Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÔN GIÁO TRONG đời SỐNG CHÍNH TRỊ xã hội và NHÌN NHẬN vấn đề tự DO tôn GIÁO ở mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.73 KB, 21 trang )

Năm 2006, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã chọn ngày 16-1 là
Ngày tự do tôn giáo. Sự việc này liên quan đến một sự kiện lịch sử ngày 16-11186 tại bang Virginia thuộc miền Bắc nước Mỹ, đạo luật về tự do tôn giáo do
Thomas Jefferson soạn thảo đã được thông qua. Ông cũng từng là tác giả bản dự
thảo Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ và là vị tổng thống thứ ba, nhiệm kỳ
1801 – 1809. Việc George W. Bush chọn ngày 16-1 là Ngày tự do tôn giáo với
tư tưởng dân tộc Mỹ là sự lựa chọn của Chúa, “Một dân tộc thống nhất trước
chúa” cho thấy vị Tổng thống Mỹ này muốn một lần nữa tuyên bố với thế giới
rằng Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là người bảo vệ tự do tôn giáo trên toàn thế giới.
Chính vì thế, trong tuyên bố kỷ niệm ngày này, Bush chỉ nói tới tự do tôn giáo
trên thế giới mà không hề đề cập tới tự do tôn giáo ở Mỹ.
Đặc điểm của Hoa Kỳ là ở chỗ, nền tảng tư tưởng của Nhà nước
này là chủ nghĩa chính thống Tin lành. Những người theo chủ nghĩa chính thống
Tin lành cho rằng, chỉ có người Mỹ mới được trao sứ mệnh xây dựng một xã hội
lý tưởng trên trái đất mà ở đó con người sống theo luật pháp của Kitô giáo.
Cho đến nay, trong đời sống chính trị - xã hội Mỹ, các vấn đề tôn giáo
luôn được sự quan tâm rất lớn. Các vấn đề tôn giáo và giáo hội được đề cập ở
đây chủ yếu liên quan đến đạo Tin Lành, một tôn giáo chiếm vị trí đáng kể nhất
trong đời sống chính trị - xã hội. Nói tới tôn giáo Mỹ là nói tới trung tâm thế
giới của đạo Tin Lành, với 7 hệ phái chính là Baptists, Congregatinonlists,
Disciples, Episcoplians, Lutherans, Methodists và Presbyterians. Tuy nhiên,
trong ba thập kỷ cuối của thế kỷ XX, ở Mỹ đã hình thành 375 nhóm tôn giáo dân
tộc hay đa dân tộc và người Mỹ cũng đang ngày càng phải đối diện nhiều hơn
với các tôn giáo thế giới lớn khác như Hinđu giáo, Phật giáo, Islam giáo.
Ở Mỹ, về mặt hình thức, Nhà nước và Giáo hội tách biệt nhau. Nhưng
trên thực tế, Giáo hội luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các thể chế tư
tưởng của nước này. Giáo hội đóng vai trò đáng kể trong đời sống chính trị - xã
hội, trong kinh tế và đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Lịch sử các tôn giáo Mỹ
gắn liền với lịch sử của chủ nghĩa tư bản Mỹ và phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa
tư bản. Do vậy, giới cầm quyền Mỹ luôn ủng hộ hoạt động của các tổ chức tôn



giáo. Điều này nói lên rằng, việc tách Giáo hội khỏi Nhà nước ở Mỹ chỉ là mang
tính hình thức và có sự khác biệt so với một số nước ở Tây Âu.
Vấn đề địa vị của tôn giáo và tự do tôn giáo trong đời sống tinh thần
của Mỹ đặc biệt được quan tâm bởi vì các giáo hội Tin Lành và Giáo hội Công
giáo Mỹ đang gây ảnh hưởng lớn đến các tổ chức tôn giáo ở các nước phát triển
cũng như các nước đang phát triển và các trung tâm tôn giáo lớn của thế giới, ví
dục như Hồi đồng Nhà thờ Thế giới, Tòa thánh Vatican, v.v..
I. VỊ THẾ VÀ VAI TRÒ CỦA TÔN GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI NƯỚC MỸ
1. Tôn giáo trong các hoạt động quan phương của Mỹ.
Tôn giáo Mỹ chiếm một vị trí đáng kể trong hệ thống chính trị - xã hội
của nước này. Các cuộc họp Quốc hội luôn được bắt đầu bằng lễ cầu nguyện.
Các hoạt động quan trọng của Nhà nước luôn kèm theo những nghi lễ tôn giáo,
mọi cuộc họp của các nhà công nghiệp luôn được mở đầu bằng cầu nguyện và
thuyết giáo. Mọi hoạt động công cộng do chính quyền và các tổ chức phi chính
phủ tổ chức cũng được bắt đầu và kết thúc bằng cầu nguyện. Trong bài phát biểu
của mình, các doanh nhân thường viện dẫn đến Chúa, đến những lý do nguyên
lý và đạo đức Ki tô giáo.
Một tạp chí Công giáo ở Pháp đã nhận xét: không một đất nước nào mà
tôn giáo lại chiếm một vị trí như vậy trong đời sống xã hội như ở nước Mỹ. Các
mục sư, linh mục, giám mục tham gia vào mọi sự kiện xã hội trọng thể và khi có
điều kiện thích hợp là phát biểu trước công chúng. Bác chị viết lại rằng, Tổng
thống Mỹ L.B. Johnson đã trực tiếp tham gia thảo luận vấn đề về sự cần thiết
phải xây dựng một tượng đài thờ Chúa. Ông nói, tập tụng quan trọng nhất của
Chính phủ là sự kiện cầu nguyện hàng ngày. Sự cầu nguyện này là một sự kiện
quan trọng của quá trình lập pháp.
Những người mácxít ở Mỹ đã vạch rõ nguyên nhân giới cầm quyền
nước này tăng cường quan tâm tới tôn giáo. Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ
Wiliam Foster trong cuốn Hoàng hôn của chủ nghĩa tư bản thế giới viết:
“Những nhà tư bản đã nhanh chúng hiểu ra rằng, họ cũng như các chúa phong

kiến, vẫn cần đến tôn giáo, nhưng theo kiểu riêng của họ, để trấn an những
người công nhân thường xuyên nổi dậy. Vì vậy, họ đã thực thi một đạo luật sắt


mà theo đó tất cả các nhà tư tưởng và các thủ lĩnh chính trị của họ đều bắt buộc
phải theo tôn giáo, nếu không những người này sẽ bị rơi vào cảnh bị cô lập và
trở thành người bị xua đuổi. Dần dần, khuynh hướng này được tăng cường và
giờ đây trong giới tư bản khó có thể tìm thấy một nhà văn hay một nhà hoạt
động chính trị dũng cảm nào dám mạo hiểm nói lên dù chỉ là một từ chống lại
tôn giáo hay có thái độ duy lý với tôn giáo”1.
Wiliam Foster chứng minh rằng, tôn giáo theo kiểu của chế độ phong
kiến không vừa ý với giới tư bản Mỹ. Họ cần một tôn giáo thức ứng với nhu cầu
xã hội tư bản Mỹ. Sự gắn bó của giới tư sản Mỹ với tôn giáo xuất hiện ở một đất
nước mà Giáo hội, về hình thức đã tách khỏi Nhà nước. Do vậy, giới cầm quyền
Mỹ buộc phải tìm đến những hình thức sử dụng tôn giáo được ngụy trang kín
đáo hơn. Trong điều kiện nước Mỹ, giai cấp cầm quyền ở đây cho rằng, cần phải
và có thể sử dụng một tôn giáo, không dành ưu tiên cho riêng một tổ chức tôn
giáo nào. Sự định hướng vào tôn giáo nhận được sự ủng hộ cả từ phía các mục
sư của các giáo phái Tin Lành lẫn từ phía các chức sắc Giáo hội Công giáo và
Giáo hộ Do Thái giáo. Họ muốn nhận được sự ủng hộ của Nhà nước để thực
hiện các nhiệm vụ và dạt được các mục đích của mình.
Về phía các nguyên thủ Mỹ, họ luôn bằng mọi cách chứng minh lòng
mộ đạo của mình. Tổng thống R. Nixon là một ví dụ điển hình. Bắt đầu từ tháng
1-1969, tức là từ khi nhậm chức Tổng thống, vào chủ nhật hàng tuần, các mục
sư từ các nhà thờ khác nhau được mời đến Nhà Trắng để làm lễ cầu nguyện.
Buổi lễ đầu tiên được tiến hành ngày 26-1-1969 tại phòng Phương Đông của
Nhà Trắng với sự tham gia của khoảng 200 người.
Trong buổi lễ này, mục sư của phái Baptists là Billi Graem đã thuyết
giáo trong thời gian 22 phút. Trong các buổi lễ sau này, có sự tham gia của các
chức sắc Công giáo, Tin Lành. Do Thái giáo. R. Nixon cho rằng, các buổi lễ ở

