Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Báo cáo môn học Cơ sở khoa học môi trường Chất lượng nước mặt ở đồng bằng Sông Cửu Long các nguồn gây ô nhiễm nước mặt và giải pháp hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.07 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

BÁO CÁO MÔN HỌC

CƠ SỞ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

CHỦ ĐỀ: CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG, CÁC NGUỒN GÂY Ô NHIỄM
NƯỚC MẶT VÀ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ

Ngành: Khoa học Môi trường

NHÓM 6:
Nguyễn Phước Qúi
Phan Thị Diễm Mi
Trần Quang Xuyên
Nguyễn Phát Đạt
Trần Thị Ngọc Nhung
Trần Trung Trí


NỘI DUNG CHÍNH

TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC MẶT Ở ĐBSCL ...................................................................... 2

I.

II.1 Hiện trạng nguồn nước mặt ở ĐBSCL........................................................................................... 2
I.2 Vai trò của nguồn nước mặt ở Đ BSCL........................................................................................... 3
II.



Chất lượng nước mặt ở vùng ĐBSCL ........................................................................................... 3

II.1 Hiện trạng ......................................................................................................................................... 3
II.2 Tình hình ô nhiễm nước mặt ở ĐBSCL ............................................................................................. 4
III.

Các nguồn gây ô nhiễm nước mặt ở ĐBSCL ................................................................................ 5

III.1 Do tự nhiên ...................................................................................................................................... 5
III.1.1 Do hiện tượng chua phèn: .......................................................................................................... 5
III.1.2 Do nhiễm mặn: ........................................................................................................................... 6
III.1.3 Do các hiện tượng mưa, lũ: ........................................................................................................ 6
III.2 Do nhân tạo ....................................................................................................................................... 7
III.2.1 Trong nông nghiệp ..................................................................................................................... 7
III.2.2 Trong nuôi trồng thủy sản .......................................................................................................... 7
III.2.3 Trong sản xuất công nghiệp ..................................................................................................... 10
III.2.4 Do sinh hoạt:............................................................................................................................ 10
a) Do nước thải sinh hoạt: ........................................................................................................................ 10
b) Chất thải sinh hoạt: .............................................................................................................................. 11
III.2.5 Do khai thác khoáng sản: ......................................................................................................... 12
IV.
V.
VI.

Hậu quả:......................................................................................................................................... 12
Các giải pháp hạn chế ô nhiễm nước mặt ở ĐBSCL ..................................................................... 12
Kết luận .......................................................................................................................................... 14

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................................... 15


1


TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NƯỚC MẶT Ở ĐBSCL

I.

II.1 Hiện trạng nguồn nước mặt ở ĐBSCL
ĐBSCL có tổng số dân 17.517.600 [5] với diện tích 40.576 km2 (Tổng cục
thống kê, 2014) có vị trí nằm liền kề với Đông Nam Bộ, Bắc giáp Campuchia, Tây
Nam giáp vịnh Thái Lan, Đông Nam là biển Đông. Được hình thành từ trầm tích
phù sa và bồi dần qua những kỉ nguyên thay đổi mực nước biển.
ĐBSCL lấy nước ngọt từ sông Mê Công và nước mưa. Cả hai nguồn này đều
đặc trưng theo mùa một cách rõ rệt. Lượng nước bình quân của sông Mê Công
chảy qua ĐBSCL hơn 460 tỷ m3 [6] và vận chuyển khoảng 150-200 triệu tấn phù
sa. Chính lượng nước và khối lượng phù sa đó trong quá trình bồi bổ lâu dài đã tạo
nên Đồng bằng ngày nay.
ĐBSCL có 2 con sông chính:
Sông Hậu chảy qua Châu Đốc, Long Xuyên, Thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng
đổ ra biển bằng 3 cửa Định An, của Ba Thắc, cửa Tranh Đề.
Sông Tiền có lòng sông rộng với nhiều cù lao giữa sông chảy qua Tân Châu,
Hồng Ngự, Cao Lãnh, Cai Lậy, chia làm 4 sông đổ ra biển bằng 6 cửa:
Sông Mỹ Tho, chảy qua thành phố Mỹ Tho, và phía nam sông Gò Công ra

o

biển bằng cửa Đại và cửa Tiếu qua đường sông Cửa Tiếu
Sông Hàm Luông chảy qua phía Nam tỉnh Bến Tre, ra cửa Hàm Luông


o
o

Sông Cổ Chiên, làm thành ranh giới tỉnh Bến Tre và Trà Vinh, đổ ra biển

bằng cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu
Sông Ba Lai chảy qua phía Bắc tỉnh Bến Tre, ra cửa Ba Lai. Hiện nay đã bị hệ
thống cống đập Ba Lai ngăn lại, nằm trong dự án ngọt hoá vùng ven biển của tỉnh
Bến

Tre.

