Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo VIỆC GIA NHẬP tổ CHỨC THƯƠNG mại THẾ GIỚI WTO từ năm 1996 đến năm 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.64 KB, 58 trang )

1. Lý do chọn đề tài
Đại hội X của Đảng đã tổng kết: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu
của tồn Đảng, tồn dân, tàn qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành
tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội,
có sự thay đổicơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp cơng
nghiêp hố, hiện đại hố, phá triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được đảy mạnh. Đời sống nhân dân đựoc cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đồn kêttồn dântộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninhđược giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế
và lực mmới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp” [13, 67-68] .Tuy
nhiên trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp như hiện nay, đòi hỏi cho từng quốc
gia dân tộc muốn hội nhập vững chắc vào nền kinh tế thế giới phải có sự nhạy bén,
linh hoạt và phải có đường lối chủ trương hội nhập thật đúng đắn và linh hoạt. Đối
với nước ta, một nước có nền kinh tế đang phát triển, chính vì vậy để thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển thì Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, đường lối phát
triển kinh tế hợp lý, nhưng những yếu tố hết sức quan trọng khác là: Thị trường,
vốn và công nghệ. Những yếu tố này diễn biến hết sức năng động và phức tạp đòi
hỏi chúng ta hết sức nhạy bén và linh hoạt. Nó được những nước phát triển đang tận
dụng hết sức hiệu quả. Vì vậy đối với nước ta chủ động hội nhập kinh tế, và tham
gia vào Tổ chức Thương mại thế giới là yêu cầu khách quan và là một địi hỏi cấp
bách trong q trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.Xuất phát từ
yêu cầu như vậy mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đề ra với việc
triển khai nhiều chính sách cải cách kinh tế, mở cửa thị trường, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài…để bước đầu khắc phục được khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng
với những biểu hiện nạm phát phi mã, sự thiếu thốn về hàng tiêu dùng thiết yếu,
bức bách về đời sống của đông đảo quần chúng lao động…cuối những năm 90,
trước sự sụp đổ của Liên xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu.
Đường lối đổi mới tiếp tục được các Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng khẳng định



2
và đề ra mục tiêuchủ động hội nhập kinh tế, quốc tế và tham gia vào tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) sâu rộng hơn.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) có vai trị to lớn và tác động mạnh
mẽ đến các quốc gia dân tộc bởi vì WTO là một tổ chức rộng lớn nó bao gồm
nhiều quốc gia ở khắp các Châu Lục và vùng lãnh thổ. Cho nên khi đã là
thành viên của WTO các nước có điều kiện phát triển ổn định, có sự tin cậy
lẫn nhau theo quy tắc trung. Đồng thời WTO còn là trọng tài giải quyết tranh
chấp, mâu thuẫn trong Thương mại, làm giảm bớt sự bất bình đẳng trong quan
hệ thương mại, làm giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan (hàng rào thuế
quan là đánh thuế cao để hàng hố các nước khơng vào được, hàng rào phi
thuế quan là đề ra các quy định để hàng hố khơng vào được). WTO tạo ra sự
lựa chọn hơn về đối tác, số lượng, chất lượng hàng hoá (cho phép các thành
viên có nhiều sự lựa chọn) WTO khuyến khích Chính phủ thành viên hoạt
động tốt hơn. Vì khi vào WTO thì Chính phủ các nước thành viên phải tham
gia các cuộc họp của tổ chức này, từ đó sẽ phải vươn lên hoàn thiện hơn để
đáp ứng yêu cầu trong nước của mình và các thành viên trong WTO.
Với đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá”,
“Việt Nam là của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, ngoài việc mở
rộng quan hệ song phương với nhiều nước, nước ta đã tích cực tham gia vào
các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Vì vậy vào WTO cũng là một xu thế
khách quan. Có như vậy, chúng ta mới phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại
lực để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Với những lý do trên tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO từ
năm 1996 đến 2007” để làm luận văn tốt nghiệp cử nhân Lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2- Tình hình nghiên cứu có liên quan
Đã có nhiều bài viết và nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau về việc
Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tiêu biểu: “Việt Nam