Nhà Trắng nhất thiết phải mang tính chất hiệp thông, có ý nghĩa với sự tham gia
của tất cả các giáo hội. Mục đích của các buổi lễ này là làm gương về lòng mộ
đạo cho các công dân Mỹ và một lần nữa chứng minh đức tin của người dân Mỹ
vào Đấng Tối Cao.
Foster W.: Hoàng hôn của chủ nghĩa tư bản thế giới, Mátxcơva, 1959, tr.115 (tiếng Nga)

1


Năm 1972, tại Mỹ đã xuất bản cuốn sách công bố tên của 24 mục sư đã
từng làm lễ cầu nguyện tại Nhà Trắng. Chương trình các buổi lễ diễn ra như sau:
hát thánh ca, mục sư chủ lễ đọc kinh cầu nguyện, thuyết giáo, chúc phúc và cuối
cùng là chương trình âm nhạc. Tại buổi lễ vào ngày 30-1-1969, có khoảng 2000
chức sắc của chính quyền liên bang tham dự. Phát biểu tại buổi lễ, Tổng thống
R. Nixon nói: “Trong nửa số thư mà Nhà Trắng nhận được, người dân đều nói
một câu đơn giản: Chúng tôi cầu nguyện cho Ngài, thưa Ngài Tổng thống”.
Bằng cách đó, R. Nixon hy vọng nâng cao được uy tín của mình trước các tín đồ
tôn giáo. Ông đã cố gắng giữ mối liên hệ với các trung tâm tôn giáo có ảnh
hưởng lớn ở Mỹ.
Nhưng việc tổ chức lễ cầu nguyện vào chủ nhật hàng tuần không phải
tổng thống Mỹ nào cũng chấp nhận, có người từ chối việc này nhứ Tổng thống
J.R. Ford (Tổng thống thứ 38 của Mỹ). Tuy nhiên, việc đi lễ nhà thờ vào các
ngày chủ nhật đối với các tổng thống Mỹ là việc diễn ra khá phổ biến. Ví dụ,
sáng chủ nhật ngày 19-11-2006, Tổng thống Geoger W. Bush, trong chuyến
viếng thăm chính thức Việt Nam và tham dự Hội nghị lãnh đạo các nền kinh tế
APEC, mặc dù rất bận với một chương trình dày đặc vẫn dành thời gian cùng
phu nhân tới dự lễ cầu nguyện ở Nhà thờ Cửa Bắc (Hà Nội) cùng với các chức
sắc và đông đảo giáo dân của đạo Tin Lành và Công giáo Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo nhà nước của Mỹ thường xuyên tham gia các hội nghị
tôn giáo quan trọng, một điều dễ nhận thấy rằng, các nhà chính trị Mỹ luôn nhắc

đến tôn giáo trong các bài phát biểu trước công chúng tại các diễn đàn khác
nhau, từ các buổi lễ trọng thể của Nhà nước đến các hội nghị. Đây chính là một
trong những hình thức tuyên truyền tôn giáo, nâng cao uy tín của tôn giáo trong
người dân Mỹ. Truyền thống thực hành tôn giáo trong các cơ quan nhà nước ở
Mỹ đã góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa các chức sắc tôn giáo với giới cầm
quyền mà lợi ích của cả hai bên đan xen vào nhau trong các lĩnh vực kinh tế,
chính trị và nhiều lĩnh vực khác.
Do vậy, tại các đại hội giới thiệu ứng cử viên tổng thống của hai đảng
Dân chủ và Cộng hòa người ta thấy có sự hiện diện của một số nhân vật cao cấp
trong giới tăng lữ Ki tô giáo. Ví dụ, tại Đại hội của Đảng Cộng hòa năm 1971


giới thiệu R. Nixon làm ứng cử viên tổng thống có sự hiện diện của Hồng y
Krol, Tổng Giám mục Philadenphia
Như đã biết, trong Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
người ta đã viện dẫn đến Chúa và trở thành truyền thống, bắt đầu từ vị Tổng
thống đầu tiên của Mỹ là George Washington, các tổng thống Mỹ trong bài phát
biểu nhậm chức của mình đều viện dẫn đến Chúa. Vị Tổng thống thứ 2 là J.
Adams đã bắt đầu bài phát biểu nhậm chức của mình với lời thừa nhận rằng, ông
khiêm nhượng trông cậy vào Đức Chúa trời. T. Jeffersong trong lễ nhậm chức
tổng thống đã nói rằng, khi nhận chức tổng thống ông cảm thấy có nhu cầu cầu
xin Chúa. Còn J. Madison cũng nhắc nhở Quốc hội rằng, người Mỹ đã nhận
được độc lập và di sản quý báu là các quyền dân tộc từ lòng nhân từ của Đức
Chúa Trời. Các ông chủ Nhà Trắng sau này cũng thường phát biểu như vậy khi
nhậm chức.
Một số nhà hoạt động của các giáo hội tôn giáo ở Mỹ thường giáo huấn
các tín đồ của mình rằng, vương quốc của Chúa được bắt đầu ở nước Mỹ. Nhiều
người Mỹ cũng có tư tưởng cho rằng, dân tộc Mỹ chiếm vị trí hàng đầu trong
thế giới tốt nhất do Chúa Trời tạo dựng nên. Thượng nghị sĩ A. Biverij từng nói:
“Trong số tất cả các chủng tộc, Chúa đã chỉ định dân tộc Mỹ là dân tộc dẫn

đường đến thế giới phục hưng. Đó là sứ mệnh thần thánh của nước Mỹ. Sứ
mệnh đó giữ gìn cho chúng ta mọi lợi ích và tất cả vinh quang và hành phúc,
những gì có thể có cho con người. Chúng ta là những người bảo trợ cho sự tiến
bộ của thế giới, những người bảo vệ cho một thế giới công bằng”.
Như vậy, tuyên truyền tôn giáo đã gợi ra cho người Mỹ tư tưởng về
việc Chúa đã chọn đất nước họ để trao sứ mệnh thiêng liêng và điều này ảnh
hưởng đến đường lối chính trị của giới cầm quyền thuộc nhiều thế hệ khác nhau.
Tuyên truyền về tôn giáo và vai trò của nó trong lịch sử nước Mỹ đặc biệt được
đẩy mạnh nhân kỷ niệm 200 năm ngày tuyên bố độc lập của nước này (1776 –
1976). Các tổ chức tôn giáo đã tham gia tích cực vào việc chuẩn bị và tiến hành
sự kiện quan trọng này.
Các ứng cử viên tổng thống của nước Mỹ đều cho rằng mình xứng
đáng được sử dụng những biểu tượng chính trị - tôn giáo, bởi vì đó là một truyền