ĐBSCL có hệ thống sông kênh rạch lớn nhỏ đan xen, nên rất thuận lợi cung cấp
2


nước ngọt quanh năm. Về mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, sông Mê Công là
nguồn nước mặt duy nhất. Về mùa mưa, lượng mưa trung bình hàng năm dao động
từ 2.400 mm ở vùng phía Tây ĐBSCL đến 1.300 mm ở vùng trung tâm và 1.600
mm ở vùng phía Đông. Về mùa lũ, thường xảy ra vào tháng 9, nước sông lớn gây
ngập lụt.
I.2 Vai trò của nguồn nước mặt ở Đ BSCL
- Cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của con người.
- Phục vụ cho thủy lợi, tưới tiêu nông nghiệp.
- Trong Công nghiệp: Nước cho nhu cầu sản xuất công nghiệp rất lớn. Nước
dùng để làm nguội các động cơ, làm quay các tubin, là dung môi làm tan các
hóa chất màu và các phản ứng hóa học, …
II.

Chất lượng nước mặt ở vùng ĐBSCL

II.1 Hiện trạng
Chất lượng nước bị biến đổi suy giảm mực nước trên các dòng sông chính vào

mùa khô, chất lượng nước mặt diễn biến xấu đi do tác động từ các nguồn thải đô thị,
sản xuất công nghiệp, canh tác nông-lâm-ngư nghiệp… chưa được xử lý triệt để vẫn
tiếp tục thải vào sông rạch. Tình trạng mặn hóa, phèn hóa cục bộ càng ngày càng diễn
biến phức tạp tác động nhiều mặt đến chất lượng nước mặt ở ĐBSCL. Việc khai thác,
sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên nước mặt ở ĐBSCL đang trở thành một
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước. Trong đó có nhiều vấn đề cần phải giải quyết đồng bộ.
Nguồn nước trên sông Tiền, sông Hậu và các cửa sông thông ra biển đã có dấu
hiệu nhiễm bẩn chất hữu cơ và vi sinh. Quan trắc môi trường cho thấy các chỉ tiêu bị
nhiễm bẩn chất hữu cơ là BOD,COD, coliform, H2S, NH4, phèn sắt… do các nguồn
thải sản xuất công nghiệp, đô thị và khu dân cư… Bên cạnh đó, tình trang nhiễn Asen
cũng đã được phát hiện ở Đồng Tháp, Long An, Kiên Giang, An Giang, Hậu Giang,
vĩnh Long, Bạc Liêu… Điều nguy hiểm là hiện ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
hiện có 20 đến 30% số hộ gia đình chưa có nước sạch để sử dụng trong đời sống và
sinh hoạt.
3


II.2 Tình hình ô nhiễm nước mặt ở ĐBSCL
Trạng thái nước bị biến đổi suy giảm mực nước trên các dòng sông chính vào mùa
khô, chất lượng nước mặt diễn biến xấu đi do tác động từ các nguồn thải đô thị, sản xuất
công nghiệp, canh tác nông-lâm-ngư nghiệp… chưa được xử lý triệt để vẫn tiếp tục thải
vào sông rạch. Tình trạng mặn hóa, phèn hóa cục bộ càng ngày càng diễn biến phức tạp
tác động nhiều mặt đến chất lượng nước mặt ở ĐBSCL. Việc khai thác, sử dụng hợp lý
và bảo vệ nguồn tài nguyên nước mặt ở ĐBSCL đang trở thành một nhiệm vụ cực kỳ
quan trọng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trong đó
có nhiều vấn đề cần phải giải quyết đồng bộ.

