Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp nâng cao tính tích cực của HS trong dạy học Vật lí 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.35 KB, 22 trang )

PHÒNG GD VÀ ĐT HUYỆN ĐIỆN BIÊN
TRƯỜNG THCS NÀ TẤU
************

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM :

Một số giải pháp nâng cao tính tích cực của học sinh
trong dạy học vật lí 7

TÁC GIẢ : NGUYỄN SƠN HÀ
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC : TRƯỜNG THCS NÀ TẤU

Điện Biên, tháng 9 năm 2015



CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7

Kí hiệu
NXB
SGK
SGV
PPDH


GV
HS
SKKN

Nội dung
Nhà xuất bản
Sách giáo khoa
Sách giáo viên
Phương pháp dạy học
Giáo viên
Học sinh
Sáng kiến kinh nghiệm

Ghi chú

MỤC LỤC
MỤC

NỘI DUNG

TRANG


1
2
3
4
5
6
7

8
9
10
11
12
13

A. MỤC ĐÍCH VÀ SỰ CẦN THIẾT
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
B. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
C. NỘI DUNG
I. Thực trạng vấn đề
1. Thuận lợi:
2. Khó khăn:
3. Số liệu thống kê:
II. Nội dung, biện pháp
1. Nội dung
2. Biện pháp đổi mới.
III. Khả năng áp dụng

14
15

IV. Hiệu quả thực hiện

16

VI. Kiến nghị và đề xuất


V. Phạm vi ảnh hưởng của SKKN

5
5
5
5
5
5
5
6
6
6
6
7
17
18
19
19

A. MỤC ĐÍCH VÀ SỰ CẦN THIẾT
1. Lí do chọn đề tài
Phát huy tính tích cực của học sinh đã là một trong các phương hướng cải cách của
ngành giáo dục nhằm đào tạo những con người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Việc
đổi mới phương pháp dạy và đã đi đúng hướng với sự phát triển của xã hội. Cho đến nay,
phương pháp dạy và học tích cực đã được áp dụng ở các trường học. Tuy nhiên, để vận
dụng phương pháp dạy và học này đạt hiệu quả tối ưu thì vẫn còn nhiều khó khăn như:
điều kiện cơ sở vật chất, khả năng nhận thức của học sinh và sự chuẩn bị của giáo viên.


Môn Vật lý là môn khoa học thực nghiệm, nó có vai trò quan trọng trong việc thực

hiện mục tiêu đào tạo của trường THCS. Nó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ qua lại với
các môn học khác. Người giáo viên phải là người tổ chức ra những tình huống học tập có
tác dụng kích thích óc tò mò và tư duy của học sinh. Hình thành và phát triển ở các em
những kỹ năng giải quyết vấn đề, xúc tiến tự học để lĩnh hội tri thức thông qua thí nghiệm
và tư duy .
Đối với người giáo viên phải vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy và học như
thế nào để học sinh tiếp thu tri thức đó là một vấn đề đòi hỏi tính năng động và sáng tạo
của người giáo viên trong khâu chuẩn bị và tổ chức lớp , đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng
thực hành và tư duy nhiều hơn nữa để có thể tiếp thu được tri thức mới .
2. Mục đích nghiên cứu
Một số giải pháp nâng cao tính tích cực của học sinh trong dạy học vật lí 7
B. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do khuôn khổ của đề tài và thời gian nghiên cứu có hạn do đó ở đây tôi chỉ xin đề ra
một số giải pháp nâng cao tính tích cực nhằm vào đối tượng là học sinh lớp 7 trường
THCS Nà Tấu.
C . NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
I. Thực trạng vấn đề
Trong quá trình thực hiện đề tài tại trường THCS Nà Tấu tôi đã gặp những thuận lợi
và khó khăn sau:
1. Thuận lợi:
+ Nhà trường tạo điều kiện tham dự các lớp bồi dưỡng nâng cao, các chuyên đề của
trường và ngành tổ chức
+ Bản thân đã có nhiều năm kinh nghiệm trong việc dạy học Vật lí
+ Được sự hổ trợ của các đồng nghiệp, và đa số học sinh yêu thích môn học.
2. Khó khăn:


+ Đa số là học sinh dân tộc nên vốn tiếng Việt còn hạn chế, điều kiện học tập khó
khăn
+ Một số đồ dùng dạy học chất lượng chưa cao hoặc hỏng

3. Số liệu thống kê:
Trước khi áp dụng phương pháp này, số liệu khảo sát chất lượng môn Vật lí 7 trên
100 học sinh như sau:

Trung bình là:

52 hs đạt 52% ;