thống thiêng liêng. Theo tạp chí The Review of Politics, trong diễn văn nhậm
chức của mình, R. Nixon đã phát biểu như một giáo chủ của Tôn giáo dân sự.
Ông đã tổng kết những vấn đề đang đặt ra cho nước Mỹ dẫn tới sự “khủng
hoảng tinh thần”….Các nhà chính trị Mỹ đánh giá cao ý nghĩa của việc sử dụng
các biểu tượng tôn giáo để tạo ra diện mạo chính trị của mình, nhất là trong các
cuộc bầu cử tổng thống căng thẳng. Đánh giá về mối quan hệ giữa các giáo hội,
giáo phái và các đảng phái chính trị, giáo sư người Mỹ D.Moberg đã nhận xét
rằng, tín đồ Công giáo và Do Thái giáo thông thường giành lá phiếu của mình
cho ứng cử viên của Đảng Dân chủ, còn tín đồ đạo Tin Lành người da trắng ở
miền Bắc và miền Tây lại bỏ phiếu cho những người thuộc Đảng Cộng hòa.
Tuy nhiên, tình hình đó đã thay đổi vào nửa sau những năm 70 của thế
kỷ XX. Các giáo phái Tin Lành lớn đã trở thành những lực lượng bảo thủ hơn,
do vậy những người cấp tiến và những người theo chủ nghĩa tự do đã ra khỏi
những giáo phái này, còn Đảng Dân chủ cũng không thể hy vọng nhiều vào sự
ủng hộ của đại bộ phận cử tri là tín đồ Công giáo. Tuy vậy, trong cuộc bầu cử

tổng thống năm 1976, đại bộ phận cử tri Công giáo vẫn bỏ phiếu cho ứng cử
viên Đảng Dân chủ J.Carter.
2. Tôn giáo với các cuộc bầu cử quốc hội Mỹ
Nhân tố tôn giáo cũng đóng vai trò nhất định trong cuộc tranh giành
quyền lực giữa các đảng phái chính trị trong các cuộc bầu cử Quốc hội Mỹ.
Theo một truyền thống đã hình thành ở nước Mỹ, đại bộ phận người Công giáo
bỏ phiếu cho các ứng cử viên Đảng Dân chủ, còn tín đồ đạo Tin Lành thường
dành là phiếu cho các ứng cử viên Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, không nên đánh
giá rằng, nhân tố tôn giáo đóng vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị cũng như
trong các cuộc đấu tranh của các đảng phái chính trị của nước này. Thực chất,
nhân tố tôn giáo chỉ đóng vai trò thứ yếu, nhưng không thể coi thường nhân tố
này.
Trước hết cần nhận thấy rằng cả đảng Dân chủ và Cộng hòa đều cố
gắng sử dụng tôn giáo như một con át chủ bài trong các chiến dịch bầu cử.
Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong các chiến dịch tranh cử, một số vấn
đề về mối quan hệ giữa Chính phủ Mỹ với các giáo hội lại nổi lên và được tranh


luận một cách gay gắt. Các giáo hội Mỹ muốn gây tác động nhất định đến các
ứng cử viên của cả hai đảng để khi các ứng cử viên này trúng cử, họ sẽ có thái
độ tốt đới với các giáo hội khi thảo luận tại Quốc hội về các vấn đề liên quan
đến hoạt động của các tổ chức tôn giáo. Các nhà soạn thảo sách lược của cả hai
đảng trong các cuộc vận động đều cho rằng, cần nêu thái độ thiện cảm đối với
một số đòi hỏi của các tổ chức tôn giáo nhằm lôi kéo cử tri về phía mình.
Qua một số cuộc bầu cử Quốc hội tại Mỹ, chúng ta thấy đại diện của
các thành phần tôn giáo trong Quốc hội như sau: số nghị sĩ đạo Tin Lành đông
nhất, tiếp đến là Công giáo. Đại đa số nghị sĩ Công giáo tham gia Quốc hội
thuộc Đảng Dân chủ.
Các số liệu thống kê cho thấy người Công giáo ngày càng có mặt nhiều
hơn trong Quốc hội Mỹ. Cả hai đảng lớn ở Mỹ đều dựa vào sự ủng hộ của Giáo

hội Công giáo Mỹ, nhưng Giáo hội Công giáo lại gắn với Đảng Dân chủ nhiều
hơn…..
Thực tế cho thấy, trong thời gian vận động tranh cử báo chí Mỹ đã viết
nhiều về quan hệ của tín đồ Công giáo, Tin Lành và tín đồ Do Thái giáo với các
ứng cử viên tổng thống và các ứng cử viên vào Hạ viện, Thượng viện Mỹ. Điều
này khẳng định, tôn giáo đã đóng một vai trò nhất định trong các cuộc bầu cử ở
đất nước này.
3. Tôn giáo và sự phân chia quyền lực chính trị ở Mỹ
Mặc dù là nước đa chủng tộc và đa tôn giáo, nhưng nói đến tôn giáo
Mỹ, trước hết là phải nói đến Ki tô giáo, cụ thể là Công giáo và các hệ phái Tin
Lành. Các tổng thống Mỹ đều là những tín đồ Ki tô giáo, nhưng đa phần đều là
tín đồ các hệ phái Tin Lành. Song việc một số tín đồ Ki tô giáo thuộc hệ phái
nào đó giành được vị trí cao nhất trong bộ máy chính trị Mỹ hoàn toàn không
phụ thuộc vào việc có bao nhiêu tín đồ của từng hệ phái Tin Lành tham dự vào
bộ máy chính quyền cao cấp của nước này. Hơn nữa cũng chưa có mối liên hệ
trực tiếp nào giữa đảng tịch và tôn giáo tịch của các chính trị gia cao cấp Mỹ.
Trong số các giáo hội Ki tô giáo ở Mỹ, Giáo hội Episcopalians (giáo
hội Thượng tôn Giám mục đoàn, chỉ chiếm 1,7% dân số Mỹ) chiếm kỷ lục về số
lượng tín đồ được bầu làm tổng thống Mỹ. Trong suốt lịch sử Mỹ, người ta ước
tính có 11 tổng thống thuộc giáo hội này, trong số đó có 4 người trở thành ông


chủ Nhà Trắng trong thể kỷ XX. Trong khi đó, người Công giáo chiếm ¼ dân số
Mỹ, song cho tới nay chỉ có duy nhất 1 người được bầu làm tổng thống đó là
Jonhn Kennedy, tổng thống thứ 35 của Mỹ, thuộc Đảng Dân chủ (1961-1963)
….
Tình trạng mất cân đối này hoàn toàn không có nghĩa là nhân tố tôn
giáo ít ảnh hưởng tới quá trình bầu cử ở mỹ. Các nhà nghiên cứu xã hội học cho
thấy rằng, sự thể hiện ý nguyện của người dân tương đối dễ dự báo nếu chú ý tới
tôn giáo tịch của người đó thuộc về tổ chức tôn giáo này hay tổ chức tôn giáo

khác. Còn nếu dựa vào các chỉ báo khác mà các cơ quan bầu cử thường thống kê
như: lứa tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, nơi cư trú…thì việc dự báo sẽ phức tạp
hơn nhiều. Theo số liệu của điều tra của Viện Gallup vào tháng 3/2014, có tới
64% người dân Mỹ tuyên tuyên bố rằng, niềm tin tôn giáo của họ ảnh hưởng tới
việc họ sẽ dành lá phiếu cho ai trong các cuộc bầu cử. Các chuyên gia nhận xét
rằng, những người có tín ngưỡng tôn giáo thể hiện ý nguyện của mình một cách
kiên định hơn so với những người không có tín ngưỡng tôn giáo và họ cũng
tham gia bầu cử thường xuyên hơn. Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi các nhà
chính trị Mỹ trong các cuộc vận động trước bầu cử thường cố gắng chiếm tình
cảm của các tín đồ.
Những vấn đề nhức nhối lâu nay của nước Mỹ phần lớn là do kết quả
các cuộc bầu cử và thường có nguyên nhân sâu xa từ tôn giáo. Điều này thường
gắn với các vấn đề như quyền phụ nữ phá thai, quyền kết hôn của những người
đồng tính, quyền được bài trí các biểu tượng tôn giáo trong phòng làm việc của
mình ở các cơ sở giáo dục và các cơ quan nhà nước, quyền được sở hữu vũ khí
của người Mỹ…Cuộc tranh luận của các chính trị gia chung quanh những vấn đề
này là tâm điểm chú ý của người Mỹ. Những người bảo thủ thuộc các hệ phái
Tin Lành rất tích cực nhằm tăng cường ảnh hưởng của tôn giáo tới Nhà nước
Mỹ nói riêng và xã hội Mỹ nói chung. Các tổ chức tôn giáo Mỹ ngày nay đang
dần biến thành “các lò luyện sao chính trị” và các tổ chức này đang gây ảnh
hưởng trực tiếp tới các quá trình chính trị của nước mỹ. Điều đặc biệt ở nước
Mỹ, tất cả các tổng thống Mỹ tử trước đến nay đều là tín đồ Ki tô giáo.