Trong nông nghiệp, ĐBSCL có diện tích canh tác trên 2,9 triệu ha, nguồn nước tưới
chủ yếu là nước ngọt trên sông rạch do sông Mê Công chảy đến và nước trời do mưa đem
đến. Nhu cầu sử dụng nước ngày càng tăng do phát triển tăng vụ trong trồng trọt (lúa
đông xuân, lúa hè thu), chăn nuôi… trong khi chúng ta lại chưa kiểm soát được chặt chẽ
về số lượng và chất lượng nước cho canh tác nông nghiệp. Ở ĐBSCL, sử dụng nước còn
rất tùy tiện, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất… Do đó, đã dẫn đến
tình trạng lãng phí nước vào mùa, nhưng vào mùa khô lại thiếu nước trầm trọng. Hàng
năm, ĐBSCL sử dụng khoảng 2 triệu tấn phân bón hóa học và gần 500.000 tấn thuốc bảo
vệ thực vật, có thể gây các rủi ro sự cố môi trường do sự tồn dư hóa chất độc hại trong
môi trường nước.
Trong nuôi trồng thủy sản, toàn vùng có diện tích nuôi thủy sản nước ngọt, nước
mặn trên 685.800 ha, sản lượng gần 1 triệu tấn/năm, với rất nhiều mô hình canh tác khác
nhau. Một điều hết cần hết sức quan tâm là, với các mô hình nuôi thâm canh càng cao,
quy mô công nghiệp càng lớn thì lượng chất thải lại càng lớn và mức độ nguy hại cho
môi trường nước càng nhiều. Các nguồn chất thải sau nuôi trồng chưa được xử lý đạt tiêu
chuẩn môi trường vẫn được thải ra các sông, kinh, rạch trong khu vực (ở khu vực ĐBSCL
theo đánh giá đã cho thấy hàng năm thải ra 456,6 triệu m3/ bùn thải và chất thải nuôi
trồng thủy sản) gây nên các tác động xấu đến chất lượng nước và dịch bệnh phát sinh.

4


Trong sản xuất công nghiệp, ở ĐBSCL có trên 12.700 doanh nghiệp đang hoạt
động, tác động mạnh đến các thành phần của môi trường, nhất là môi trường nước. Đặc
biệt có 111 khu công nghiệp và cụm sản xuất công nghiệp, 119 cơ sở chế biến thủy sản
với công suất 3.200 tấn/ngày… sử dụng các nguồn nước trong sản xuất chế biến đã thải
ra lượng nước thải trên 47 triệu m3/năm; các đô thị và các khu dân cư thải ra 102 triệu
m3/năm. Lượng nước thải này chưa được xử lý triệt để, tiếp tục thải ra nguồn tiếp nhận là
sông, kinh, rạch, làm suy giảm chất lượng nước mặt, gây nên các dịch bệnh cho nuôi
trồng thủy sản và đặc biệt là gây hại đến sức khỏe người dân.

Quá trình chuyển dịch nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng mặn hóa ven
biển cũng đã làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển. Tác động làm
suy giảm rừng ngập mặn ven biển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến các hệ sinh thái rừng
ngập mặn. Nuôi cá bè trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản vùng ngọt hóa đã gây nên
các tác động đến chất lượng môi trường nước ở đây. Xâm nhập mặn gia tăng vào mùa
khô trên các sông lớn (sông Tiền, sông Hậu và sông rạch ven biển). Ở vùng ven biển khu
vực ĐBSCL, nước mặn trong mùa khô hạn đã tiến vào sâu nội địa 50-80 km.
Theo đánh giá của các cơ quan khoa học, trong các tháng 3-5 năm nay, do lượng
bốc hơi cao nên độ mặn trên các sông tiếp tục tăng cao và diễn biến phức tạp hơn các
năm trước đây. Mực nước sông Tiền, sông Hậu tiếp tục xuống thấp rất khó khăn về nước
ngọt cho sản xuất nông nghiệp và đời sống của nhân dân. Tình trạng thiếu nước ngọt, kiệt
nước trong mùa khô tiếp tục diễn ra ngày càng nghiêm trọng ở nhiều địa phương thuộc
các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bạc Liêu, Kiên Giang…
III. Các nguồn gây ô nhiễm nước mặt ở ĐBSCL
III.1 Do tự nhiên
III.1.1 Do hiện tượng chua phèn:
Nước mặt ở ĐBSCL bị chua phèn chủ yếu do ở ĐBSCL diện tích đất chua phèn
lớn, khoảng 1,6 triệu ha. Hàng năm, người dân ở ĐBSCL sử dụng một khối lượng lớn
nguồn nước mặt để cải tạo đất phèn hoặc do lũ lụt. Hàng năm, lũ về rửa trôi phèn, sau đó