3
với tiến trình gia nhập tổ chức Thương mại thế giới” của PGS, TS Phan
Thanh Phố, Nxb CT QG, H. 2005.
“Tổ chức thương mại thế giới, triển vọng gia nhập của Việt Nam” của
Trung tâm tư vấn đào tạo kinh tế thương mại ICIC.
“Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập, phát triển của
nước ta” của Ban tư tưởng văn hoá trung ương, Nxb CTQG, H. 2004.
“Bộ ngoại giao Vụ hợp tácđa phương -Việt Nam hội nhập kinh tế trongh
xu thế tồn cầu hố, vần đề và giải pháp, Nxb CTQG, H, 2002.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Làm rõ tính đúng đắn sáng tạo trong chủ trương và sự chỉ
đạo của Đảng về quá trình Việt Nam gia nhập WTO từ năm 1996 đến năm
2007, từ đó có thể vận dụng có hiệu quả đối với q trình lãnh đạo đất nước
gia nhập WTO sâu rộng hơn.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ tính tất yếu khách quan Việt Nam gia nhập WTO
- Trình bày hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đối với quá
trình Việt Nam gia nhập WTO từ năm 1996 đến năm 2007.
- Đánh giá thành tựu hạn chế và nguyên nhân, rút ra một số kinh nghiệm
bước đầu trong quá trình Đảng lãnh đạo chỉ đạo Việt nam gia nhập WTO từ
năm 1996 đến năm 2007.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Đường lối, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong quá
trình Việt Nam gia nhập WTO.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập chung nghiên cứu và làm rõ Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình Việt Nam gia nhập WTO từ năm 1996
đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:
- Dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
hội nhập kinh tế quốc tế.


4
- Đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá trình việt
Nam gia nhập WTO
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin, sử dụng phương
pháp lịch sử và lôgic kết hợp với các phương pháp khác của khoa học lịch sử
do luận văn đề ra.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn hình thành sẽ góp phần làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn để
khẳng định tính đúng đắn sáng tạo trong lãnh đạo chỉ đạo của đảng.
-luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu giảng dạy Lịch
Sử Đảng Cộng sản Việt nam trong các trường quân đội.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), danh mục tài liệu tham khảo.


5
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO) TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2007

1.1. Sự cần thiết phải gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
1.1.1. Vị trí, vai trị của tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
WTO là một tổ chức thương mại toàn cầu, thành lập ngày 01/1/1995 là
kết quả của vòng đàm phán Urugoay kéo dài trong suốt 8 năm (1986 1994). Sự ra đời của tổ chức này nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển Thương

mại thế giới. Tuy kế thừa Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT) năm 1944, nhưng WTO mở rộng các lĩnh vực thương mại về nông
nghiệp, hàng dệt may, dịch vụ, đầu tư sở hữu trí tuệ mà GATT chưa đề cập
đến sự ra đời của WTO tạo nên một cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh,
điều chỉnh các quan hệ thương mại và hàng hố tồn cầu. WTO là một tổ
chức liên Chính phủ hoạt động độc lập với tổ chức Liên hợp quốc (UN).
Liên hợp quốc có 191 nước thành viên cịn WTO có 149 thành viên. WTO
chi phối các chính sách thương mại của khu vực và các quốc gia, điều tiết
trên cá 4 lĩnh vực. Thương mại hàng hoá, 11 ngành và 155 phân ngành dịch
vụ, đầu tư có liên quan đến thương mại và sỡ hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại. Chính vì từ nhận thức được vai trò của WTO đối với kinh tế
tồn cầu, trong đó có Việt Nam, nên ngay từ tháng 12 năm 1994 Việt Nam
đã nộp đơn xin gia nhập tổ chức này.
Để thực hiện sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng
thành cơng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam cần mở rộng quan hệ với các nước đối tác
nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút vốn, công nghiệp và kiến thức quản
lý kinh tế tiên tiến, tham gia phân công lao động quốc tế để khai thác các tiềm
năng bên ngoài…từ đó đẩy mạnh và duy trì tốcđộ tăng trưởng kinh tế, tiến tới bắt
kịp các nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, không ngừng nâng cao sức
mạnh kinh tế và vị thế quốc gia. Vì vậy hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới
là một yêu cầu khách quan thể hiện ở những nét sau:


6
WTO là một tổ chức có tầm ảnh hưởng rộng lớn, nó tác động đến hầu
hết các quốc gia và vùng lãnh thổ, là nhân tố quan trọng để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và rút ngắn q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, WTO tạo
điều kiện, tiền đề cho các nước nói chung và Việt Nam nói riêng, tiếp cận thu
hút những nguồn lực rất quan trọng, cần thiết cho sự nghiệp cải cách và đổi
mới của đất nước. Từ nguồn vốn đầu tư cịn rất thiếu, cơng nghệ hiện đại đến

các tri thức và kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh…để nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế doanh nghiệp.
WTO góp phần rất quan trọng để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua
giảm thiếu các hàng rào cản thương mại, dịch vụ…giữa các nền kinh tế, đặc
biệt đối với nước ta. Sau khi vào WTO được một thời gian những mặt hàng
như điện tử, ôtô..đã giảm thuế điều này làm cho thị trường trong nước phong
phú hơn, cũng như là làm tăng lên nhu cấu của nhân dân, đây là một tín hiệu
hết sức khả quan của nền kinh tế cũng như thị trường trong nước. từ việc giảm
thiếu hàng rào thuế quan và các rào cản thương mại mà càng làm tăng lên việc
mở rộng quan hệ và hợp tác về nhiều mặt giữa nước ta và những nước khác
trên thế giới trong đó có lĩnh vực kinh tế, góp phần gia tăng nguồn thu ngoại tệ
của chính mình cho cuộc sống cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
WTO tác động đến xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thông qua hội
nhập, tăng lực nội sinh của nền kinh tế được nâng cao, giảm thiểu sự lệ thuộc
vào bên ngồi. Đặc biệt trong xây dựng và hoạch định chính sách phát triển
kinh tế. Đồng thời với những thành quả và nền kinh tế nước ta đạt được khi là
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta có đủ
nguồn lực, vật chất, tài chính để xây dựng tiềm lực quốc phịng vững mạnh,
hồn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
WTO là một tổ chức tồn cầu, chính vì vậy tất cả các quốc gia, dân tộc
đều có xu thế và nguyện vọng được tham gia vào tổ chức kinh tế rộng lớn
này, nó khơng chỉ là mong muốn có mỗi chính phủ mà còn là nguyện vọng
của các doanh nghiệp và của mọi người dân. Chính vì vậy vào WTO thì tổ


7
chức này có điều kiện tạo khả năng nâng cao đời sống vật chất và tinh thấn
của người dân. Chính nhờ nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh
tăng trưởng kinh tế, hàng hoá và dịch vụ ngày càng đa dạng phong phú, Việt

Nam có khả năng từng bước cải thiện đời sống của người lao động, các dân
tộc trên mọi miền đất nước cả về vật chất lẫn tinh thần. Thực tế cho thấy gần
20 năm đổi mới đã cho thấy điều đó.
Tham gia vào WTO làm tăng nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế, một bộ phận của cơ cấu kinh tế, trình độ và tốc độ
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có liên quan, đến quy mơ, cơ cấu và chất lượng
của sức mạnh cạnh tranh hàng hoá. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế bản thân nó
lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, đặc điểm về
kinh tế - tự nhiên, xã hội và nhân văn. Định hướng phát triển và chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế (nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng và dịch vụ) được thực
hiện theo sự phân loại các nhóm hàng có mức độ cạnh tranh khác nhau.
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng ưu tiên phát triển các mặt hàng nơng, lâm, ngư nghiệp có khả năng
cạnh tranh cao, phù hợp các hiệp định song phương và đa phương.
Đối với sản phẩm trồng trọt trong thời gian ngay sau khi là thành viên
chính thức của WTO thì tư duy cạnh tranh và quy hoạch tổng thể về tiềm
năng đất đai và tài ngun hiện có. Hàng hố ngành trồng trọt đều có xu
hướng phát triển, các vùng và tiểu vùng kinh tế ven các thị tứ, thị trấn, ven đơ
trồng các loại rau hàng hố sạch có giá trị cao như : rau, quả, hoa, cây cảnh
trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường với tính đa dạng có chất lượng cao
về giá trị sử dụng cho thị trường trong nước và quốc tế. Hướng cạnh tranh và
xuất khẩu thông qua việc thực hiện các dự án phát triển cây trồng trong nông
nghiệp và lâm nghiệp ngày càng tăng. Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội ở
nông thôn (từ 1996 - 2010) để tăng khối lượng và giá trị hàng hố, đó là dựa án
gieo cấy lúa lai thời gian 15 năm từ 1996 - 2010. Bằng cách đó mà khai thác sử