Có thể thấy rằng, không ở đâu, tôn giáo lại luôn gắn với guồng máy
chính trị như ở Mỹ. Trong suốt hơn 220 năm tồn tại của Nhà nước Mỹ, khó có
thể bắt gặp một gương mặt chính trị gia cao cấp nào lại không gắn với một tổ
chức tôn giáo đang tồn tại ở nước này. Các chính trị gia cao cấp Mỹ từ tổng
thống đến các nghị sĩ Quốc hội và các thẩm phán của Tòa án Tối cao, một mặt
họ là thành viên của một đảng phái chính trị, mặt khác họ luôn là tín đồ của một

tôn giáo hay một hệ phái (mà chủ yếu là Ki tô giáo – với Công giáo và Tin Lành
giáo, trong đó các hệ phái Tin Lành chiếm ưu thế)
Tóm lại, tôn giáo và chính trị Mỹ có tác động qua lại lẫn nhau, chi phối
lẫn nhau, nhưng khó có thể khẳng định rằng, nhân tố tôn giáo đóng vai trò chủ
đạo trong đời sống chính trị, nhất là trong cuộc đấu tranh giữa các đảng phái
chính trị ở Mỹ. Tuy nhiên, nếu đảng phái chính trị nào hay chính trị gia nào coi
thường nhân tố tôn giáo trong hoạt động của mình, nhất là trong các hoạt động
tranh cử thì sẽ mắc phải sai lầm và tất yếu sẽ dẫn đến thất bại. Có lẽ đây là nét
đặc thù của Mỹ trong mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị. Xu hướng “tôn
giáo dân sự” ngày càng bộc lộ rõ ở Mỹ. Theo nhà xã hội học Mỹ Will Herberg,
“tôn giáo dân sự” đã biến các giá trị dân tộc, lịch sử dân tộc, các lý tưởng dân
tộc thành các giá trị, các lý tưởng và lịch sử tôn giáo. Giới cầm quyền Mỹ coi
tôn giáo như một nét đặc trưng không thể tách rời của lối sống Mỹ. Tổng giám
mục New York, Hồng y Spellman, trong các bài phát biểu và thuyết giáo của
mình đã nêu ra tư tưởng về sự hòa hợp giữa công giáo với chủ nghĩa Mỹ
(Americanism). Chỉ có các công dân Mỹ tin vào Chúa và là thành viên của một
giáo hội tôn giáo nào đó mới được coi là người Mỹ một trăm phần trăm…Đại đa
số người Mỹ đều gắn với tôn giáo, nhưng tôn giáo Mỹ lại “đóng vai trò phi tôn
giáo”. Tính tôn giáo đã biền thành hình thức đầu tiên của sự tự đồng nhất và địa
vị xã hội, biến thành phương thức để trở thành người Mỹ. Tính tôn giáo đó xác
định vị trí của con người trong đời sống chính trị - xã hội Mỹ.
4. Tôn giáo trong lĩnh vực giáo dục của Mỹ.
Trong lĩnh vực giáo dục của Mỹ, vấn đề phân tách Giáo hội và Nhà
nước được đặt lên vị trí hàng đầu. Chính lĩnh vực này là trở ngại lớn đối với sự
phát triển của tôn giáo. Nhiều người cho rằng, việc phân tách Nhà nước và Giáo


hội đã đi ngược lại truyền thống Ki tô giáo. Các tòa án tìm cách cản trở việc
thực hành tôn giáo trong các trường học, đặc biệt là các trường công. Việc cầu
nguyện do nhà trường tổ chức thường bị cấm ở các trường công từ những năm

60 của thế kỷ XX. Để thay thế cho việc cầu nguyện trong các trường học, các tín
đồ Ki tô giáo đã đưa ra sáng kiến thực hiện cái gọi là “khoảnh khắc yên lặng” và
từ năm 1992 đã xóa bỏ sự hiện diện của các giáo sĩ phụ trách cầu nguyện trong
lễ tốt nghiệp ở các trường trung học. Toàn án chỉ cho phép sinh viên phụ trách lễ
cầu nguyện trong trường hợp này.
Một vấn đề gây tranh cãi gay gắt là chương trình “Phiếu chứng khoán
trường học” mà một số bang ở Mỹ đã thông qua. Theo chương trình này, cha mẹ
học sinh có thể đảm nhận việc cấp kinh phí cá nhân để trang trải một phần hoặc
toàn bộ chi phí cho việc học hành của con em mình trong các trường tư. Vấn đề
ở đây là các “phiếu chứng khoán” này có thể chi tiêu cho việc học hành trong
các trường học của Giáo hội. Trên thực tế, làm như vậy có nghĩa là Nhà nước đã
trả tiền cho giáo dục tôn giáo.
Chính quyền và giáo viên của các trường công lập không có quyền hạn
chế tín ngưỡng tôn giáo của học sinh cũng như hạn chế truyền bá một tôn giáo
nào đó. Nhưng mỗi người đều có cách hiểu riêng của mình về ý nghĩa của
những quy định này. Do vậy, các tòa án ở Mỹ nhiều lần phải giải quyết các vụ
án mà cha mẹ các học sinh đã kiện giáo viên không cho con em họ bày tỏ quan
điểm tôn giáo của mình trong các bài luận và trong các phát biểu trên lớp. Trong
những trường hợp như vậy, quyết định của toàn án thường có lợi cho học sinh,
bởi vì theo Hiến pháp Mỹ, học sinh có quyền bày tỏ ý kiến của mình.
Một số vấn đề khác cũng gây ra những cuộc tranh luận gay gắt, ví dụ
như những lời thề trung thành với quốc kỳ nước Mỹ mà hằng sãng học sinh phải
tuyên thệ trước mỗi buổi học: “Tôi xin thề trung thành với quốc kỳ Hợp chúng
quốc Hoa Kỳ, trung thành với nền cộng hòa mà lá cờ đỏ là biểu tượng, trung
thành với một dân tộc thống nhất trước Chúa, nơi mà tự do và công bằng dành
cho mọi người”. Tính hợp pháp dược nhắc tới trong lời thề trước Chúa đã nhiều
lần được tranh cãi tại các tòa án.
5. Các giáo hội tôn giáo ở Mỹ với vấn đề kinh doanh