5


lượng nước này theo hệ thống kênh rạch thải ra các sông và lan từ nơi này đến nơi khác
làm cho nguồn nước mặt bị nhiễm chua phèn.
Nước bị nhiễm chua phèn gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước và kéo theo các
tác động xấu đến sinh hoạt và sản xuất.
III.1.2 Do nhiễm mặn:
Ngoài nhiễm phèn, xâm nhập mặn cũng là một vấn đề cần được lưu ý ở ĐBSCL.
Với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, ăn thông ra biển, mặn dễ dàng xâm nhập

sâu vào nội địa. Trong mùa mưa nhờ có lượng nước ngọt phong phú (do mưa và dòng
sông Mêkông mang đến) nên mặn bị đẩy lùi ra gần biển, nhưng vào mùa khô khi lưu
lượng nước ngọt trên sông giảm, mặn lấn sâu vào nội đồng, gây ra những ảnh hưởng
đáng kể.
Sự xâm nhập mặn ở ĐBSCL rất phức tạp, mỗi vùng có đặc điểm riêng:
- Trên hệ thống sông Mêkông phụ thuộc vào lưu lượng thượng lưu chảy về.
- Trên hệ thống sông Vàm cỏ phụ thuộc sự bổ sung lưu lượng từ các nguồn khác
(vào sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông) và việc lấy nước của các khu vực ven sông.
- Vùng Tứ Giác Long Xuyên (TGLX) chịu ảnh hưởng lớn vào khả năng vận
chuyển nước ngọt của hệ thống kênh nối từ sông Hậu sang biển Tây.
- Ở vùng bán đảo Cà Mau (BĐCM) phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa nội vùng
và sự tiếp ngọt từ kênh Quản Lộ-Phụng Hiệp.
Nguyên nhân tiếp theo là do ĐBSCL có diện tích đất ngập mặn khá lớn 790.000
ha phân bố ở các vùng dọc Biển Đông và bán đảo Cà Mau. Những năm gần đây do sự
phát triển của các dự án thủy lợi đưa nước ngọt vào các vùng ven biển làm cho nước bị
nhiễm mặn.
III.1.3 Do các hiện tượng mưa, lũ:
Mùa lũ làm các bãi rác ngập sâu từ 0,5-1,2 mét, do vậy các chất thải như rác hữu
cơ, phân người, súc vật chết đều hòa vào trong nước, đổ về các dòng sông. Có nhiều bãi
6


rác tự động nổi lên, tự trôi lênh đênh trên sông, chưa kể rác do người dân tự đổ xuống
dòng sông. Điều này đã gây ô nhiễm nghiêm trọng cho các dòng sông.
Mưa, lũ kéo theo một lượng lớn rác thải từ các nhà máy công nghiệp, từ sản xuất
nông nghiệp,… ở các vùng thượng lưu kéo về gây ô nhiễm nước ở các vùng hạ lưu. Đăc
biệt là lũ kéo theo lượng lớn thức ăn thừa từ các bè nuôi cá trên sông từ vùng thượng lưu
về gây ô nhiễm nguồn nước ở vùng hạ lưu
III.2 Do nhân tạo
III.2.1 Trong nông nghiệp

ĐBSCL có diện tích canh tác trên 2,9 triệu ha [4], nguồn nước tưới chủ yếu là
nước ngọt trên sông rạch do sông Mê Công chảy đến và nước trời do mưa đem đến. Nhu
cầu sử dụng nước ngày càng tăng do phát triển tăng vụ trong trồng trọt (lúa đông xuân,
lúa hè thu), chăn nuôi… trong khi chúng ta lại chưa kiểm soát được chặt chẽ về số lượng
và chất lượng nước cho canh tác nông nghiệp. Ở ĐBSCL, sử dụng nước còn rất tùy tiện,
hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất… Do đó, đã dẫn đến tình trạng lãng
phí nước vào mùa, nhưng vào mùa khô lại thiếu nước trầm trọng. Hàng năm, ĐBSCL sử
dụng khoảng 2 triệu tấn phân bón hóa học và gần 500.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật, có
thể gây các rủi ro sự cố môi trường do sự tồn dư hóa chất độc hại trong môi trường nước.
III.2.2 Trong nuôi trồng thủy sản
- Toàn vùng có diện tích nuôi thủy sản nước ngọt, nước mặn trên 685.800 ha, sản
lượng gần 1 triệu tấn/năm[4], với rất nhiều mô hình canh tác khác nhau. Một điều hết cần
hết sức quan tâm là, với các mô hình nuôi thâm canh càng cao, quy mô công nghiệp càng
lớn thì lượng chất thải lại càng lớn và mức độ nguy hại cho môi trường nước càng nhiều.
Các nguồn chất thải sau nuôi trồng chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vẫn được
thải ra các sông, kinh, rạch trong khu vực (ở khu vực ĐBSCL theo đánh giá đã cho thấy
hàng năm thải ra).