Dưới trung bình là : 48 hs đạt 48 %.
II. Nội dung, biện pháp
1. Nội dung:
“Một số giải pháp nâng cao tính tích cực của học sinh trong dạy học vật lí 7” nhằm
giúp cho giáo viên dạy Vật lí lớp 7 nói riêng và giáo viên dạy môn Vật lí THCS nói chung
có sự đầu tư tốt hơn cho vai trò của mình trong quá trình dẫn dắt học sinh chủ động, độc
lập, sáng tạo, tích cực lĩnh hội tri thức theo hướng nâng cao tính tích cực của học sinh
trong việc nhận thức hiện thực xung quanh.
Môn Vật Lí chiếm một vị trí rất quan trọng trong hệ thống các môn học, nhằm phát
triển năng lực tư duy cho học sinh, tạo cho các em sự tìm tòi, say mê học tập, lao động.
Để giúp học sinh học tốt, người giáo viên phải đóng vai trò chủ đạo, phải lập ra
những kế hoạch, những biện pháp lâu dài, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, gây
hứng thú cho các em khi học tập.
Tuy nhiên để dạy môn học này đạt hiệu quả cao đòi hỏi người giáo viên phải lập sẵn
kế hoạch cho bài dạy, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ dạy học trong từng tiết học, hệ thống câu
hỏi, những kiến thức có liên quan đến bài học…
2. Biện pháp đổi mới.
2.1/ Hướng thực hiện dạy và học tích cực :
Thực hiện dạy và học tích cực không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống mà giáo viên tìm cách phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
trong học tập, làm cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn và thảo luận nhiều
hơn.



Về mặt hoạt động nhận thức thì các phương pháp thực hành là “tích cực “ hơn các
phương pháp trực quan, các phương pháp trực quan thì “ tích cực “ hơn các phương pháp
dùng lời. Người giáo viên trước hết phải xác định mục tiêu là học, hướng dẫn các hoạt
động của học sinh, huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm sống của học sinh để xây dựng
bài. Đối với học sinh thì phải tự hoạt động nghiên cứu vấn đề rồi tự đưa ra kết luận
2.2/ Những phương pháp và biện pháp cần thực hiện
a/ Vấn đáp xây dựng kiến thức :
Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời,
hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội đựơc nội
dung bài học. Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng dẫn học sinh
từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu,
kích thích sự ham muốn hiểu biết. Giáo viên tổ chức sự trao đổi ý kiến kể cả tranh luận
giữa thầy với cả lớp và giữa trò với trò. Giáo viên là người tổ chức sự tìm tòi của học sinh
còn học sinh là người tự phát hiện kiến thức mới, như vậy học sinh mới có được niềm vui
của sự khám phá.
Không phải nội dung nào giáo viên cũng sử dụng phương pháp vấn đáp tìm tòi mà
căn cứ vào hoạt động nhận thức để sử dụng phương pháp vấn đáp cho phù hợp. Ví dụ khi
cần đặt mối liên hệ với kiến thức đã học với kiến thức sắp học hoặc củng cố kiến thức vừa
học, giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời
dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Có những đề tài nào đó muốn làm sáng tỏ, giáo viên
nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ.
Phương pháp này không thể thiếu đối với tất cả các bài học.
Ví dụ 1 : Bài 3 : Ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng
Sau khi học sinh tiến hành thí nghiệm 1 và thí nghiệm 2 để giải thích các hiện tượng
Nhật thực, Nguyệt thực, giáo viên đặt ra hệ thống câu hỏi:
Giáo viên
Học sinh
? Hãy trình bày sự chuyển động của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất Trái

Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất?
GV thông báo: Khi Mặt Trời, Mặt

Đất quay xung quanh Mặt Trời


Trăng, Trái Đất nằm trên một đường
thẳng.
? Hãy vẽ tia sáng để nhận thấy hiện
tượng Nhật thực?

? Hãy tìm vị trí để Mặt Trăng trở
thành màn chắn?
? Hiện tượng Nhật thực hoặc Nguyệt

Không. Vì Trái Đất và Mặt Trăng luôn
chuyển động

thực có thể xảy ra trong thời gian
dài không? Vì sao?
Ví dụ 2 : Bài 14: Phản xạ âm – Tiếng vang
Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu được thế nào là âm phản xạ và tiếng
vang, giáo viên có thể đặt thêm hệ thống câu hỏi nhằm khắc sâu và mở rộng kiến thức cho
học sinh:
Giáo viên
Học sinh
? Hãy phân biệt âm phản xạ và tiếng Giống nhau: đều là âm phản xạ
vang?

Khác nhau: Tiếng vang là âm phản xạ

nghe từ khoảng cách âm phát ra ít nhất
khoảng 1/15 giây

HS thảo luận và trả lời C3 , giáo viên hỏi
thêm:
? Tại sao khi nói chuyện rất to trong Trong phòng lớn âm dội lại từ tường đến
phòng lớn thì nghe được tiếng vang. tai ta có thể đến sau âm phát ra nên tai ta
Nhưng nói to như vậy trong phòng nhỏ lại nghe thấy tiếng vang. Trong phòng nhỏ
không nghe được tiếng vang?