Trong điều kiện của Mỹ, chính bản thân các tôn giáo đã biến thành một
ngành công nghiệp mang lại nhiều lợi nhuận cho giới kinh doanh của các giáo
hội. Hoạt động của các giáo hội tôn giáo Mỹ thấm sâu tinh thần kiếm tiền. Điều
này liên quan tới cả các giáo hội tôn giáo truyền thống như Tin Lành, Công
giáo, Do Thái giáo cũng như các tổ chức tôn giáo mới.
Những người đại diện của tư bản độc quyền Mỹ kiểm soát trực tiếp các
tổ chức tôn giáo, dùng tôn giáo để phục vụ cho các lợi ích giai cấp của họ.
Nguyên chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ William Foster đã viết: “Về cơ bản, các
giáo hội bị các giáo hữu giàu có và các nhà tư bản lớn kiểm soát. Các giáo hội
này cũng truyền bá thế giới quan tư sản và thường xuyên sử dụng tôn giáo nhằm
phù trợ cho chủ nghĩa tư bản”2
Mối liên hệ giữa các tổ chức tôn giáo với tổ chức tư bản độc quyền ở
Mỹ được thực hiện thông qua những cơ quan đặc biệt như: trong Hội liên hiệp
các nhà công nghiệp quốc gia, người ta thành lập Ủy ban hợp tác với giáo hội,
đến lượt mình Ủy ban này lại thành lập hàng trăm các ủy ban hợp tác với giáo
hội ở các xí nghiệp.…..Các hội nghị của các nhà công nghiệp, các cuộc họp cuối
năm của các tập đoàn, các buổi tổng kết của các công ty cổ phần đều được bắt
đầu bằng thuyết giáo và cầu nguyện. Các đại diện của giới kinh doanh Mỹ luôn
bằng mọi cách nhấn mạnh đến tính tôn giáo của mình. Các ông trùm tư bản Mỹ
luôn cố gắng hết sức mình nhằm tăng cường địa vị và ảnh hưởng trực tiếp của
giáo hội tới người lao động trong các xí nghiệp công nghiệp. Giáo hội là một
phần đáng kể trong nền kinh tế của Mỹ, vừa là một chủ sở hữu lớn, vừa là một
đại lý thu và chi hàng tỷ đô la mỗi năm.
Nguồn tài chính quan trọng nhất của các giáo hội Mỹ là tiền quyên góp,
ngay từ những năm 1971, các tổ chức tôn giáo ở Mỹ nhận được khoảng 8,3 tỷ
đô la, trung bình mỗi tín đồ các giáo phái Tin Lành đóng góp khoảng 132 đô la
mỗi năm. ….
Có trong tay số tiến lớn như vậy, các nhà hoạt động tôn giáo không chỉ
dùng chúng để chi cho bộ máy của Giáo hội, xây nhà thời và các công trình liên
quan, trả lương giảng viên các trường của Giáo hội, mà còn dùng để mua cổ

2

Foster W.: Hoàng hôn của chủ nghĩa tư bản thế giới, Mátxcơva, 1959, tr.6 (tiếng Nga)


phiếu của ngân hàng, xí nghiệp, của các hãng bảo hiểm. Doanh lợi thu được từ
các hoạt động tài chính này là không nhỏ.
Tiền lạc quyên không phải là nguồn thu tài chính duy nhất của các giáo
hội. Họ còn các nguồn thu như tiền cho thuê nhà ở, trụ sở làm việc, bãi đỗ xe,
nhà mãy, cổ phiếu. Ví dụ, Giáo hội ở Ohio sở hữu cả một trung tâm thương mại,
một hãng điện tử, một công ty sản xuất dây thép và lưới thép.
Công giáo Mỹ là giáo hội giàu nhất thế giới. Bất động sản của Giáo hội
công giáo Mỹ vào những năm 70 của thế kỷ XX được định giá khoảng 44,5 tỷ
đô la, nhiều hơn tổng giá trị 5 tập đoàn lớn của Mỹ là Standard Oil, General
Motors, Ford Motors, United States Steel và Sokond Mobil Oil. Tài sản các tập
đoàn trên vào những năm này chỉ khoảng 38,5 tỷ đô la 3. Kinh doanh của Giáo
hội với một quy mô lớn như vậy đã tác động không nhỏ đến lập trường của các
tổ chức tôn giáo Mỹ đối với các vấn đề chính trị - xã hội của nước này. Bản thân
các giáo hội tôn giáo Mỹ rất quan tâm tới sự tồn tại và phát triển sở hữu tư nhân,
họ luôn bảo vệ lợi ích của giới cầm quyền dưới nhiều hình thức, thường được
ngụy trang một cách khéo léo, đôi khi cũng rất công khai.
Giáo hội Công giáo, các giáo hội Tin Lành, và các thánh đường Do
Thái giáo ở Mỹ là những tổ chức kinh doanh rất lớn. Chức năng của các tổ chức
này gắn liền với kinh tế Mỹ và ở một mức độ nào đó ảnh hưởng nhất định tới
nền kinh tế nước này. Nhà kinh doanh của các giáo hội quan tâm tới bản tin thị
trường chứng khoán, tỷ giá cổ phiếu cũng giống như sự quan tâm của họ tới
Kinh thánh và bài giảng giáo lý của chức sắc tôn giáo trong các giáo hội. Công
việc kinh doanh của các tổ chức tôn giáo ở Mỹ gắn kết chặt chẽ các nhà tư bản
thế tục với các nhà tư bản tôn giáo, xác định mối quan tâm chung của họ tới sự
phát triển của nền kinh tế Mỹ cũng như sự phát triển kỹ nghệ tôn giáo.

Tóm lại, các tổ chức tôn giáo ở Mỹ không chỉ quan tâm đến các vấn đề
thuần túy tôn giáo như đời sống tâm linh của tín đồ, giáo lý, giáo luật của giáo
hội, vấn đề truyên giáo, phát triển đạo…mà còn quan tâm nhiều đến vấn đề
chính trị xã hội, đến sự phân chia quyền lực chính trị và đặc biệt đến vấn đề kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường Mỹ. Đây có lẽ cũng là một nét độc đáo của
tôn giáo Mỹ.
3

Lo BelloN. : Vantican.USA, N.Y., 1972, p. 23


II. VẤN ĐỀ TỰ DO TÔN GIÁO TRONG XÃ HỘI MỸ
1. Bức tranh đa nguyên tôn giáo ở Mỹ.
Mỹ là một trong số ít các quốc gia trên thế giới mà ở đó hiện diện đầy
đủ các giáo hội tôn giáo lớn nhỏ, các giáo phái cũ mới đủ loại với nhiều quan
điểm, khuynh hướng từ bảo thủ đến cấp tiến, thậm chí là cực đoan. Nếu như
trước những năm 1970, các giáo hội và giáo phái ở Mỹ chỉ có khoảng 250, thì
đến năm 1993 con số này đã là 2.500 tổ chức tôn giáo, ngoài ra còn có hàng
nghìn tổ chức tôn giáo tương đối nhỏ chưa được thống kê 4. Mỹ là một trong
những nước mà ở đó, theo cách nói của Mác, “ý thức tôn giáo hưởng lạc và
ngập chìm trong sự muôn màu muôn vẻ của sự khác biệt tôn giáo và sự đa dạng
tôn giáo”
Ở đất nước này, người ta thấy tất cả các tôn giáo thế giới cũng như các
tín ngưỡng bản địa cùng chung sống, cùng cạnh tranh trong xã hội thị trường
đặc trưng kiểu Mỹ, đó là các giáo hội Tin Lành, Do Thái giáo, Islam giáo, Ấn
Độ giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Baha’i giáo, tín ngưỡng bản địa của người Indian
(thổ dân da đỏ)….Sự đa nguyên tôn giáo ở Mỹ là kết quả của quá trình phát
triển lịch sử của đất nước này. Dân cư Mỹ, (ngoài những người Indian) là những
người di cư và hậu duệ của họ thuộc các chủng tộc, dân tộc khác nhau từ các
nước Châu Á, Âu, Phi. Họ là những tin đồ của các tín ngưỡng, tôn giáo khác

nhau, và khi đến Mỹ, họ mang theo cả tín ngưỡng và tôn giáo của mình. Quá
trình di cư đó diễn ra trong lịch sử và cho đến ngày nay vẫn đang tiếp tục. Do
vậy, bức tranh tôn giáo Mỹ đã đa dạng, nay càng thêm đa dạng.
Đạo bộ phận các tín đồ tôn giáo ở Mỹ thuộc các giáo hội Tin Lành.
Điều này được giải thích như sau: Những người di cư tới Mỹ từ nước Anh, Pháp
và các nước châu Âu chủ yếu là tín đồ thuộc các nhóm tôn giáo bị giáo hội Công
giáo đang thống trị ở châu Âu lúc đó truy bức và xua đuổi. Khi tới Mỹ, họ tập
hợp lại thành các tổ chức tôn giáo mà học đã theo đuổi ở châu Âu, đó là các giáo
hội Tin Lành. Ví dụ những người theo Giáo phái Calvin đến Mỹ từ các nước Hà
Lan, Thụy Sĩ, X cốt len và những nước châu Âu khác đã thành lập Giáo hội
Trưởng Lão (Presbyterian Church) và Giáo hội Cải cách (Reformed Church).
Lưu Bành: Tôn giáo Mỹ đương đại, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, Bắc Kinh, 2001 (Bản dịch của Trần Nghĩa
Phương, pI, 2007, tr.12)
4