7


Phong trào nuôi cá tra ao phát triển tự phát ở nhiều địa phương cũng là tác nhân
quan trọng làm ảnh hưởng chất lượng nguồn nước mặt ở ĐBSCL.
Tại tỉnh Sóc Trăng bị thiệt hại đến trên 500 ha. Riêng tôm sú cũng bị thiệt hại hơn
30% (tháng 2, 3 năm 2012).
Tại tỉnh Trà Vinh, vụ tôm năm 2012 diện tích nuôi trồng khoảng 6.000 ha, mới
hơn 1 tháng, tôm đã bị chết trong khoảng 600 ha nuôi trồng thủy sản do dịch bệnh và
chưa có dấu hiệu dừng.Tỉnh Cà Mau, diện tích nuôi trồng khoảng 3.500ha, hơn 20% diện
tích đó đã bị dịch bệnh. Đặc biệt, ở nhiều nơi như huyện Phú Tân, Đầm Dơi diện tích có
tôm bị chết lên đến 50% diện tích thả nuôi.

(Nguồn: Cổng thông tin điện tử địa phương: Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, 2012)
- Vùng ĐBSCL có 2 loại hình nuôi trồng thủy sản:
+ Nuôi trồng thủy sản trên vùng nước ngọt:
Loại hình này tập trung ở vùng ngập lũ Tứ Giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp
Mười và vùng trũng nội địa thuộc bán đảo Cà Mau. Chủ yếu ở một số tỉnh như: Đồng
Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang… Các mô hình
nuôi trồng phổ biến như là: canh tác lúa-tôm, canh tác lúa-cá, phổ biến nhất là nuôi cá bè
trên sông và đào ao nuôi cá. Ở hai nhánh sông Tiền và sông Hậu có trên 12.000 hộ nuôi
cá tra, cá basa với trên 8.000 bè và 3.000 ao đầm.
+ Nuôi trồng thủy sản trên vùng nước mặn, lợ:
Loại hình này tập trung ở các vùng ven biển như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Tiền Giang. Các mô hình chủ yếu là: nuôi tôm
thâm canh hay nuôi tôm công nghiệp, nuôi tôm sinh thái, luân canh lúa-tôm, nuôi cua,
nuôi các loại nhuyễn thể hai mảnh vỏ (nghêu, sò, hàu…).v.v…
Ước tính mỗi năm, việc nuôi trồng thủy sản đã thải ra môi trường nước xấp xỉ 3
triệu tấn bùn ở dạng chất thải hữu cơ gần như chưa được xử lý. Mầm bệnh từ các ao nuôi
cũng đã đi theo nguồn thải này ra hệ thống sông rạch làm chất lượng nhiều vùng nước
8


suy giảm nặng nề. Lượng thức ăn rơi rớt, phân cá tra, cá basa nuôi trong bè, ao thải ra,
lên men, thối rữa, hòa tan trong các dòng sông đã làm cho nguồn nước bi ô nhiễm.
Theo tính toán một cách tính gần đúng, muốn có 1 kg cá da trơn thành phẩm,
người nông dân đã phải sử dụng từ 3-5 kg thức ăn, trung bình khoảng 4 kg. Nhưng trên
thực tế thì chỉ khoảng 17% thức ăn được cá hấp thụ tạo thành sinh khối và phần còn lại
khoảng 83% được thải vào môi trường nước dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa. Đối
với các ao nuôi công nghiệp, chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45% Nitrogen và
22% là các chất hữu. Như vậy, với ước tính khoảng 1 triệu tấn thủy sản thì ít nhất 3 triệu
tấn chất thải hữu cơ thải vào môi trường nước các loại chất thải chứa nitơ và photpho ở
hàm lượng cao gây nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh tảo độc trong