âm dội lại từ tường đến tai gần như cùng
một lúc với âm phát ra nên không nghe
được tiếng vang.


Từ C7 , giáo viên phân tích trên H.14.4
? Nếu âm phát ra gặp đàn cá thì có phản Âm phát ra gặp đàn cá thì phản xạ trở lại
xạ lại không ?

Để biết được các vật dưới nước và biết

? Vậy ngoài việc sử dụng phản xạ âm để được chỗ nào có cá để thả lưới.
xác định độ sâu của biển, tàu đi biển còn
sử dụng tiếng vang với mục đích gì ?
Ví dụ 3 :Bài 19: Dòng điện _ Nguồn điện
Từ H.19.1, học sinh thảo luận và điền đầy đủ nhận xét để hình thành khái niệm dòng điện,
nguồn điện. Giáo viên cần đặt thêm những câu hỏi:
Giáo viên
Học sinh
? Hãy nêu dấu hiệu nhận biết có dòng Đèn bút thử điện sáng, quạt điện quay...

điện chạy qua các thiết bị điện?

Pin, acquy, máy phát điện, ổ điện...

? Hãy nêu ví dụ về các nguồn điện trong Xem dây tóc bóng đèn có đứt không, bề
thực tế ?

mặt tiếp xúc của đui đèn với đế, dây điện

? Nêu cách kiểm tra để đảm bảo mạch có đứt ngầm không, nguồn điện có nạp
điện kín?

điện hay chưa

Để củng cố bài học GV đặt câu hỏi chỉ
yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức vừa
học :
? Dòng điện là gì ?

Là dòng các điện tích dịch chuyển có
hướng

? Làm thế nào để có dòng điện chạy qua Nối hai đầu dây của bóng đèn với hai
trong bóng đèn?
b/ Đặt và giải quyết vấn đề:

cực của nguồn điện.

- Đặt vấn đề là tạo tình huống có vấn đề; phát hiện nhận dạng những vấn đề nảy sinh
; phát biểu vấn đề cần giải quyết.

- Giải quyết vấn đề là đề xuất cách giải quyết, lập kế hoạch giải quyết, thực hiện kế
hoạch giải quyết
- Kết luận là thảo luận kết quả đánh giá ; khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra;
phát biểu kết luận ; đề xuất vấn đề mới.


- Trong dạy - học đặt và giải quyết vấn đề có thể phân biệt bốn mức:
Mức 1 : Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải
quyết vấn đề theo hướng dẫn của giáo viên . Giáo viên đánh giá kết quả làm vịêc của học
sinh.
Mức 2 : Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Học sinh
thực hiện với sự giúp đỡ của giáo viên khi cần. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 3 : Giáo viên cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện vấn đề
và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh
thực hiện . Giáo viên và học sinh cùng đánh giá.
Mức 4 : Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh, lựa chọn vấn đề giải quyết. Sau đó tự
giải quyết, tự đánh giá có ý kiến bổ sung của giáo viên khi kết thúc .
Đối với trường của chúng tôi là vùng sâu vùng xa, và hầu hết học sinh là con em dân
tộc nên chỉ có thể áp dụng mức 1 và 2 riêng mức 3 và 4 có thể áp dụng cho những học sinh
khá giỏi.
Để bắt đầu một bài học mới hoặc một vấn đề mới nhất định phải có đặt vấn đề để tạo
tình huống có vấn đề nhằm thu hút sự chú ý của học sinh.
Ví dụ 1 :Bài 5 : Ảnh của một vật tạo bởi gương phẳng.
Gv có thể đặt vấn đề như SGK: Tại sao bóng của cái tháp lại lộn ngược xuống nước?
Để giải quyết vấn đề trên, GV hướng dẫn học sinh nghiên cứu tính chất của ảnh tạo
bởi gương phẳng. Có 3 tính chất sau :
+ Ảnh ảo.
+ Ảnh lớn bằng vật.
+ Khoảng cách từ một điểm của vật đến gương phẳng bằng khoảng cách từ ảnh của
điểm đó đến gương.