Những người nhập cư đến từ Italia, Ailen và các nước khác thành lập cộng đồng
Công giáo, những người từ Nga và một số nước khác thì thành lập cộng đồng
Chính Thống giáo. Tất cả các tín đồ tôn giáo đều có mối liên hệ đến nguồn gốc
của dân tộc mình.
Một đặc điểm khác của xã hội đa nguyên tôn giáo Mỹ là tuy số lượng
các tổ chức tôn giáo rất nhiều, chỉ riêng Tin Lành đã vượt quá con số 220 giáo
phái cùng hoạt động vào thế kỷ XX, nhưng không có một giáo hội tôn giáo nào
được thừa nhận là giáo hội chiếm địa vị thống trị, hay còn gọi là quốc giáo. Đặc
điểm này đã được C. Mác và Ph. Ăng ghen nhận xét ngay từ thế kỷ XIX trong
tác phẩm Gia đình thần thánh. Hai ông viết: “….Chỉ nơi nào không có tôn giáo
đặc quyền nào cả (như các bang Bắc Mỹ) thì tôn giáo mới thực tế phát triển một
cách phổ biến”5
Đa nguyên tôn giáo ở Mỹ là một khái niệm rất rộng. Ở Mỹ có rất nhiều
tổ chức tôn giáo cùng hoạt động, cạnh tranh lẫn nhau trong cuộc chiến giành con

tim, khối óc của người dân Mỹ. Cùng với các giáo hội lớn có tời hàng triệu,
thậm chí hàng chục triệu tín đồ là các tổ chức tông giáo nhỏ lẻ tách ra rồi lại sáp
nhập trong một dòng chảy liên tục. Năm 1997 ở Bắc Mỹ số tín đồ các giáo phái
Tin Lành là 257.129.000, Do Thái giáo là 5.904.000, Islam giáo là 4.066.000,
Ấn Độ giáo là 1.129.000, Phật giáo 2.132.000, tín đồ tôn giáo dân gian Trung
Quốc là 491. 000 người, đạo Baha’I là 740.000, đạo Sikh là 491.000, tín đồ
Thần Đạo Nhật Bản là 54.000 người….6
Như vậy, chúng ta thấy, Mỹ thực sự là một nước đa nguyên tôn giáo, và
đồng thời trong bức tranh đa nguyên tôn giáo đó, Ki tô giáo chiếm màu đậm
nhất, đặc biệt là Tin Lành giáo, song nếu tách Tin Lành ra từng giáo phái cụ thể
thì Công giáo lại chiếm ưu thế. Bên cạnh đó màu đậm Ki tô giáo còn được thể
hiện qua việc lựa chọn tôn giáo của các cư dân các chủng tộc khác nhau. Trong
tổng số các tín đồ Tin Lành có 84% là người Mỹ gốc da trắng, 13% người Mỹ
gốc Phi, người Mỹ La tinh gốc Tây Ba Nha chiếm 2%....tỷ lệ này tương đối phù
hợp với cơ cấu chủng tộc trong thành phần dân số Mỹ, theo đó người da trắng
C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.176.
Lưu Bành: Tôn giáo Mỹ đương đại, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, Bắc Kinh, 2001 (Bản dịch của Trần Nghĩa
Phương, pI, 2007, tr.14- 16)
5
6


vừa chiếm đa số trong dân số vừa chiếm đa số trong tổng số tín đồ Ki tô giáo.
Song vị thế của Ki tô giáo ở Mỹ đang chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ bở các tôn
giáo khác, đặc biệt là Islam giáo. Trong vòng nửa thế kỷ (1950-2000) số lượng
tín đồ này đã tăng lên tới 14 lần. Theo dự báo của các chuyên gia, trong vòng 20
năm tới, số lượng tín đồ Islam giáo sẽ vươn lên vị trí thứ 2, chỉ sau Ki tô giáo.
Ngoài các giáo hội, giáo phái, bức tranh đa nguyên tôn giáo ở Mỹ còn
được vẽ bởi các chi phái trong mỗi giáo phái. Ví dụ: Giáo phái Báp tít có 20 chi
phái độc lập, Luther có 12 chi phái, Giáo phái Trưởng Lão có 9 chi phái độc lập,

Giáo phái Ngũ Tuần có hơn 30 chi phái…Đó là mới chỉ nói tới các chi phái
trong Tin Lành. Nếu xét tới các tôn giáo khác như Chính Thống giáo, Do Thái,
Islam, Phật giáo thì không thể tưởng tượng nổi số lượng các tổ chức tôn giáo,
giáo phái, chi phái ở Mỹ. Sự đa dạng tông phái, giáo phái, chi phái ở Mỹ đã tạo
ra một sự lựa chọn rộng rãi về tôn giáo, tín ngưỡng cho cư dân Mỹ. Sự lựa chọn
này có thể dựa vào giáo lý hay căn cứ vào đặc điểm chủng tộc, bối cảnh văn
hóa, hoặc có thể kết hợp bởi nhiều yếu tố. Ngoài việc lựa chọn những tôn giáo
có sẵn, người Mỹ còn có thể tạo ra những tín ngưỡng mới cho mình, từ đó xuất
hiện trên bức tranh đa nguyên tôn giáo Mỹ những cái gọi là “Liên giáo phái”
Việc lập ra các tôn giáo mới ở Mỹ không có gì khó khăn, chỉ cần nó
không trái với pháp luật của Liên bang và chính quyền địa phương là có thể hoạt
động. Điều quan trọng là duy trì và phát triển hoạt động của nó như thế nào, nếu
không thu hút được tín đồ, hay vi phạm pháp luật, thì tất yếu nó sẽ đi đến sự diệt
vong. Ở Mỹ, tôn giáo mới thì nhiều (khoảng 1.700 tổ chức tôn giáo mới), song
số lượng tín đồ lại không đáng kể (khoảng 1,4 triệu). Quy mô mỗi tổ chức tôn
giáo mới chỉ là vài trăm, hoặc vài chục người. Sự xuất hiện và đào thải của các
tôn giáo mới ở Mỹ tạo thành một vòng tuần hoàn và người Mỹ gọi hiện tượng
này là “phong trào tôn giáo mới”. Nguyên nhân xuất hiện của phong trào này rất
phức tạp, có nhiều cách lý giải khác nhau, song đây có thể nói là sản phẩm của
một xã hội thị trường Mỹ điển hình nhìn từ góc độ văn hóa – tôn giáo.
Ngoài ra, trên bức tranh đa nguyên tôn giáo của Mỹ còn có một mảng
màu của những người “không có tôn giáo”. Mảng màu này trước đây mờ nhạt,
nhưng hiện nay nó đã đậm dần, ở Mỹ hiện nay có khoảng hơn 14 triệu người