môi trường nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối với
hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá bao ví trong các đầm trũng ngập nước... cùng với
lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh.
Đó chính là nguyên nhân làm cá tra, cá ba sa chết hàng loạt ở một số bè cá trên sông, dịch
bệnh trên các ao hồ và cá đồng một số tỉnh lưu vực sông Tiền, sông Hậu trong khu vực
ĐBSCL trong thời gian vừa qua. Không chỉ gây dịch bệnh cho thủy sản mà tác động môi
trường trong nuôi trồng thủy sản khu vực ĐBSCL còn ảnh hưởng đến môi trường nước
và đất trong khu vực.
Theo số liệu quan trắc môi trường nước trên sông rạch khu vực ĐBSCL cho thấy
các chỉ số BOD, COD, SS, Coliforoms... đều vượt nhiều lần so tiêu chuẩn cho phép. Môi
trường nước ở vùng ngọt hóa có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, các vi sinh trong nước
Coliforms, độ đục, amoniac trong nước... ảnh hưởng đến chất lượng môi trường nước,
đặc biệt là nước dùng cho sinh hoạt. Người dân phải đối mặt với các bệnh đường tiêu
hóa, bệnh sốt xuất huyết, sốt rét do muỗi lây truyền, bệnh giun sán ký sinh trùng, bệnh
suy dinh dưỡng trẻ em và cả ngộ độc thực phẩm hay hóa chất... trong quá trình sản xuất
canh tác ở các vùng đất ngập nước nuôi trồng thủy sản.
Phần đông, người nuôi cá tra, cá basa trên sông luôn chạy theo lợi nhuận mà
không quan tâm đến việc quản lý môi trường, cho nên nuôi cá đến đâu thì môi trường ở
9


đó bị ô nhiễm trầm trọng. Nước bị ô nhiễm tỷ lệ thuận với việc đầu tư nuôi cá bè. Đó là
chưa kể nguồn nước thải của các nhà máy xí nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu chưa
được xử lý vẫn ung dung thải xuống dòng sông.
Theo Thanh Tra Sở Tài Nguyên - Môi Trường Sóc Trăng, có khá nhiều cơ sở sản
xuất, kinh doanh thuỷ sản, thải nước ra ngoài hệ thống kênh, rạch vượt giới hạn cho phép
từ 10-58 lần so với tiêu chuẩn môi trường việt Nam. Như nước thải tại cống thoát nước
Công ty Stapimex có kết quả thử nghiệm là BOD vượt tiêu chuẩn cho phép 22 lần, COD
vượt 13,2 lần, COLIFORM vượt 1.000 lần. Xí nghiệp Chế biến thuỷ sản Khánh Lợi BOD
vượt 58 lần, COD vượt 41,5 lần, colifrom vượt 930 lần.

III.2.3 Trong sản xuất công nghiệp
Ở ĐBSCL có trên 12.700 doanh nghiệp đang hoạt động, tác động mạnh đến các
thành phần của môi trường[4], nhất là môi trường nước. Đặc biệt có 111 khu công nghiệp
và cụm sản xuất công nghiệp, 119 cơ sở chế biến thủy sản với công suất 3.200
tấn/ngày… sử dụng các nguồn nước trong sản xuất chế biến đã thải ra lượng nước thải
trên 47 triệu m3/năm; các đô thị và các khu dân cư thải ra 102 triệu m3/năm. Lượng nước
thải này chưa được xử lý triệt để, tiếp tục thải ra nguồn tiếp nhận là sông, kinh, rạch, làm
suy giảm chất lượng nước mặt, gây nên các dịch bệnh cho nuôi trồng thủy sản và đặc biệt
là gây hại đến sức khỏe người dân.
III.2.4 Do sinh hoạt:
a) Do nước thải sinh hoạt:
Nước thải sinh họat là nước được thải bỏ sau khi sử dụng cho các mục đích sinh
hoạt của cộng đồng như: tắm, giặt giũ, tẩy rữa, vệ sinh cá nhân… hay do tập quán sống
gắn liền với sông nước, vùng nông thôn ĐBSCL còn duy trì nhiều chợ gần bờ sông, chợ
nổi trên sông nước tại đây nước thải từ các hoạt động sinh hoạt, mua bán từ các ghe, tàu,
xà lan… chứa nhiều chất hữu cơ và dầu mỏ chúng thải xuống nguồn nước măt làm cho
nguồn nước mặt bi ô nhiễm…
10