8
dụng tối đa có hiệu quả quỹ đất đai của vùng, tạo nhiều sản phẩm có khả năng

xuất khẩu.
Đối với chăn ni hàng hố xuất khẩu. Ngay sau khi là thành viên chính
thức của WTO theo định hướng phát triển, đưa chăn ni lên thành ngành sản
xuất chính này bắt nguồn từ sự phát triển của phân công lao động xã hội ở nơng
thơn và nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của việc nâng cao sức cạnh tranh của kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó ngành đầu tư ni trồng,
đánh bắt và chế biến thuỷ sản xuất khẩu cũng được đầu tư và tăng nhanh.
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong ngành nội bộ ngành công
nghiệp và xây dựng hướng mạnh vào những mặt bằng có sức cạnh tranh cao đó
là những mặt hàng thuộc ngành cơng nghiệp nhẹ như: sản xuất, may mặc, da
giày, đồ chơi, gốm sứ, thuỷ tinh…
Thứ ba, chuyển dich cơ cấu ngành dịch vụ hướng vào các ngành có khả
năng cạnh tranh bằng những biện pháp nhanh, tăng và hiệu quả tạo điều kiện đưa
ngành dịch vụ ngày càng phát triển. Trong thời gian vừa qua, ngay sau khi là
thành viên chính thức của WTO thì hàng hố những ngành có năng lực cạnh
tranh như: du lịch, ngân hàng, viễn thông, vận tải hàng không, dịch vụ xây dựng,
cơng nghệ thơng tin phần mềm có những bước phát triển nhảy vọt.
Trên đây là những tác động rất lớn mà ngay sau khi chúng ta là thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Qua đó thấy được vị trí vai
trị to lớn mà tổ chức này mang lại cho thế giới nói chung và đặc biệt là những
nước thành viên trong đó có Việt Nam chúng ta. Từ vị trí, vai trị to lớn đó địi
hỏi Đảng và Chính phủ phải khơng ngừng đổi mới tồn diện trong nước đón lấy
thời cơ thuận lợi để thúc đẩy kinh tế phát triển, rút ngắn thời gian tiến hành cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trong nước.
1.1.2. Yêu cầu khách quan Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Điều kiện quan trọng để đảm bảo cho quá trình chủ động hội nhập là duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao một cách bền vững, mà muốn có nó,
khơng cịn con đường nào khác là phải tập trung mọi nguồn lực về vốn, công



9
nghệ và đầu tư phát triển. Nhưng vốn, công nghệ khơng phải tự nhiên mà có,
đặc biệt trong điều kiện xuất phát điểm của Việt Nam là một nước đang phát
triển ở trình độ thấp, sản xuất manh mún, phán tán và công nghệ lạc hậu nhiều
thế hệ so với các nước đang phát triển khác, thì vốn cho đầu tư phát triển cơng
nghệ hiện đại chỉ có thể thực hiện bằng hai con đường là chuyển giao công
nghệ thông qua các dự án đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và mở rộng
quan hệ thương mại quốc tế với chiến lược hướng về xuất khẩu. Vì vậy gia
nhập WTO là một yêu cầu khách quan đối với nước ta.
Việc Việt Nam gia nhập WTO của Việt Nam cũng tạo ra cho Việt Nam
những cơ hội và thách thức đổi mới Việt Nam.
Những cơ hội rất thuận lợi mà WTO mang lại cho Việt Nam đó là:
Thứ nhất, được tiếp cận thị trường hàng hoá dịch vụ rộng lớn. Gia nhập
WTO sẽ có lợi thúc đẩy xuất khẩu và mở rộng thị trường với tư cách là thành viên
của WTO, hàng hoá dịch vụ của Việt Nam sẽ được đối xử bình đẳng như các
thành viên khác và do vậy khơng những có nhiều cơ hội hơn trong việc thâm nhập
thị trường các nước thành viên mà còn mở rộng và phát triển thị trường ở các
nước khác trên thế giới. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khố
X chỉ rõ: “Chúng ta có điều kiện mở rộng thị trường xuất vào các nước thành viên
của tổ chức Thương mại thế giới với tư cách là một đối tác bình đẳng, khơng bị
phân biệt đối xử và theo mức thuế các thành viên WTO cam kết. Đây là những
yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá, dịch vụ của nước ta,
tạo thêm việc làm, góp phần giữ vững tốc độ tăng trưởng” [14, 40- 41]. Hiện tại
Việt Nam đã có mối quan hệ thương mại với nhiều quốc gia là thành viên của
WTO. Năm 2002, hàng hoá của Việt Nam đã xuất sang thị trường các nước Châu
Á là 57%, thị trường Châu Âu là 22%, thị trường Nam Mỹ là 9%, thị trường Châu
Đại Dương là 7%, thị trường khác 5% tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu.
Khi gia nhập WTO, với sự cạnh tranh bình đẳng, khơng phân biệt đối
xử, tiêu thụ hàng hoá của Việt Nam trên thị trường Việt Nam dễ dàng,