(chiến khoảng 7% dân số) không theo một tôn giáo nào, tuy nhiên: “tiếng nói
của những người không tôn giáo vẫn là rất yếu ớt, sự tồn tại của họ làm tăng
thêm sắc thái đặc thù cho cái cảnh quan đa nguyên tôn giáo ở Mỹ”.
Có thể hình dung nước Mỹ là bảo tàng tôn giáo lớn nhất thế giới với số
lượng, nhà thờ, thánh đường và các công trình tôn giáo lớn nhỏ rất đa dạng. Mỗi

công trình tôn giáo ở Mỹ đều có dáng vẻ riêng. Vấn đề này, trong tác phẩm Tôn
giáo Mỹ đương đại, Lưu Bành viết: “ Tuy giáo đường trong cùng một hệ thống
tôn giáo, giáo phái ở các thời kỳ lịch sử khác nhau vẫn giữ được một số điểm
giống nhau, nhưng nhìn chung mà nói, hình thức biểu hiện của giáo đường ở
nước Mỹ tràn đầy cá tính tươi mới. Trong một thành phố, hầu như không thể tìm
thấy hai giáo đường nào có hình thức giống nhau. Từ giáo đường kiểu tháp
chuông nhọn màu trắng truyền thống của vùng New England đến giáo đường
kiểu La tinh màu trắng xen lẫn màu hồng ở bang California, từ đại giáo đường
tầm cỡ quốc gia ở Washington hùng vĩ uy nghi đến giáo đường thủy tinh kiến
trúc điển hình của phái hiện đại ở Los Angeles, từ giáo đường mái vòng Chính
Thống giáo đến thánh điện Mormon, nhà thờ Islam giáo mang phong cách Ả
rập, những ngôi chùa Phật giáo mái ngói lưu ly……”. Đa nguyên tôn giáo ở Mỹ
được tuyên truyền, quảng cáo và ca ngợi như một chỉ số quan trọng nhất của dân
chủ và tự do tôn giáo. Nhưng nhìn lại lịch sử Mỹ, chúng ta cần thấy không phải
hoàn toàn như vậy, đa nguyên tôn giáo chưa hẳn lúc nào cũng là sự bảo đảm cho
tự do tôn giáo. Chính đa nguyên tôn giáo ở Mỹ đã vẽ nên một ảo ảnh về tự do
tôn giáo ở nước này.
2. Lịch sử vấn đề tự do tôn giáo ở Mỹ.
Đa số người di cư Mỹ đều là những tín đồ khác nhau của các tôn giáo
mà họ đã tín ngưỡng khi còn ở châu Âu. Khi còn ở cố hương, những người này
bảo vệ nguyên tắc của tự do tôn giáo. Nhưng khi vượt qua đại dương sang Mỹ,
họ đến định cư ở những vùng di dân, mà ở đó đang thực hiện chính sách phân
biệt đối xử với các tôn giáo thiểu số. Trong số 13 vùng di dân lập nên nhà nước
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ vào năm 1776, có tới 9 vùng di dân đã chính thức công
nhận hệ thống tôn giáo nhà nước. Họ có giáo hội độc lập của mình và các giáo
hội được chu cấp đầy đủ. Xem xét những quyết định của Tòa án Tối cao Mỹ


năm 1847 có thể thấy rằng, người Công giáo đã bị truy bức và bị đặt ra ngoài
vòng pháp luật, những người theo giáo pháp Quây cơ (Quaker) đã bị bỏ tù.

Những người đàn ông, đàn bà ở địa phương này hay địa phương khác vì theo
các tôn giáo mà bị truy đuổi. Họ buộc phải nộp thuế và tiền lệ quyên để chu cấp
cho Giáo hội được Nhà nước nâng đỡ, còn giới tăng lữ truyền bá các thuyết giáo
nhằm củng cố giáo hội và nhà nước, gây hận thù đối với các tín đồ khác giáo.
Ví dụ: Theo Hiến pháp bang New Hampshire được thông qua năm
1784, những người không phải là tín đồ Tin Lành thì không thể vào được Hạ
viện và Thượng viện của bang này
Hiến pháp bang Delaware được thông qua năm 1776 có điều khoản quy
định khi được bầu vào Hạ viện hay được bổ nhiệm chưc vụ nào đó, người được
bầu phải tuyên thệ rằng mình tin vào Thiên Chúa và Chúa Giê su Ki tô….Điều
khoản này được ghi trong hiến pháp của bang cho tới năm 1972.
Ở bang Maryland, người ta tỏ thái độ không thể dung thứ đối với những
người không thuộc Giáo hội Ki tô giáo và không tin vào những tín điều của
Chúa Ba ngôi.
Như vậy, trong lịch sử Mỹ đã chứng tỏ rằng, các nhà làm luật của các
bang ở nước này hoàn toàn không đứng trên lập trường khoan dung tôn giáo.
Ở Mỹ, việc tách Giáo hội khỏi Nhà nước chưa khi nào được thực hiện
một cách triệt để, bởi vì cả hai thể chế đều là một bộ phận của cùng một môi
trường văn hóa – xã hội. Từ đó, ông cho rằng, việc tách hai thể chế này chỉ
mang tính tương đối. Sự hợp tác giữa Giáo hội và Nhà nước ở Mỹ được quy
định bởi sự cộng đồng quyền lợi giai cấp giữa Giáo hội và Nhà nước. Việc tách
Giáo hội khỏi Nhà nước không hoàn toàn dẫn tới việc loại bỏ giáo hội ra khỏi bộ
máy thống trị.
Năm 1786, một đạo luật về tự do tôn giáo đã được thông qua với tên
gọi là Đạo luật Virginia mà tác giả của nó chính là người đã soạn thảo tuyên
ngôn nước Mỹ (Thomas Jefferson). 220 năm sau, thổng thống thứ 43 của Mỹ
George W. Bush đã chọn ngày thông qua đạo luật này (16-1) làm ngày tự do tôn
giáo. Đạo luật Virginia tuyên bố về sự độc lập của giáo hội đối với Nhà nước,
nêu rõ “Không một người nào sẽ bị ép buộc phải duy trì sự sùng bái một tôn
giáo nào đó, bất kỳ giới tăng lữ nào…Nhưng tất cả mọi người sẽ tự do tin theo,



bảo vệ ý kiến của mình trong các sự kiện tôn giáo, và điều này trong mọi trường
hợp đều không được giảm bớt, không được mở rộng hoặc xúc phạm đến các
quyền của họ”7
Năm 1784, Hiến pháp Mỹ được thông qua, năm 1789 Luật về các
quyền đã được Quốc hội chấp nhận và được thông qua tại các bang của Mỹ, có
hiệu lực vào 1791. Đầu tiên trong số 10 điều của các quyền này là nói về tôn
giáo” “Quốc hội không được ban hành đạo luật lập ra một tôn giáo nào đó hoặc
cấm đoán sự tự do tín ngưỡng tôn giáo của nó”…..
Thực tế, chỉ sau khi sửa đổi lần thứ 14 Hiến pháp Mỹ vào năm 1868,
trong đó nêu rõ không một bang nào được ban hành hay tiến hành sửa đổi các
điều luận hạn chế đặc quyền và tự do của công dân, thì tới lúc đó điều khoản sửa
đổi lần thứ nhất Hiến Pháp nước Mỹ mới thực sự trở thành bộ luật chung cho cả
nước. Tuy vậy, việc thông qua những sửa đổi Hiến pháp Mỹ vẫn không xóa bỏ
được sự bất khoan dung tôn giáo ở nước này. Trong suốt thế kỷ XIX và cả nửa
đầu thế kỷ XX, những tín đồ Tin Lành giáo vẫn có thái độ thù địch đối với
người Công giáo và ngược lại. Sự bất hòa và cuốc đấu tranh giữa các giáo phái
Tin Lành với Giáo hội Công giáo chủ yếu không phải vì nguyên nhân tôn giáo
mà vì những nguyên nhân chính trị. Một mặt, Tin Lành muốn giành vị trí thống
trị trong đời sống chính trị - xã hội Mỹ, mặt khác, những người Công giáo cũng
muốn nâng cao vai trò của mình trong Nhà nước Mỹ. Điều này thể hiện rõ nét
trong cuộc bầu cử tổng thống 1928, khi các giáo hội Tin Lành tiến hành chiến
dịch chống lại ứng cử viên người công giáo đầu tiên trong lịch sử E. Smith.
Theo truyền thống ở Mỹ, tổng thống bao giờ cũng được bầu từ những ứng cử
viên Tin Lành giáo và E. Smith đã thất bại trong cuộc bầu cử này. Truyền thống
này chỉ bị phá vỡ vào năm 1961 khi Kennedy trở thành ông chủ Nhà Trắng.
Bắt đầu từ những năm 1960, các cơ quan thực thi pháp luật ở Mỹ có xu
hướng mở rộng phạm vi ủng hộ việc thực thi quyền tự do tôn giáo. Đến những
năm 70 của thế kỷ XX, các nhóm tôn giáo thiểu số vốn trước đây bị đẩy ra

