại có tính
chất giao nhau. Theo cách phân loại này ta có :



Sản xuất đơn chiếc.



Sản xuất hàng khối.



Sản xuất hàng loạt thông qua quá trình sản xuất các doanh nghiệp chuyển
hoá các yếu tố đầu vào thành kết quả đầu ra quá trình sản xuất.



Đất đai.



Lao động.



Vốn.



Trang thiết bị.



Nguyên nhiên vật liệu.




Tiến bộ khoa học.



Nghệ thuật quản trị các yếu tố đầu vào.



Sản phẩm hữu hình: Ti vi, tủ lạnh, máy móc, thiết bị...



Dịch vụ: Bữa tiệc, tư vấn pháp lý, chăm sóc sức khoẻ...Kết quả đầu ra ở
đây cần chú ý số lượng lớn hay nhỏ có tính chất tương đối, chúng tuỳ
thuộc vào đặc điểm của từng loại sản phẩm. Với một số lượng sản phẩm
nào đó người ta còn phải kể đến tính chất lặp lại của quá trình sản xuất.


15

™

Sản xuất đơn chiếc: Đây là loại hình sản xuất diễn ra trong các doanh nghiệp
có số chủng loại sản phẩm được sản xuất ra rất nhiều nhưng sản lượng mỗi
loại được sản xuất rất nhỏ. Thường mỗi loại sản phẩm người ta chỉ sản xuất
một chiếc hoặc vài chiếc. Quá trình sản xuất không lặp lại, thường được tiến
hành một lần nên chúng có một số đặc điểm cơ bản sau:



Khâu chuẩn bị kỹ thuật sản xuất và khâu sản xuất thường không được
tách rời. Không có sự chế tạo, thử nghiệm sản phẩm trước khi đưa vào
sản xuất như ở trong các loại hình sản xuất cao hơn.



Quy trình công nghệ thường được lập ra một cách sơ sài, trong nhiều
trường hợp chúng cần được chính xác hoá nhờ kinh nghiệm của người
công nhân.



Trình độ nghề nghiệp của người công nhân cao vì họ phải làm nhiều loại
công việc khác nhau. Nhưng do không được chuyên môn hoá nên năng
suất lao động thường thấp.



Máy móc thiết bị của doanh nghiệp chủ yếu là các thiết bị vạn năng được
sắp xếp theo từng loại máy có cùng tính năng, tác dụng phù hợp với
những công việc khác nhau và thay đổi luôn luôn.



Đầu tư ban đầu nhỏ và tính linh hoạt của hệ thống sản xuất cao. Đây là
ưu điểm chủ yếu của loại hình sản xuất này.

™


Sản xuất hàng khối: Đây là loại hình sản xuất đối lập với loại hình sản xuất
đơn chiếc, diễn ra trong các doanh nghiệp có số chủng loại sản phẩm được
sản xuất ra ít thường chỉ có một vài loại sản phẩm với khối lượng sản xuất
hàng năm rất lớn. Quá trình sản xuất rất ổn định, ít khi có sự thay đổi về kết
cấu sản phẩm, yêu cầu kỹ thuật gia công sản phẩm cũng như nhu cầu sản
phẩm trên thị trường. Sản xuất thép, sản xuất giấy, sản xuất điện, xi măng...
là những ví dụ tương đối điển hình về loại hình sản xuất này. Các doanh
nghiệp có loại hình sản xuất này thường có những đặc điểm chính sau:


Vì gia công chế biến ít loại sản phẩm, với khối lượng lớn nên thiết bị
máy móc thường là các loại thiết bị chuyên dùng hoặc các thiết bị tự


16

động, được sắp xếp thành các dây chuyền khép kín cho từng loại sản
phẩm.


Khâu chuẩn bị kỹ thuật sản xuất như thiết kế sản phẩm, chế tạo các mẫu
thử sản phẩm và quy trình công nghệ gia công sản phẩm được chuẩn bị
rất chu đáo trước khi đưa vào sản xuất đồng loạt. Như vậy khâu chuẩn bị
kỹ thuật sản xuất và khâu sản xuất là hai giai đoạn tách rời.



Do tổ chức sản xuất theo kiểu dây chuyền nên trình độ chuyên môn hoá
người lao động cao, mỗi người công nhân thường chỉ thực hiện một

nguyên công sản xuất ổn định trong khoảng thời gian tương đối dài nên
trình độ nghề nghiệp của người lao động không cao nhưng năng suất lao
động thì rất cao.