Hàng năm lượng nước thải sinh hoạt thải ra môi trường là rất lớn. Ở ĐBSCL, đa
số các đô thị thành phố lớn đều chưa có hệ thống xử lý nước thải. Nước mặt sau khi sử
dụng chưa qua xử lí đều theo hế thống cống thải trực tiếp ra sông. Lượng nước thải này
tương đương lượng nước cấp.
Ví dụ như ở TP Cao Lãnh – Đồng Tháp:
Tổng lượng nước cấp tháng 8 năm 2009 cho kinh doanh và sinh hoạt là 554.794
m3. Như vậy với lượng nước mặt cung cấp ở thời điểm tháng 8 năm 2009 là 554.794 m3
thì lượng nước thải ra cũng xấp xỉ 554.794m3 vì chưa có hệ thống xử lí nước thải.
Nước thải sinh họat chứa nhiều chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học, ngoài ra còn
có các thành phần vô cơ, vi sinh vật và vi trùng gây bệnh rất nguy hiểm. Chất hữu cơ

chứa trong nước thải sinh hoạt bao gồm các hợp chất như protein (40 – 50%); hydrat
cacbon (40 - 50%) gồm tinh bột, đường và xenlulo; và các chất béo (5 -10%). Nồng độ
chất hữu cơ trong nước thải sinh họat dao động trong khỏang 150 – 450% mg/lít theo
trọng lượng khô. Có khoảng 20 – 40% chất hữu cơ khó phân hủy sinh học.
b) Chất thải sinh hoạt:
Chất thải sinh hoạt chủ yếu là chất thải rắn hay còn gọi là rác. Rác là các chất rắn
thải ra trong quá trình sản xuất, sinh hoạt của con người cụ thể là tình trạng phóng uế,
làm nhà vệ sinh, làm trại chăn nuôi trên rạch còn khá phổ biến ở một số nơi ở ĐBSCL.
Nhiều gia đình nông thôn không có nhà xí hợp vệ sinh, nguy cơ dịch bệnh luôn là tiềm
ẩn. Bất kì một hoạt động sống của con người tại nhà, tại nơi làm việc, nơi công cộng…
đều sinh ra một lượng rác đáng kể. Nếu tính gần đúng một người dân nông thôn hàng
ngày thải ra khoảng 0,4 – 0,6 kg rác thải thì toàn vùng nông thôn ĐBSCL sẽ có khoảng
135.000 tấn rác/ngày. Lượng rác này hầu như không có bãi xử lý . Thành phần của rác
thải chủ yếu là chất hữu cơ và dễ gây ô nhiễm. Hàng ngày lượng rác thải ở khu đô thị dân
cư thải ra môi trường rất lớn. Hàng ngày lượng thác thải tại các khu đô thị lớn ra môi
trường rất lớn khoảng 40 tấn/ngày (số liệu năm 2008 tại TPCL) nhưng số lượng thu gom
về các bãi rác tập trung để xử lý chỉ khoảng 70 - 80%.
11


III.2.5 Do khai thác khoáng sản:
Trong đó phải kể đến tình trạng khai thác cát quá mức ở lòng sông làm dòng chảy
tự nhiên bị ảnh hưởng. Tình trạng xói lở hai bên bờ diễn ra khá nghiêm trọng, nhất là khi
mùa lũ về làm lở đất xuống dòng sông và kéo theo đó là các chất thải hiện có trên vùng
đất đó cùng xuống với nguồn nước cũng góp một phần vào ô nhiễm nguồn nước. Thống
kê đếm được khoảng 70 điểm bị xói lở nặng dọc theo sông Tiền và sông Hậu, nhất là các
tỉnh Đồng Tháp và An Giang. Do những lợi ích kinh tế trước mắt, người dân đã khai thác
cát một cách ồ ạc làm cho bờ sông bị sạc lở ngày càng nghiêm trong nếu không có biện
pháp cụ thể.
IV. Hậu quả:

 Làm thiệu nước phục vụ cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt.
 Gây thiệt hại về kinh tế.
 Ảnh hưởng sức khỏe con người gây nên một số bệnh như tả lị, thương hàn,…
 Ảnh hưởng đến sinh thái môi trường.
 Gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đất và không khí.
V. Các giải pháp hạn chế ô nhiễm nước mặt ở ĐBSCL
Việc tìm cách hạn chế ô nhiễm nguồn nước cho ĐBSCL là rất cấp thiết và đòi hỏi
phải triển khai càng sớm càng tốt.
 Phổ biến luật về sử dụng tài nguyên nước cho người dân..
 Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao ý thức cộng đồng, hướng dẫn và trợ cấp
cho nhân dân thực hiện bảo vệ chất lượng môi trường. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến
đúng theo khuyến cáo., hướng dẫn nông dân sử dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ và
những hóa chất khác.