Dựa vào tính chất của ảnh tạo bởi gương phẳng học sinh vẽ được ảnh của một vật
đặt trước gương phẳng.
GV có thể gợi ý “Xem mặt nước như một gương phẳng”
Từ những kiến thức trên học sinh sẽ tự giải quyết vấn đề được nêu ra ở đầu bài


Chân tháp gần mặt nước nên ảnh của nó gần mặt nước, đỉnh tháp xa mặt nước nên
ảnh của nó ở xa mặt nước. Do đó nhìn thấy bóng của cái tháp lộn ngược xuống nước.
Ví dụ 2 : Bài 11 : Độ cao của âm
Giáo viên có thể đặt vấn đề như SGK hoặc có thể đặt vấn đề : đàn bầu chỉ có một
dây, vậy mà người nghệ sĩ gãy đàn khi thì thánh thót lúc thì trầm lắng. Nguyên nhân nào
làm cho âm trầm âm bổng khác nhau ?
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu được tần số, mối quan hệ giữa độ cao của âm và
tần số:
+ Âm phát ra càng cao khi tần số dao động càng lớn.
+Âm phát ra càng thấp khi tần số dao động càng nhỏ.
Từ những kiến thức vừa tiếp thu, học sinh sẽ tự mình giải quyết vấn đề được đưa ra:
Người nghệ sĩ làm thay đổi tần số dao động của dây đàn, tần số dao động càng lớn âm phát
ra càng cao ( bổng), tần số dao động càng nhỏ âm phát ra càng thấp ( trầm).
Ví dụ 3 : Bài 17 : Nhiễm điện do cọ xát
Đây là bài học đầu tiên của chương điện học, giáo viên có thể đặt vấn đề cho cả lớp
thảo luận trao đổi:
? Ngoài các hiện tượng được mô tả trong các ảnh đầu chương 3 (SGK) các em còn
biết các hiện tượng điện nào khác ?
Sau đó giáo viên giới thiệu mục tiêu chính của chương và đặt vấn đề cho bài học:
Các em đã từng thấy hiện tượng gì, nghe thấy gì khi cởi áo khoác ngoài bằng len, dạ
hay sợi tổng hợp vào những ngày thời tiết khô ráo, đặt biệt là khi hanh khô ?
Học sinh trả lời, giáo viên đặt tiếp câu hỏi:
Tại sao lại có hiện tượng đó?
Tập trung sự chú ý của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức

bài học và giải quyết vấn đề đặt ra:
Vào những ngày thời tiết khô ráo, khi cởi áo khoác ngoài bằng len, dạ hay sợi tổng
hợp ta thường nghe thấy những tiếng lách tách nhỏ vì ở bề mặt ngoài của các sợi len,dạ
hay sợi tổng hợp có mang các hạt điện tích do bị cọ xát, các hạt điện tích này phóng điện


nên xuất hiện các tia chớp nhỏ lúc này không khí bị giản nở đột ngột nên gây ra những
tiếng nổ lách tách nhỏ
c/ Khai thác hết hoạt động của các thành viên trong nhóm:
Lớp học được chia thành 6 nhóm , mỗi nhóm có 5_6 học sinh . Nhóm tự bầu lấy
nhóm trưởng. Trong nhóm phân công mỗi người một phần việc:
 Nhóm truởng là những em năng nổ, nhiệt tình học lực khá có nhiệm vụ nhận và
kiểm tra đồ dùng dạy học, sau mỗi tiết học hướng dẫn các thành viên còn lại trong nhóm
rửa dụng cụ (nếu cần ) và cất dụng cụ vào vị trí . Ngoài ra nhóm trưởng cón có nhiệm vụ
hướng dẫn các thành viên khác trong nhóm thảo luận trên giấy bút.
 Các thành viên khác, mỗi người đều phải làm việc tích cực, không ỷ lại vào một
vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu
vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác trong lớp.
Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp .
Ví dụ: Khi tiến hành thí nghiệm thì trong nhóm phân công cụ thể:
+ 2 bạn bố trí và tiến hành thí nghiệm.
+1 bạn thư ký để ghi lại kết quả. Các bạn còn lại cùng quan sát thí nghiệm, thảo luận
và trao đổi đưa ra ý kiến chung nhất.
+Đại diện nhóm lên trình bày kết quả
d/ Tạo không khí sôi nổi trong lớp học:
Bầu không khí lớp học là yếu tố rất quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức của học
sinh và tâm lí dạy học của giáo viên. Do đó, người giáo viên cần phải có tính sáng tạo
trong khâu tổ chức sao cho lớp học sôi nổi, sinh động, nhịp nhàng giữa thầy và trò, học
sinh thu thập và xử lí thông tin trong không khí vui nhộn. Cụ thể : một số bài tập định
lượng hoặc một số thí nghiệm giáo viên có thể tổ chức dưới dạng trò chơi.

Ví dụ 1 : Thí nghiệm 2 : Sự truyền âm trong chất rắn (Bài 13 : Môi trường truyền
âm), giáo viên nên tổ chức cho các em tiến hành thí nghiệm bằng cách chơi trò chơi “Ai
thính tai nhất”
+ Trò chơi được tiến hành theo bàn: Bạn ngồi giữa vừa có nhiệm vụ gõ vừa làm
trọng tài. Các bạn còn lại ngồi ra hai phía đầu bàn và quay lưng về phía bạn gõ.