Chất lượng sản phẩm ổn định, giá thành hạ. Đây là những ưu điểm lớn
nhất của loại hình sản xuất này.



Nhu cầu vốn đầu tư ban đầu vào các thiết bị chuyên dùng rất lớn. Đây là
nhược điểm lớn nhất của loại hình sản xuất này, khi nhu cầu thị trường
thay đổi, doanh nghiệp rất khó khăn trong việc chuyển đổi sản phẩm. Do
vậy, chúng thường chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm thông dụng có
nhu cầu lớn và ổn định.

™

Sản xuất hàng loạt (Sản xuất loại nhỏ và loại trung bình) – Batch sản xuất
hàng loạt là loại hình sản xuất trung gian giữa sản xuất đơn chiếc và sản xuất
hàng khối, thường áp dụng đối với các doanh nghiệp có số chủng loại sản
phẩm được sản xuất ra tương đối nhiều nhưng khối lượng sản xuất hàng năm
mỗi loại sản phẩm chưa đủ lớn để mỗi loại sản phẩm có thể được hình thành
một dây chuyền sản xuất độc lập. Mỗi bộ phận sản xuất phải gia công chế
biến nhiều loại sản phẩm được lặp đi lặp lại theo chu kỳ. Với mỗi loại sản
phẩm người ta thường đưa vào sản xuất theo từng "loạt" nên chúng mang tên
"sản xuất hàng loạt". Loại hình sản xuất này rất phổ biến trong ngành công
nghiệp cơ khí dụng cụ, máy công cụ, dệt may, điện dân dụng, đồ gỗ nội
thất... với những đặc trưng chủ yếu sau:



Máy móc thiết bị chủ yếu là thiết bị vạn năng được sắp xếp bố trí thành
những phân xưởng chuyên môn hoá công nghệ. Mỗi phân xưởng đảm


17

nhận một giai đoạn công nghệ nhất định của quá trình sản xuất sản phẩm
hoặc thực hiện một phương pháp công nghệ nhất định.


Chuyên môn hoá sản xuất không cao nhưng quá trình sản xuất lặp đi lặp
lại một cách tương đối ổn định nên năng suất lao động tương đối cao.



Vì mỗi bộ phận sản xuất gia công nhiều loại sản phẩm khác nhau về yêu
cầu kỹ thuật và quy trình công nghệ nên tổ chức sản xuất thường rất phức
tạp. Thời gian gián đoạn trong sản xuất lớn, chu kỳ sản xuất dài, sản
phẩm tồn kho trong nội bộ quá trình sản xuất lớn... Đó là những vấn đề
lớn nhất trong quản lý sản xuất loại hình này.



Đồng bộ hoá sản xuất giữa các bộ phận sản xuất là một thách thức lớn
khi xây dựng một phương án sản xuất cho loại hình sản xuất này.




Vì là một loại hình trung gian của hai loại hình trên nên nó cũng có
những đặc điểm trung gian của sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng khối.

6.1.4 Phân loại theo hình thức tổ chức sản xuất:
Theo cách phân loại này chúng ta có ba dạng sản xuất chủ yếu sau đây:

™



Sản xuất liên tục.



Sản xuất gián đoạn.



Sản xuất theo dự án.



Trong thực tế còn có thể có các dạng sản xuất trung gian.
Sản xuất liên tục (Flow shop).

Sản xuất liên tục là một quá trình sản xuất mà ở đó người ta sản xuất và xử lý một khối
lượng lớn một loại sản phẩm hoặc một nhóm sản phẩm nào đó. Thiết bị được lắp đặt
theo dây chuyền sản xuất làm cho dòng di chuyển của sản phẩm có tính chất thẳng
dòng. Vì các xưởng được sắp xếp thẳng dòng nên tiếng Anh gọi là Flow shop.
Trong dạng sản xuất này, máy móc thiết bị và các tổ hợp sản xuất được trang bị chỉ để

sản xuất một loại sản phẩm vì vậy hệ thống sản xuất không có tính linh hoạt. Để hạn
chế sự tồn ứ chế phẩm và khơi thông dòng chuyển sản phẩm trong nội bộ quá


18

trình sản xuất, cân bằng năng suất trên các thiết bị và các công đoạn sản xuất phải được
tiến hành một cách thận trọng và chu đáo.
Dạng sản xuất liên tục thường đi cùng với tự động hoá quá trình vận chuyển nội bộ
bằng hệ thống vận chuyển hàng hoá tự động. Tự động hoá nhằm đạt được một giá
thành sản phẩm thấp, một mức chất lượng cao và ổn định, mức tồn đọng chế phẩm thấp
và dòng luân chuyển sản phẩm nhanh.
Trong các doanh nghiệp dạng sản xuất liên tục bắt buộc phải thực hiện phương pháp
sửa chữa dự phòng máy móc thiết bị (sửa chữa trước khi máy hỏng) để tránh sự gián
đoạn hoàn toàn của quá trình sản xuất.
™

Sản xuất gián đoạn (Job shop).