thuận lợi hơn rất nhiều. Đây chính là động lực để khuyến khích các nhà
xuất khẩu Việt Nam.


10
Thứ hai, gia nhập WTO hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến
trình cải cách trong nước theo thông lệ quốc tế như đã cam kết. Cơng cuộc đổi
mới tồn diện ở Việt Nam được thực hiện từ năm 1986, trải qua gần 20 năm, đã
thu được những thành tựu nhất định, tuy nhiên cũng cần rất nhiều vấn đề cần giải
quyết. Để tiếp tục đi sâu và đẩy mạnh đổi mới kinh tế trong nước, Việt Nam cần
phải cơ động lực mới, phải có “cú huých” từ bên ngoài. Hội nghị lần thứ tư, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá X cũng chỉ rõ: “Gia nhập tổ chức thương mại
thế giới sẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, chính sách kinh tế, cơ chế quản
lý ngày càng minh bạch hơn, môi trường tiềm năng to lớn của đất nước và sức
sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sẽ
hiệu quả hơn; tăng trường kinh tế, do đó, sẽ nhanh và bền vững” [14, 41]. Việc gia
nhập WTO sẽ là động lực, “cú huých” thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới trong nước
nhằm thực hiện những cam kết và luật lệ của WTO. Bằng cách đó sẽ củng cố
mạnh mẽ và tăng tốc độ đổi mới trong nước, nhân tố WTO sẽ đưa việc đổi mới
trong nước phát triển mạnh mẽ đến mức mà những tác động trong nước sẽ khó mà
có thể đạt được. Gia nhập WTO Việt Nam phải cam kết áp dụng và giám sát hệ
thống luật của mình theo các nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và
đồng bộ, gia nhập WTO, Việt Nam phải có chính sách, cơ chế thực sự khuyến
khích kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế khác phát triển nhằm tạo ra
những lực lượng kinh tế mạnh có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.
Thứ ba, gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành
viên khác, căn cứ vào nguyên tắc hoạt động cơ bản của WTO đó là ngun
tắc khơng phân biệt đối xử , nguyên tắc này được cụ thế hoá trong các quy
định về chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): theo nguyên tắc MFN, các thành
viên WTO không được phép phân biệt đối xử giữa các đối tác thương mại

khác, trong quan hệ với các nước là thành viên của WTO, khi các nước này
dành cho Việt Nam được hưởng thụ ưu đãi tối huệ quốc thì chúng ta cũng
phải đối xử như vậy đối với họ khi đến Việt Nam.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT) yêu cầu một nước phải đối xử bình
đẳng và cơng bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất


11
trong nước. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi Việt Nam đối xử bình đẳng với các
nước trong quan hệ thương mại quốc tế trong WTO. Trong kỳ họp của Hội
nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khoá X nêu rõ: “Là thành viên tổ
chức thương mại thế giới, nước ta có địa vị bình đẳng với các thành viên khác
khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thành lập
một trật tự kinh tế mới cơng bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo
vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc tranh chấp thương mại với
các thành viên khác, hạn chế những thiệt hại” [14, 41-42].
Gia nhập WTO đối với Việt Nam khơng chỉ có những cơ hội lớn mà cịn
có những khó khăn địi hỏi phải vượt qua đó là:
Thứ nhất, cạnh tranh diễn ra gay gắt hơn với nhiều đối thủ, năng lực
cạnh tranh yếu kém của các doanh nghiệp, các ngành hàng hoá và dịch vụ.
Nền kinh tế nước ta ở trình độ phát triển thấp đang trong q trình chuyển đổi
kinh tế thị trường mới cịn đang ở giai đoạn phát triển sơ khai, các yếu tố cơ
bản đồng bộ của thị trường chưa phát triển đều đủ…dẫn đến khả năng kinh
doanh và sức cạnh tranh của các chủng loại hàng hoá dịch vụ của các doanh
nghiệp Việt Nam rất kém. Thị trường tiêu thụ hàng hoá của ta trên thế giới rất
hạn hẹp, dễ bị thơn tính. Trong bối cảnh thế giới tự do bn bán, tự do đầu
tư, Việt Nam ở vào thế yếu, rất dễ trở thành nơi tiêu thụ hàng hoá ở nước
ngồi. Muốn có thị trường tồn cầu thì Việt Nam phải mở cửa thị trường nội
địa cho các nước. Đây là thách thức lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam, bởi
các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh kém.

Hội nghị lần thứ IV, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X chỉ rõ: “Nước
ta phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh
nghiệp và quốc gia, các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh
tranh với sản phẩm và doanh nghiệp nước ngồi khơng chỉ trên thị trường thế
giới mà ngay trên thị trường trong nước. Chính phủ ta phải cạnh tranh với
chính phủ các nước trong cải thiện mơi trường và thu hút đầu tư” [14, 42-43].
Thứ hai, sự phân phối lợi ích trên thế giới và trong từng nước diễn ra
không đồng đều. Trong hội nghị lần thứ IV sau Chấp hành Trung ương khoá


12
X: “Gia nhập tổ chức thương mại thế giới, tham gia vào tiến trình tồn cầu
hố, kinh tế có thể làm tăng thêm sự phân phối lợi ích khơng đồng đều giữa
các khu vực, các ngành, các vùng, miền đất nước: có những bộ phần dân cư ít
được hưởng lợi, thậm chí cịn bị tác động tiêu cực; một bộ phận doanh nghiệp
có thể bị phá sản thất nghiệp tăng lên; khoảng cách giàu nghèo, mức sống
giữa nông thôn và thành thị có thể dỗng ra hơn, từ đó có thể dẫn đến những
yếu tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến định hướng xã hội chủ nghĩa
của đất nước” [14, 43].
Ngồi ra sự phân hố giàu- nghèo ngày càng mạnh hơn. Những nước có
nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong một quốc gia, một bộ
phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, khoảng cách giàu- nghèo ngày càng lớn.
Nhưng với những nỗ lực ngày càng lớn của Đảng và Nhà nước đã có những
chính sách phúc lợi và an ninh xã hội đúng đắn trong suốt thời gian từ khi là
thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong năm 2007
chúng ta thu được kết quả ấn tượng về xố đói giảm nghèo. Đưa tỷ lệ hộ
nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007” [25, 55]. Tuy nhiên,
giá cả tăng mạnh cùng với thiên tai, dịch bệnh đã làm cho đời sống một bộ
phận cư dân đặc biệt là nơng dân khó khăn hơn.
Thứ ba, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động

của thị trường các nước sẽ tác động đến thị trường các nước sẽ tác động đến
thị trường trong nước. Do vậy địi hỏi chúng ta có chính sách vĩ mô đúng đắn.
Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường khi tham gia WTO, có thể một
số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước sẽ phụ thuộc mạnh mẽ vào các diễn
biến trên trường quốc tế và khu vực vấn đề tỷ giá lạm phát, cán cân thanh
tốn, ngân sách thiếu hụt…sẽ có những diễn biến phức tạp, đòi hỏi sự chỉ đạo
chặt chẽ và uyển chuyển . Mặc dù đã có những nỗ lực để hồn thành khn
khổ pháp lý liên quan đến kinh tế thương mại. Việt Nam vẫn còn nhiều việc
phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy chế
về cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập nhằm thúc đẩy tính năng
động và khả năng thích ứng nhanh - yếu tố quyết định sự thành bại của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí nguồn lực. Đồng thời, những cam kết mở