12


 Tăng cường kiểm tra, kịp thời ngăn chặn các cơ sở sản xuất công nghiệp xả đổ
chất thải, nước thải xuống sông rạch, tránh làm môi trường sống, trước hết là nguồn nước
bị ô nhiễm thêm.
 Xây dựng hệ thống dẫn nước thải từ sinh hoạt đến các nhà máy xử lý nước
 Bảo vệ thảm thực vật đầu nguồn: Tăng cường trồng rừng để giảm bớt chất lơ
lửng trong nước từ xói mòn.
 Sử dụng các hệ thống nước khép kín.
 Phải có quy hoạch một cách đồng bộ, hoàn chỉnh trong khâu bố trí, xây dựng các
khu công nghiệp, sao cho đảm bảo không gây ra những hậu quả với môi trường. Muốn
thế phải tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác Đánh giá tác động môi
trường các dự án, tuân thủ các yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường và Luật Bảo vệ tài
nguyên nước. Hướng dẫn nhân dân tích cực tham gia bảo vệ, giữ gìn tài nguyên, trong đó
đặc biệt lưu ý đến tài nguyên nước.

 Các địa phương cần phối hợp chặt chẽ với nhau qui hoạch phát triển các vùng
nuôi thủy sản phù hợp với điều kiện tự nhiên, khí hậu của từng địa phương và có biện
pháp giảm thiểu, tiến tới ngăn chặn phát tán các chất gây ô nhiễm môi trường trong quá
trình nuôi.
 Phổ biến rộng Luật bảo vệ môi trường và các qui định về kiểm soát chất thải,
nước thải. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở, cá nhân gây ô nhiễm
môi trường, tích cực vận động nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, đặc biệt là môi
trường nuớc.
 Ngoài các giải pháp đó trong thực tế cho thấy vai trò của công tác thủy lợi có
ảnh hưởng rất to lớn đến chất lượng nước của vùng. Vì thế cần phải đặc biệt chú trọng
đến việc xây dựng và phát huy hiệu quả các hệ thống và công trình thủy lợi đã có, làm tốt
hơn nữa công tác quy hoạch, thực hiện các dự án trong tương lai. Muốn thế cần phải hết
sức chú trọng chất lượng của công tác quy hoạch thủy lợi cho toàn vùng ĐBSCL và các
13


tiểu vùng, đảm bảo tính đồng bộ, hỗ trợ nhau trong khai thác, sử dụng và bảo vệ nước- tài
nguyên quý báu, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội vùng ĐBSCL.
VI. Kết luận
Vấn đề thiếu nguồn nước và suy giảm chất lượng nước mặt ở ĐBSCL và những hệ
lụy của nó là hiện hữu và có thể trở thành thảm họa trong tương lai gần. Do đó, song song
với việc nghiên cứu dòng chảy lũ, kiểm soát lũ cho hệ thống sông ở ĐBSCL, vấn đề
nghiên cứu dòng chảy kiệt và các giải pháp khoa học công nghệ tương ứng đã đến lúc cần
phải được chú trọng, đầu tư một cách đúng mức. Vì vậy, ngay từ bây giờ Nhà nước cần
có một chương trình lớn nghiên cứu về vấn đề này làm cơ sở khoa học, tìm ra phương án
công trình hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo của quá trình đầu tư xây
dựng công trình.Đây là những vấn đề mang tính chiến lược, liên quan, ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước do đó cần phải được nghiên cứu xem
xét một cách khoa học và có bài bản, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến giải pháp
công trình bởi vì nó không chỉ đảm bảo những nhiệm vụ như cấp nước nông nghiệp, dân

sinh, công nghiệp... mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thoát lũ, giao thông thủy,
đảm bảo cân bằng môi trường sinh thái cho cả khu vực.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] />[2] />[3] />ari=1464&lang=1&menu=khoa-hocconghe&mid=995&parentmid=982&pid=4&storei
[4] />[5]Tổng cục thống kê
[6] />[7] Cổng thông tin điện tử địa phương: Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, 2012

15



×