Sản xuất gián đoạn là một hình thức tổ chức sản xuất ở đó người ta xử lý, gia công, chế
biến một số lượng tương đối nhỏ sản phẩm mỗi loại, song số loại sản phẩm thì nhiều,
đa dạng. Quá trình sản xuất được thực hiện nhờ các thiết bị vạn năng (máy tiện, máy
phay). Việc lắp đặt thiết bị được thực hiện theo các bộ phận chuyên môn hoá chức
năng. Bộ phận chuyên môn hoá chức năng là bộ phận ở đó tập hợp tất cả các máy móc,
thiết bị có cùng chức năng, cùng nhiệm vụ (máy tiện, máy phay,...) dòng di chuyển của
sản phẩm phụ thuộc vào thứ tự các nguyên công cần thực hiện.
Trong dạng sản xuất này người ta bố trí các bộ phận theo nhiệm vụ (Job shop), máy
móc thiết bị.
Có khả năng thực hiện nhiều công việc khác nhau, nó không phải là để chuyên môn
hoá cho một loại sản phẩm vì vậy tính linh hoạt của hệ thống sản xuất cao. Ngược lại

rất khó cân bằng các nhiệm vụ trong một quá trình sản xuất gián đoạn. Năng suất của
các máy không bằng nhau làm cho mức tồn đọng chế phẩm trong quá trình sản xuất
tăng lên. Công nghiệp cơ khí và công nghiệpmay mặc là những ví dụ điển hình về dạng
sản xuất này.
™

Sản xuất theo dự án.


19



Sản xuất theo dự án là một loại hình sản xuất mà ở đó sản phẩm là độc
nhất (Ví dụ: đóng một bộ phim, đóng một con tàu, viết một cuốn sách,...)
và vì lẽ đó quá trình sản xuất cũng là duy nhất, không lặp lại.



Nguyên tắc của tổ chức sản xuất theo dự án là tổ chức thực hiện các công
việc và phối hợp chúng sao cho giảm thời gian gián đoạn, đảm bảo kết
thúc dự án và giao nộp sản phẩm đúng thời hạn. Trong dạng sản xuất này
quá trình sản xuất không ổn định, cơ cấu tổ chức bị xáo trộn rất lớn do
chuyển từ dự án này sang dự án khác, tổ chức sản xuất phải đảm bảo tính
chất linh hoạt cao để có thể thực hiện đồng thời nhiều dự án sản xuất
cùng một lúc. Sản xuất theo dự án có thể coi như một dạng đặc biệt của
sản xuất gián đoạn.

6.1.5 Phân loại theo mối quan hệ với khách hàng.
Theo cách phân loại này chúng ta phân biệt hai dạng sản xuất chính sau:



Sản xuất để dự trữ.



Sản xuất khi có yêu cầu ( đặt hàng).

™

Sản xuất để dự trữ.

Sản xuất để dự trữ sản phẩm cuối cùng của một doanh nghiệp xảy ra khi:


Chu kỳ sản xuất lớn hơn chu kỳ thương mại mà khách hàng yêu cầu. Chu
kỳ sản xuất sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi đưa sản phẩm vào gia
công cho tới khi sản phẩm hoàn thành và có thể giao cho khách hàng.
Chu kỳ thương mại đó là khoảng thời gian kể từ khi khách hàng có yêu
cầu cho đến khi yêu cầu đó được phục vụ (thoả mãn), nói một cách khác,
từ khi khách hàng hỏi mua đến khi nhận được sản phẩm. Khi chu kỳ sản
xuất dài hơn chu kỳ thương mại, cần phải sản xuất trước (dựa trên kết
quả của quá trình dự báo nhu cầu) để thoả mãn nhu cầu của khách hàng
nhanh nhất ngay khi xuất hiện một yêu cầu.



Các nhà sản xuất muốn sản xuất một khối lượng lớn để giảm giá thành.