+ Cách chơi: Bạn giữa gõ vào bàn một số lần sao cho các bạn kia không nghe thấy
tiếng gõ là đạt, bằng cách hỏi thăm các bạn kia xem mình đã gõ chưa, nếu các bạn trả lời
chưa là được. Sau đó yêu cầu các bạn áp tai xuống bàn và đếm số lần gõ, bạn nào trả lời
đúng được xem là thính tai nhất.
Ví dụ 2: Câu C6 (Bài 10: Nguồn Âm) có thể cho hs tiến hành trò chơi ai sẽ làm cho
lá chuối phát ra âm to nhất.
Hoặc câu C3 và C7 (Bài 14 : Phản xạ âm _ Tiếng vang), thay vì yêu cầu các nhóm
thảo luận thì giáo viên nên tổ chức cho các em chơi “Ai thông minh hơn”, các nhóm thảo
luận và đưa ra kết quả trong không khí thi đua với các nhóm khác.
Sau mỗi trò chơi, nhóm nào trả lời đúng nhất và nhanh nhất được xem là thắng, giáo
viên nên yêu cầu lớp thưởng một tràng pháo tay để khích lệ tinh thần cho các em.
e/ Liên hệ thực tế đồng thời giáo dục học sinh:
Ngoài các kiến thức truyến thụ đầy đủ theo yêu cầu nội dung SGK, giáo viên nên
liên hệ thực tế nhiều, có thể mở rộng thêm cho các em, tạo thêm cho các em niềm say mê
yêu thích môn học. Qua đó giáo viên giáo dục các em trở thành người đầy đủ tài - đức theo
yêu cầu của xã hội.
Ví dụ 1: Bài 3: Ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng
Qua nội dung bài học, học sinh giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Từ đó giáo viên giáo dục học sinh những câu chuyện về " Gấu ăn mặt trăng", " gõ mõ đuổi
gấu ăn mặt trăng" chỉ là tưởng tượng do Mặt Trăng chuyển động xung quanh Trái Đất
Ví dụ 2: Bài 15 : Chống ô nhiễm tiếng ồn
Phần 1: Học sinh nhận biết được tiếng ồn ô nhiễm, giáo viên cần giáo dục học sinh
vào những giờ cao điểm như trưa hoặc khuya không nên làm ồn để ảnh hưởng đến sức

khoẻ và sự nghỉ ngơi của các nhà bên cạnh bằng cách vặn nhỏ đài và không nên nói
chuyện cười đùa lớn.
Phần 2: Biện pháp chống ô nhiễm tiếng ồn: Giáo viên cần liên hệ thực tế và giáo dục
học sinh phải biết trồng và bảo vệ cây xanh để làm sạch môi trường và làm giảm ô nhiễm
tiếng ồn, đồng thời vận động mọi người cùng tham gia trồng và bảo vệ cây xanh. Để


phương pháp dạy và học tích cực đạt hiệu quả, người giáo viên cần phải phối hợp linh hoạt
các phương pháp trong quá trình giảng dạy.
f/ Hướng dẫn về nhà:
Sau mỗi bài học giáo viên cần phải yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập trong sách
bài tập để học sinh rèn luyện thêm và củng cố kiến thức, cần hướng dẫn học sinh đọc trước
bài học trong sách giáo khoa để có thể tìm hiểu trước những vấn đề mà bài học đưa ra, học
sinh có thể hiểu trước một bước dù là chưa chính xác. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên ở
trên lớp học sinh có thể hiểu sâu vấn đề hơn và khắc sâu kiến thức hơn
Đồng thời giáo viên nên chuẩn bị một bài tâp nâng cao cho học sinh khá giỏi về nhà
khám phá.
V í d ụ 1: Bài 1: Nhận biết ánh sáng _ nguồn sáng và vật sáng
Khi nhìn lên bảng học trong lớp, đôi lúc em thấy bảng bị chói và không đọc được
chữ. Em hãy tìm hiểu nguyên nhân từ đó đưa ra các phương pháp khắc phục.
V í d ụ 2: Bài 13: Môi trường truyền âm
Sau khi nhìn thấy tia chớp thì 5 giây sau mới nghe tiếng sấm. Nơi xảy ra sấm sét
cách nơi đứng bao xa. Xem ánh sang truyền đi tức thời.
Ví dụ 3: Bài 24: Cường độ dòng điện
Tại sao dưới kim đo của ampe kế, người ta đặt thêm một gương phẳng?
Trả lời:
Ví dụ 1: Đó là do bề mặt của bảng đã được sơn nhẵn bóng nên ánh sáng khi chiếu
đến bảng, hầu như hoàn toàn phản chiếu lại khiến mắt nhìn lên bảng bị chói. Để hạn chế
hiện tượng này, người ta dùng sơn hấp thụ ánh sáng, tức là nếu có ánh sáng chiếu vào mặt
bảng sẽ hấp thụ ánh sáng nhiều và phản xạ lại rất ít.

