Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Thế giới yêu quái trong văn hóa của người nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.15 KB, 7 trang )

Th ếgi ới yêu quái trong v ăn hóa c ủa
ng ười Nh ật B ản
Khán giả Việt Nam, nhất là giới trẻ, khá quen thuộc với những bộ phim lấy bối cảnh từ truyền
thuyết phương Tây như “Harry Porter”, “Chúa tể của những chiếc nhẫn”, “Chạng vạng”… Qua
đó, thế giới thần bí của phù thủy, yêu tinh, thần tiên, ma cà rồng, người sói… được miêu tả sinh
động, hấp dẫn. Song ít ai biết rằng có một thế giới yêu quái lý thú trong truyền thuyết Nhật Bản,
tuy không có ma cà rồng, phù thủy…nhưng rất đa dạng, từ các yêu quái do động vật biến thành
như cáo, mèo,..tới các yêu quái có nguồn gốc từ các đồ vật vô tri như dép rơm, cây dù, bình
rượu…

Hình ảnh về "Bát quỷ dạ hành" được làm thành tuyện tranh, phim hoạt hinh và cả phim điện ảnh
để phục vụ người dân Nhật bản.
Nhắc tới yêu quái (妖怪) ở Nhật Bản, không thể không nhắc tới truyền thuyết “Bách quỷ dạ
hành” (百鬼夜行- Hyakki Yakou), tức cuộc diễu hành của một trăm loài quỷ và yêu quái trong
thị trấn vào đêm khuya, tương truyền khi gặp phải đoàn yêu quái này thì phải tụng kinh liên tục,
ánh nắng sẽ tới buộc quỷ phải chạy trốn. Đây chính là câu chuyện ca ngợi công đức của Đức
Phật. Theo Shuigaisho, một bộ Bách khoa từ điển cổ của Nhật, thì vào ngày Tý tháng Giêng và
tháng Hai, ngày Ngọ tháng Ba và tháng Tư, ngày Tỵ tháng Năm và tháng Sáu, ngày Tuất tháng
Bẩy và tháng Tám, ngày Mùi tháng Chín và tháng Mười, ngày Thìn tháng Mười Một và tháng
Mười Hai âm lịch sẽ xuất hiện “Bách quỷ dạ hành”, gọi là ngày “Bách quỷ dạ hành”, nên hạn
chế ra ngoài ban đêm những ngày đó để tránh gặp phải. Đồng thời, tụng những câu thần chú như


“Katashi haya, ekase nikuriku, tameru sake, teehi, ashiehi, wareshiko nikeri” (難シハヤ、行カ
瀬ニ(トッ)クリニ、溜メル酒、デ酔イ、悪シ酔イ、我シ来ニケリ)sẽ giúp tránh được tác
hại từ quỷ.
“Bách quỷ” là cách gọi chung, thực ra có khá nhiều loại quỷ và yêu quái, thậm chí có cả loại yêu
quái đem lại vận may cho ai chạm trán với chúng. Thông thường chúng có hình dạng như loài
vật, ví dụ như Kappa (河童), gần giống loài rùa, hay Tengu (天狗) có cánh chim, lúc khác chúng
có thể xuất hiện với hình dạng gần giống người, thỉnh thoảng lại giống như đồ vật vô tri vô
giác…Yêu quái thường có sức mạnh bí ẩn to lớn, với khả năng biến hình. Những yêu quái có


khả năng biến hình gọi là Obake (お化け). Nói chung, yêu quái được hiểu là tất cả các sinh vật
có khả năng siêu phàm, bao gồm một số loại chính như:
1) Động vật: Rất nhiều động vật ở Nhật được cho rằng chúng có tính ma thuật, chúng có thể biến
hóa (変化),và hiện ra dưới hình dạng con người, nhất là hình dạng phụ nữ. Một số động vật tiêu
biểu được biết tới là: Tanuki (狸 - một loại chồn thuộc họ chó), cáo (狐), rắn (蛇), con lửng (貉),
chó sói (大神), mèo (化け猫), nhện (土蜘蛛 và 絡新婦), chó (犬神).

Hình ảnh về Tanuki.


2) Quỷ: Một trong những truyền thuyết được biết tới nhiều nhất là “quỷ”(鬼), một loài sống trên
núi, được mô tả với nước da đen, nâu, xanh da trời hay đỏ, có hai sừng trên đầu, mồm rộng đầy
nanh, chỉ quấn một chiếc khố da hổ, thường mang một cây gậy sắt hay một thanh gươm lớn. Quỷ
thường được miêu tả giống như “quỷ dữ” (từ “evil” trong tiếng Anh), nhưng thỉnh thoảng là hiện
thân của một sức mạnh tự nhiên.