Nhu cầu về các loại sản phẩm có tính chất thời vụ, trong các giai đoạn
nhu cầu sản phẩm trên thị trường thấp, sản phẩm không tiêu thụ được,


20

các nhà sản xuất không muốn ngừng quá trình sản xuất, sa thải công
nhân, vì vậy họ quyết định sản xuất để dự trữ rồi tiêu thụ cho các kỳ sau,
khi nhu cầu trên thị trường tăng lên.
™

Sản xuất theo yêu cầu.


Theo hình thức này quá trình sản xuất chỉ được tiến hành khi xuất hiện
những yêu cầu cụ thể của khách hàng về sản phẩm. Vì vậy nó tránh được
sự tồn đọng của sản phẩm cuối cùng chờ tiêu thụ. Dạng sản xuất này hiện
nay được ưa chuộng và sử dụng nhiều hơn dạng sản xuất để dự trữ bởi vì
nó giảm được khối lượng dự trữ, giảm các chi phí tài chính nhờ đó mà
giảm được giá thành sản phẩm, nâng cao lợi nhuận. Vì vậy hãy lựa chọn
hình thức sản xuất này khi có thể.



Trong thực tế, hình thức tổ chức sản xuất hỗn hợp tồn tại khá nhiều, ở đó
người ta tận dụng thời hạn chấp nhận được của khách hàng để lắp ráp
hoặc thực hiện khâu cuối cùng của quá trình sản xuất sản phẩm, hoặc để
cá biệt hoá tính chất của sản phẩm (phần này được thực hiện theo những
yêu cầu của khách hàng). Giai đoạn đầu được thực hiện

theo phương pháp sản xuất để dự trữ.

6.1.6 Phân loại theo quá trình hình thành sản phẩm.


Quá trình hình thành sản phẩm cũng được coi là một trong những căn cứ
để phân loại sản xuất của doanh nghiệp. Theo cách phân loại này người
ta phân biệt bốn quá trình hình thành sản phẩm trong sản xuất sau đây:



a. Quá trình sản xuất hội tụ: Trong trường hợp này một sản phẩm được
ghép nối từ nhiều cụm, nhiều bộ phận, tính đa dạng của sản phẩm cuối
cùng nói chung là nhỏ, nhưng các cụm, các bộ phận thì rất nhiều. Số mức
kết cấu có thể thay đổi từ một đến hàng chục, ví dụ sản xuất các sản
phẩm đồ điện dân dụng và sản phẩm cơ khí,....



b. Quá trình sản xuất phân kỳ: Đó là trường hợp mà các doanh nghiệp
xuất phát từ một hoặc một vài loại nguyên vật liệu nhưng lại cho ra rất
nhiều loại sản phẩm khác nhau. Ví dụ trong công nghiệp sữa, từ một


21

loại nguyên liệu là sữa sản phẩm cuối cùng bao gồm nhiều loại với
những quy cách và bao bì khác nhau như pho mát, sữa chua, bơ,....



c. QTSX phân kỳ có điểm hội tụ: Đó là trường hợp các doanh nghiệp
xuất phát từ nhiều các bộ phận, các cụm, các chi tiết tiêu chuẩn hoá hình
thành một điểm hội tụ rồi xuất phát từ điểm hội tụ đó sản phẩm cuối cùng
của doanh nghiệp lại rất nhiều loại và đa dạng thậm chí cũng nhiều loại
như các yếu tố đầu vào.VD: Công nghệ sản xuất ô tô.



Thông thường để quản lý loại doanh nghiệp này ta có thể áp dụng các
phương pháp khác nhau đối với các phần khác nhau. Ví dụ: Quản lý sản
xuất để dự trữ đối với các phần hội tụ, quản lý sản xuất theo đơn hàng
đối với các phần phân kỳ. Kết cấu loại này thường gặp trong công nghệ
sản xuất ô tô,.... Từ các chi tiết bộ phận tiêu chuẩn hoá người ta hình
thành nhiều kiểu truyền động khác nhau (hộp số) và nhiều loại mui xe,
kính chắn giá khác nhau,...



d. Quá trình sản xuất song song: Các doanh nghiệp có ít loại sản phẩm, ít
loại nguyên liệu, các thành phẩm cuối cùng được tập hợp từ rất ít các yếu
tố, thậm chí từ một yếu tố. Công nghiệp bao bì là một ví dụ điển hình về
loại cấu trúc này. Một yếu tố đầu vào có 1 hoặc 1 số yếu tố đầu ra.