Ví dụ 2: Nơi xảy ra sét cách nơi đứng : 5 s x 340 m/s = 1700 m = 1,7 km
Ví dụ 3: Để đọc giá trị chính xác, mắt phải luôn luôn vuông góc mặt đồng hồ. Vì vậy
ta phải đặt mắt sao cho kim và ảnh của kim ( qua gương phẳng ) trùng nhau.
Giáo viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị bài của học sinh thông qua kiểm tra bài cũ, khi
kiểm tra bài cũ giáo viên có thể hỏi thêm: bài học tiếp theo của chúng ta là gì? Gồm có
mấy phần? Nghiên cứu vấn đề gì? …


Để HS học tập tích cực đạt hiệu quả, người giáo viên cần phải phối hợp linh hoạt các
phương pháp trong quá trình giảng dạy.
Giáo án minh họa
Tiết: 14. MÔI TRƯỜNG TRUYỀN ÂM
I. MỤC TIÊU :
* Kiến thức:
- Nêu được âm truyền trong các chất rắn, lỏng, khí và không truyền trong chân
không.
- Nêu được trong các môi trường khác nhau thì tốc độ truyền âm khác nhau.
+ HS kể tên được một số môi trường truyền âm và môi trường không truyền được
âm.
+ Nêu được một số ví dụ về sự truyền âm trong các chất rắn, lỏng, khí.
* Kĩ năng: Làm thí nghiệm để chứng minh âm truyền qua môi trường nào? Tìm
phương án chứng minh: càng xa nguồn âm thì âm càng nhỏ.
* Thái độ: Có ý thức vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
II. CHUẨN BỊ:
Cho mỗi nhóm:
2 cái trống nhỏ , 2 con lắc , 1 dùi trống , giá đỡ , 1 chuông điện , 1 bình nước , nguồn
điện
Cả lớp : Hình 13.4 , bảng vận tốc truyền âm của một số chất
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
1./ Ổn định lớp

2./ Kiểm tra bài cũ
? Khi nào có tiếng vang? Lấy một vài ví dụ về vật phản xạ âm tốt và vật phản xạ
âm kém?
3./ Bài mới .
Trợ giúp của giáo viên
Hoạt động của HS
Hoạt động 1 :
Tổ chức tình huống học tập
- GV : Khi thầy nói trên bảng , các em có thể
- Môi trường không khí
nghe thấy tiếng nói của thầy , vậy âm đã truyền
đến tai các em qua môi trường nào ?
- Để phát hiện tiếng vó ngựa , hoặc kiểm tra xe
- Để nghe rõ hơn
lửa đến gần chưa thì người ta lại áp tai xuống đất
hoặc áp tai vào đường ray để nghe , tại sao người
ta lại làm như thế (tại sao không đứng?)
- ĐVĐ : Vậy âm truyền trong những môi trường


nào , khi truyền trong những môi trường khác
nhau thì có gì khác nhau?
Hoạt động 2 :
Sự truyền âm trong chất khí , rắn , lỏng
- Gọi HS đọc thí nghiệm 1
- HS nghiên cứu thí nghiệm 1 trong
- GV hướng dẫn HS cách bố trí và thực hiện thí SGK
nghiệm (chú ý không đặt hai trống quá xa mà
cũng không quá gần – chạm vào nhau)
- HS bố trí và thực hiện thí nghiệm

- Phát dụng cụ thí nghiệm cho HS , yêu cầu HS
- C1 : Con lắc treo gần trống 2
làm thí nghiệm và trả lời các câu C1 và C2 .
rung động , lệch khỏi vị trí cân
- Gọi HS trả lời câu C1 và C2
bằng . Chứng tỏ âm phát ra từ trống
- HS các nhóm khác nhận xét
1 truyền trong không khí đến trống
- GV nhận xét câu trả lời của HS
thứ hai
- C2 : Con lắc 2 có biên độ dao
động nhỏ hơn con lắc 1
- Gọi HS đọc thí nghiệm 2 trong SGK
 Độ to của âm càng giảm khi
- Chú ý : Bạn B và bạn C không nhìn bạn A gõ , càng ở xa nguồn âm
thử xem ai nói đúng bạn A đã gõ bao nhiêu lần
- Cho HS hoạt động theo nhóm(1 bàn 1 nhóm)
làm thí nghiệm 2 và trả lời câu C3
- Nghiên cứu thí nghiệm 3 để biết chất lỏng có
- C3: Âm truyền đến tai bạn C qua
thể truyền âm được không ?
môi trường chất rắn .
- GV giới thiệu thí nghiệm 3
- GV yêu cầu HS thực hiện thí nghiệm 3
- Âm có truyền qua môi trường chất lỏng không - HS nhận dụng cụ thí nghiệm và
?
thực hiện thí nghiệm 3
- Yêu cầu HS trả lời câu C4
- Âm có thể truyền được trong môi
trường chất lỏng