3) Tengu: Một loài yêu tinh trong truyền thuyết có sức mạnh siêu phàm và rất khéo léo, Tengu
ban đầu được coi là một loại ma quái vô cùng nguy hiểm và là kẻ thù của đạo Phật, song trải qua
nhiều thế kỷ, chúng từ một linh hồn bị đọa đầy trở nên nhanh nhẹn và thành người bảo vệ cho
Đạt Ma.


Hình ảnh về Tengu.
4) Tsukumogami (付喪神): một trong những thể loại của yêu quái và Obake, bao gồm những đồ
vật trong gia đình, trở thành sinh vật sống trong ngày sinh nhật thứ một trăm của chúng, như:
Bakezori (化け草履- dép rơm), Biwa- bokuboku (琶牧々- đàn Biwa), Bura-bura (đèn giấy),
Karakasa (唐傘- cây dù cũ), Kameosa (甌長- bình rượu cũ), Morinji no kama (茂林寺の釜 - ấm
trả), Mokumokuren (目目連 - bình phong giấy với những con mắt)…



Hình ảnh về Bakezori.
5) Nguồn gốc từ con người: Rất nhiều yêu quái ban đầu là con người bình thường, dần dần biến
thành những sinh vật lạ thường và đáng sợ, thường là trong một trạng thái vô cùng kích động.
Phụ nữ thì đau đớn, khổ sở do sự ghen tuông mãnh liệt của mình, ví dụ như miêu tả người phụ
nữ đang dần biến thành quỷ nữ, người ta dùng mặt nạ Hannya (般若- Bát Nhã - nguồn gốc từ
truyện kể Genji của nữ sĩ Murasaki Shikibu, trong đó phu nhân Rokujo- người tình của Genji do
quá ghen tuông với nàng Aoi no Ue là vợ cả của Genji, nên biến thành oan hồn sống ám ảnh Aoi
no Ue, gia đình nàng Aoi đã mời các vị tăng đọc "Bát Nhã tâm kinh" để trừ tà). Có thể kể tới một
số yêu quái tiêu biểu của thể loại này như: Rokuro- kubi (轆轤首- một người có cái cổ có thể kéo
dài trong đêm), Ohaguro- bettari (お歯黒べったり- một nhân vật thường là nữ, hiện ra chỉ với
một cái miệng đen ngòm trên khuôn mặt), Futakuchi- onna (二口女- người phụ nữ với cái miệng
to đùng và tham ăn ở đằng sau đầu), Dorotabo (泥田坊- một xác chết của người nông dân sống
lại)..


Hình ảnh người phụ nữ trong chiếc mặt nạ xấu xí không kém phần ghê sợ Hannya
6) Các thể loại khác:Ngoài các thể loại chính kể trên, còn có một số yêu quái khá đặc biệt, ví dụ
như: Azuki-arai (小豆洗い- một yêu quái luôn rửa sạch những hạt đậu đỏ), Akaname(垢嘗- yêu
quái chỉ có trong những phòng tắm bẩn thỉu và liếm những rác rưởi mà người chủ phòng tắm
không ngăn nắp ấy để lại), Ashiarai- yashiki (足洗邸 - một bàn chân to lớn xuất hiện trong
phòng và yêu cầu người chủ đang sợ hãi phải rửa sạch nó), Tofu-kozo (豆富小僧 - một chú tiểu
nhỏ mang một cái bảng có tảng đậu phụ)…


Hình ảnh về Azuki-arai (小豆洗い- một yêu quái luôn rửa sạch những hạt đậu đỏ).
Ngoài từ “youkai” (妖怪) được dùng với nghĩa “yêu quái”, từ “mononoke” (物の怪) cũng được
hiểu với nghĩa tương tự. Nó cũng có nghĩa là “quái vật”, “ma” hay “linh hồn”, và còn có nghĩa là
“linh hồn của một vật” hay “vật kỳ lạ”. Từ này cũng dùng để giải thích cho một vài sự việc
không thể giải thích. Một số phim hoạt hình nổi tiếng về Mononoke được khán giả Nhật Bản và
thế giới yêu thích, trong đó nổi tiếng nhất là phim “Mononoke Hime” (もののけ姫- tên tiếng

Anh là “Princess Mononoke”), thường được gọi tắt là phim “Mononoke”.



×