6.1.7 Phân loại theo tính tự chủ.


22

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG TẠI BỘ
PHẬN ĐÓNG GÓI THÀNH PHẨM TẠI CÔNG TY

TNHH TECHNOPIA VIỆT NAM.
3.1 Tổng quan về công ty.

Hình 3.1: Hình chụp toàn cảnh công ty năm 2007.



Nhà máy đặt tại số 7, đường 15A, KCN Biên Hòa 2, Đồng Nai, Việt
Nam, cách Tp Hồ Chí Minh 30 km.

™

Sơ lược về công ty TNHH Technopia Việt Nam.


Điện thoại: 0613 – 836499.



Fax : 0613 – 836498.



Website: www.texchemgruop.com.



Công ty TNHH Technopia Việt Nam Là công ty 100% vốn nước ngoài
thuộc tập đoàn Techem Malaysia. Công ty được thành lập vào năm 1994
với nhà máy đặt tại KCN Biên Hòa 2, Tỉnh Đồng Nai và văn phòng giao

dịch tại Tòa nhà E.Town 2, thành phố Hồ Chí Minh.


23


Giấp phép kinh doanh số: 472043000403, cấp bởi Ban Quản Lý Các Khu
Công Nghiệp Đồng Nai.



Giấy chứng nhận ISO 9001:2002 cấp năm 2002.
2

™

Vốn điều lệ, Diện tích đất thuê: 33.655 m .
2



Diện tích nhà xưởng: 20.000 m



Đầu tư ban đầu: 4.515.500 USD.


Vốn pháp định: 2.500.000 USD.




Vốn vay: 2.015.000 USD.



Tăng vốn đầu tư lần 1 theo giấy phép điều chỉnh số: 1092/GPĐC do Bộ
kế hoạch và đầu tư cấp ngày 28/02/1998 là 10.000.000 USD.



Trong đó:


Vốn pháp định: 4.000.000 USD.



Vốn vay: 6.000.000 USD.



Bắt đầu chính thức hoạt động từ tháng 12 năm 1995.



Tăng vốn đầu tư lần 2: do Bộ kế hoạch và đầu tư cấp ngày 12/04/2008 là
18.000.000 USD.





™

Diện tích nhà xưởng: 30.000 m

2

Trong đó:


Vốn pháp định: 10.000.000 USD.



Vốn vay: 8.000.000 USD.

Lĩnh vực kinh doanh.




Nhang muỗi.
+

Năng suất 1 năm: 600,000 thùng (500 khoanh nhang đôi/thùng/năm)

+

Năng suất hiện tại (năm 2009): 90%.


Bình xịt:
+

Năng suất 1 năm: 468,000 thùng (24 bình/thùng)/năm.

+

Năng suất hiện tại (năm 2009): 35%.


24

™

Sơ đồ tổ chức công ty.
General
Director

Export

Purchasing

QA

Local OEM

HR&Adm

Business Unit


Asst General
Mgr

Engineering

Blending

Production

Punching

Packing

Sơ đồ 3.1: Sơ đồ tổ chức công ty
™

Thời gian làm việc và nghỉ giải lao tại công ty:




Công ty làm việc 3 ca:


Ca 1 từ 6:00 – 14:00.



Ca 2 từ 14:00 – 22:00.




Ca 3 từ 22:00 – 6:00.

Thời gian làm việc.




(1) Ca làm việc 8h: 8 giờ x 60 phút = 480 phút.

Giải lao.


(2) Giải lao và ăn cơm: 45 phút.



(3) Nghỉ cuối giờ: 5 phút.



(4) Thời gian chuẩn bị: 10 phút.

Accountant

Aerosol



25

Thời gian làm việc : = (1) – (2) – (3) – (4) = 420 phút = 7giờ/ca sản xuất.

45

510

420
Tổng thời gian có thể sản xuất Ăn cơm

Nghỉ cuối giờ

Chuẩn bị

Đồ thị 3.1
4.1 Hoạt động kinh doanh chính.
™

Các sản phẩm Jumbo đang sản xuất và tiêu thụ tại thị trường trong nước bao
gồm:


Nhang trừ muỗi Jumbo.



Bình xịt côn trùng Jumbo.




Máy đuổi muỗi Jumbo.



Sản xuất theo hợp đồng gia công.

™

Xuất khẩu qua các nước:


Malaysia, Korea, Cambodia, Taiwan.


×