C4: Âm có thể truyền đến tai qua
những môi trường rắn, lỏng , khí
Hoạt động 3 :
Âm có thể truyền được trong chân không hay không ?
- Gọi 2 HS đọc thí nghiệm 4 trong SGK
HS đọc và nghiên cứu thí nghiệm
- (Nếu có điều kiện thì làm thí nghiệm cho HS 4 trong SGK
thấy)
HS trả lời C5
- Yêu cầu HS trả lời câu C5
- C5 : Âm không truyền qua chân
- GV có thể giải thích đơn giản cơ chế truyền không
âm như phần có thể em chưa biết .
- Từ 4 thí nghiệm vừa qua , các em hãy hoàn - Rắn , lỏng , khí – chân không
thành câu kết luận trong SGK
xa – nhỏ
Hoạt động 4 :
Bảng vận tốc truyền âm trong một số chất


- Trong các môi trường khác nhau thì âm truyền - HS đọc bảng vận tốc truyền âm
đi với các vận tốc khác nhau .
của một số chất ở 200C
- Vận tốc truyên âm phụ thuộc vào nhiều yếu tố - C6 :Vận tốc truyền âm trong
- Người ta đã đo vận tốc truyền âm của một số
nước nhỏ hơn trong thép và lớn
0
chất ở nhiệt độ 20 C
hơn trong không khí
s

- Treo bảng . Yêu cầu HS đọc bảng
- Áp dụng công thức: v =
t
- Yêu cầu HS trả lời câu C6
và bảng vận tốc truyền âm
- Cho 1 bài toán tính quãng đường biết môi
trường truyền âm và thời gian
Hoạt động 5 : Vận dụng - Củng cố
- Gọi HS đọc câu C7 , yêu cầu HS trả lời
- C7 : Nhờ môi trường không khí
- Nêu 2 ví dụ chứng tỏ âm có thể truyền trong
- HS trả lời
môi trường lỏng
- Vì mặt đất(chất rắn) truyền âm
- Hãy trả lời câu hỏi ở đầu bài
nhanh hơn không khí nên ta nghe
rõ hơn , xa hơn
- Yêu cầu HS trả lời câu C10
- Không , âm không truyền được
trong chân không
4./ Củng cố và dặn dò
? Môi trường nào truyền được âm? Môi trường nào không truyễn âm?
? Môi trường nào truyền âm tốt nhất?
Học thuộc bài phần ghi nhớ
Làm các bài tập trong SBT: 14.1 đến 14.5 (T.15)

III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA GIẢI PHÁP
Qua quá trình thực dạy, khi phối hợp các phương pháp trên trong giảng dạy đã gây
hứng thú nhiều ở HS. HS tích cực học tập hơn, lớp học sinh động hơn và kết quả khả quan.
Do đó tiếp nối các năm tiếp theo bản thân tôi sẽ tiếp tục áp dụng sâu rộng cho các khối lớp

khác trong nhà trường
Sau khi dạy học theo phương pháp này tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Để phương pháp dạy và học tích cực có hiệu quả, trong quá trình giảng dạy cần chú
ý những điểm sau:
- Giáo viên phải hướng dẫn và yêu cầu học sinh không những học và làm bài cũ mà
còn nghiên cứu kỹ bài mới trước khi đến lớp. Học sinh phải nắm được mục đích của thí
nghiệm trước khi làm thi nghiệm và rút ra kết luận.


+ Trong hoạt động nhóm giáo viên cần nhắc nhở học sinh:
+ Chỉ có nhóm trưởng mới được phép lấy và cất đồ dùng day học để hạn chế tình
trạng hư hỏng dụng cụ và mất trật tự trong lớp học.
+ Thành viên khá giỏi trong nhóm phải có nhiệm vụ hướng dẫn các học sinh yếu
tham gia thảo luận.
+ Khi báo cáo kết quả, các thành viên trong nhóm lần lượt thay phiên nhau báo cáo
để tránh tình trạng học sinh nhúc nhát hoặc yếu kém tránh né.
+ Không nên lạm dụng các hoạt động nhóm nhiều, mỗi tiết học chỉ nên tổ chức
hoạt động nhóm đối với các thí nghiệm hoặc những câu hỏi khó và phức tạp. Vì tổ chức
học tập theo nhóm tại lớp học bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, ngoài ra còn
bị hạn chế thời gian của tiết học nên giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có kết quả tốt.
+ Tạo không khí trong lớp học là một yếu tố rất quan trọng, nó đã góp phần không
nhỏ trong việc thực hiện giảng dạy.
IV. HIỆU QUẢ VÀ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC :
Qua khảo sát, kết quả giảng dạy của 100 HS cũng đã đạt kết quả cao hơn, cụ thể tôi
đã thu được kết quả sau khi áp dụng các phương pháp trên như sau
Trên trung bình: 74 hs đạt 74%
Dưới trung bình 26 hs đạt 26%
Khi vận dụng phương pháp tích cực vào giảng dạy, người học được cuốn hút vào
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những
điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp

đặt. Rèn cho người học có được kỹ năng , thói quen, ý chí tự học, sẽ tạo cho các em lòng
ham học. Khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người, kết qủa học tập sẽ nâng lên. Tuy nhiên,
trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những
hoạt động cá nhân. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể tạo nên mối quan hệ hợp
tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập, ý chí mỗi cá nhân được
bộc lộ khẳng định hay bát bỏ, qua đó ngươì học nâng mình lên một trình độ mới. Giáo viên
không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành người thiết


kế, tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm
lĩnh nội dung học tập. Vì vậy người giáo viên phải luôn luôn học hỏi trao dồi để có một
trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm để là người gợi mở, xúc tác, động viên,
cố vấn, trọng tài trong các hoạt động của học sinh.
V. PHẠM VI GIẢI PHÁP
Áp dụng cho môn vật lí của các khối lớp 7, 8, 9 của các trường THCS vùng có điều kiện
kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
VI. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
+ Để thực hiện tốt phương pháp này, cần có sự đầu tư về phòng học, bàn ghế để học
sinh tiến hành thí nghiệm thành công và hạn chế vận chuyển đồ dùng cho giáo viên.
+ Cung cấp những băng hình có liên quan đến bộ môn như :” Em yêu khoa học”.
+ Một số tài liệu tham khảo để giáo viên cập nhật kiến thức.
Trên đây là ý kiến của cá nhân tôi qua quá trình học tập và giảng dạy, chắc chắn
chuyên đề này còn rất nhiều thiếu sót rất mong sự đóng góp của quý đồng nghiệp để tôi
hoàn thành chuyên đề tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Nà Tấu, Ngày 06 tháng 09 năm 2015
Người báo cáo

Nguyễn Sơn Hà



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BÁO CÁO
TÓM TẮT NỘI DUNG, BẢN CHẤT, HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN
- Tên sáng kiến : Một số giải pháp nâng cao tính tích cực của học sinh trong dạy học
môn Vật lí 7
- Tên cá nhân thực hiện : Nguyễn Sơn Hà
- Thời gian đã được triển khai thực hiện : Từ ngày 10/9/2014 đến ngày 30/4/2015
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến :


1.1.Sự cần thiết :
Phát huy tính tích cực của học sinh đã là một trong các phương hướng cải cách của
ngành giáo dục nhằm đào tạo những con người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Tuy
nhiên, để để HS có tính tích cực trong học tập thì vẫn còn nhiều hạn chế cần có những giải
pháp để đề cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích để tìm ra một số giải pháp nâng cao tính tích cực của học sinh trong dạy
học vật lí 7 ở trường THCS Nà Tấu.
2. Phạm vi triển khai thực hiện
Khảo sát tính tích cực học tập trên 100 HS lớp 7 ở trường THCS Nà Tấu trước và
sau khi áp dụng các giải pháp
3. Mô tả sáng kiến
- Nâng cao tính tích cực trong vấn đáp xây dựng kiến thức :
- Nâng cao tính tích cực trong đặt và giải quyết vấn đề
- Nâng cao tính tích cực trong khai thác hết hoạt động của các thành viên trong
nhóm
- Bằng cách tạo không khí sôi nổi trong lớp học:
- Thường xuyên liên hệ thực tế đồng thời giáo dục học sinh:

- Nâng cao tính tích cực trong hướng dẫn về nhà:
4. Kết quả và hiệu quả mang lại
- Hs chủ động, tích cực hơn trong lĩnh hội tri thức môn Vật lí 7
- Kết quả học tập của HS Môn Vật lí 7 được nâng cao
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sang kiến.
Các giải đề ra trong SKKN này có thể áp dụng cho môn vật lí của các khối lớp 7, 8, 9
của các trường THCS vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
6. Kiến nghị, đề xuất :
Để thực hiện tốt phương pháp này cần có sự đầu tư về cơ sở vật chất và cung cấp
những băng hình, tài liệu có liên quan đến bộ môn


Ý kiến xác nhận của
thủ trưởng đơn vị

Nà Tấu, Ngày 06 tháng 09 năm 2015
Người báo cáo

Nguyễn Sơn Hà



×