ngoài lề bắt đầu nhận được sự quan tâm đặc biệt. Năm 1993, Quốc hội mỹ đã
thông qua điều khoản khôi phục tự do tôn giáo nhằm thực hiện nghiêm túc các
7

The best of church state 1948 – 1975, N.Y,. 1975, p.44.


điều luật về tự do tôn giáo, chấn chỉnh những điều luật của Liên bang hay các
bang trái với những quy định về tự do thực hành tôn giáo, tự do lựa chọn tôn
giáo đã được ghi trong điều khoản sửa đổi Hiến pháp Mỹ lần thứ nhất. Tuy
nhiên, đến năm 1997 Tòa án Tối cao Mỹ đã bác bỏ điều khoản khôi phục tự do
tôn giáo được Quốc hội thông qua năm 1993 vì cho rằng Quốc hội đã giẫm lên
chính quyền lực của mình, điều khoản đã làm chia rẽ quyên lực trong chính
quyền Liên bang…….
Tự do tôn giáo ở Mỹ, thực ra chỉ là sự tự do lựa chọn tôn giáo và tự do
thực hành các nghi lễ tôn giáo. Công dân Mỹ có thể tự do lựa chọn một tôn giáo,
nhưng họ lại ít có tự do từ bỏ tôn giáo. Thông thường, mỗi người dân Mỹ đều
phải thuộc về một tôn giáo nào đó và tham gia một tổ chức tôn giáo nào đó.
Trên thực tế, những người không theo tôn giáo nào hay thậm chí có thái độ thờ ơ
với tôn giáo và hơn nữa, những người có quan điểm vô thần thường bị hạn chế
về quyền lợi. Ở một số bang, sự hạn chế này được quy định bằng pháp luật của
bang.
Trong lịch sử chính trị Mỹ, chúng ta khó tìm thấy một yếu nhân chính
trị nào là người “không tôn giáo” hoặc vô thần. Những tín đồ tôn giáo thiểu số
cũng khó có được cơ hội này8. Mặc dù vậy, số lượng người “không tôn giáo”
vẫn không ngừng tăng lên, từ 3% dân số vào những năm 1950, đến nay đã lên
trên 7%. Trong đó, cá biệt có bang Oregon tỷ lệ này là 17% dân số của bang.
Mỹ là quốc gia đầu tiên tuyên bố tách Giáo hội khỏi Nhà nước. Nhưng,
như V.I. Lê nin từng chỉ rõ, việc tách Giáo hội khỏi Nhà nước, trường học/giáo
dục khỏi nhà thờ/giáo hội, như một phương sách mà nền dân chủ tư sản đã hứa

hẹn, chưa ở đâu thực hiện được một cách triệt để 9. Ở Mỹ, Nhà nước hợp tác chặt
chẽ với nhiều tổ chức tôn giáo. Trong lời mở đầu của hiến phấp 42 bang đều nói
đến Chúa. Lễ nhậm chức tổng thống được tiến hành cùng với các nghi lễ tôn
giáo. Tổng thống tuyên thệ đặt tay lên Kinh Thánh, chức sắc các tôn giáo như
mục sư đạo Tin Lành, giám mục Công giáo và từ năm 1957 có cả chức sắc
Chính Thống giáo, đọc kinh, cầu nguyện Chúa ban phúc lành cho Tổng thống.
Nguyễn Văn Dũng: Tôn giáo và sự phân chia quyền lực chính trị ở Hoa Kỳ”, tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 32008, tr. 64-65.
9
V.I. Lê nin:Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.38, tr.117.
8


Những vấn đề nêu trên cho thấy, việc giáo hội tách ra khỏi Nhà nước
chỉ là mang tính hình thức. Thêm nữa, ở Mỹ trong hiến pháp của nhiều bang có
những điều khoản chống lại hiến pháp Liên bang về tự do tôn giáo. Tại các bang
Mississippi, North Carolina, South Carolina, Arkansas, Texas….người nào phủ
nhận sự tồn tại của Chúa thì sẽ không được bầu vào bất kỳ chức vụ nào…Như
vậy quyền tự do tôn giáo của con người ở Mỹ có thể được hiểu là quyền tự do
lựa chọn tôn giáo, chứ không thể được hiểu là tự do không theo một tôn giáo
nào. Tất cả những ai có thái độ phủ định tôn giáo đều bị coi là người chống lại
nguyên tắc tự do tôn giáo. Việc đi lễ nhà thờ thể hiện tính tôn giáo của mình, đã
trở thành một trong những biểu hiện của sự kính trọng ở Mỹ. Người Mỹ cho
rằng, một người Mỹ chân chính phải là một tín đồ tôn giáo.
Đa nguyên tôn giáo và tự do tôn giáo ở Mỹ không phải lúc nào cũng là
hai vấn đề thuận chiều nhau. Quả thực, không có một nước nào trên thế giới có
bức tranh đa nguyên tôn giáo rực rỡ, đa sắc màu như Mỹ. Cũng khó có ở nơi đâu
có cách hiểu về tự do tôn giáo đơn chiều như ở Mỹ. Ở nước này, tự do tôn giáo
chỉ được hiểu là tự do tin theo tôn giáo, chứ không được hiểu là tự do không tin
theo tôn giáo. Chính vì cách hiểu này mà Mỹ thường xuyên buộc tội các nước
khác, trong đó có cả một số nước châu Âu, là không có tự do tôn giáo và xếp

những nước này vào diện các nước được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo.
Mỗi nước, mỗi quốc gia dân tộc đều có truyền thống lịch sử, văn hóa, tôn giáo,
tín ngưỡng của riêng mình, luật pháp mỗi nước cũng được xây dựng trên các
truyền thống đó. Đó là quyền bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Tuy nhiên,
trong thời đại hội nhập và toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động hiện nay, mỗi
quốc gia đều đã và đang hoàn chỉnh lại hệ thống luật pháp của mình cho phù
hợp với thông lệ quốc tế. Luật pháp tôn giáo cũng nằm trong tiến trình điều
chỉnh này, chứ không phải ngoại lệ với bất kỳ quốc gia nào. Do vậy, việc lấy
tiêu chuẩn luật pháp của một quốc gia này áp đặt cho một số quốc gia khác là
điều không thể chấp nhận được trong thế giới hiện đại. Chỉ có sự hiểu biết lẫn
nhau, cùng điều chỉnh và hội nhập mới là phương sách đúng giúp các quốc gia,
dân tộc xích lại gần nhau hơn, tránh được các xung đột, trong đó có xung đột tôn


giáo, nhiều khi rất thảm khốc, như đã từng diễn ra trong lịch sử và mới diễn ra
trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.



×