13
cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hồn thiện khơn
khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài.
Thứ tư, nhiều vấn đề mới đặt ra trong việc bảo vệ mơi trường, bảo vệ
an ninh quốc gia, gìn giữ bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền. Trong quá trình hội
nhập chúng ta cũng chịu nhiều những tác động này bởi lẽ xuất phát từ
công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta tiến hành đổi mới toàn diện trên
tất cả mọi mặt, mọi lĩnh vực. Chính vì vậy, trong khi đổi mới chúng ta lại
phải có những chủ trương và biện pháp làm thế nào vừa phối hợp với xu
hướng chung của nhân loại nhưng cũng phải tôn tạo và phát huy những
giá trị truyền thống văn hoá dân tộc. Nhưng khi hội nhập chúng ta khơng
tránh khỏi những tác động mặt trái của tồn cầu hoá, như Hội nghị lần thứ
tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã nêu lên: “Cùng với thách
thức trong lĩnh vực kinh tế, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những thách
thức lớn đối với chế độ chính trị, vai trị lãnh đạo của Đảng và việc giữ

vững định hướng xã hội chủ nghĩa, việc bảo đảm quốc phịng, an ninh, giữ
gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển
bền vững đất nước” [14, 44]. Đây cũng là những vấn đề hết sức quan
trọng nó có thể dẫn đến những vấn đề tồn vong của chế độ như mất dần
định hướng chính trị, cho nên Đảng và Chính phủ phải thường xuyên tổng
kết đánh giá tình hình khu vực và thế giới, tổng kết từng giai đoạn trong
hội nhập để có những bước đi đúng đắn và phù hợp, đưa nước ta hội nhập
ngày càng sâu rộng và bền vững.
Gia nhập WTO vừa có cơ hội lớn vừa phải đối đầu với những thách thức
không nhỏ. Cơ hội không tự nó biến thành lực lượng vật chất trên thị trường
mà tuỳ thuộc vào khả năng vận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là
sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đất nước cịn tuỳ thuộc vào nỗ lực
của chúng ta. Nhưng cả cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến”
mà luôn vận động chuyển hoá. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế lực mới để
vượt qua và đẩy lùi nguy cơ, thách thức tạo cơ hội lớn hơn. Chính từ những


14
vấn đề đặt ra ở trên mà yêu cầu khách quan đòi hỏi Việt Nam phải hội nhập
vào nền kinh tế nói chung và WTO nói riêng.
1.2. Chủ trương của Đảng về Việt Nam gia nhập tổ chức Thương
mại thế giới (WTO)
1.2.1. Quan điểm của Đảng về Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO)
Nhận thức rõ vai trò và sự cần thiết của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước tạo cơ sở vật chất kỹ thuật
cho xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời căn cứ vào
diễn biến tình hình thế giới và trong nước có những thay đổi. Trên thế giới
các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn
tại hồ bình, các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp

tác và liên kết khu vực. Liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh
vực hoạt động khác ở trong nước bên cạnh những thành tựu của 10 năm đổi
mới đã và cho ta thế và lực mới, đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội tiếp tục đi lên, nhiều tiền đề cần thiết cho CNH, HĐH được tạo ra,
quan hệ nước ta và những nước trên thế giới được mở rộng…thì chúng ta
cũng cịn phải đối mặt với những khó khăn không nhỏ như bốn nguy cơ mà từ
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá 7 (1/1994) chỉ ra (tụt hậu xa hơn về kinh tế, tệ
quan liêu tham nhũng, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, chiến lược “Diễn biến
hồ bình” của các thế lực thù địch). Từ những thay đổi của hồn cảnh của tình
hình thế giới và khu vực thay đổi như vậy nhưng Đảng ta vẫn khẳng định
quan điểm chủ trương chủ động hội nhập trong Đại hội VIII của Đảng: “Mở
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại” [6,
120], xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới. Đại hội
VIII chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở đa phương hoá và đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại, hướng mạnh vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu
bằng những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Trong xuất khẩu với
phương trâm tăng nhanh tỷ trọng hàng hoá qua chế biến (hạn chế xuất khẩu
thô). Nhập khẩu tập trung vào nguyên liệu các thiết bị công nghệ đáp ứng yêu


15
cầu CNH, HĐH đất nước. Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song
phương và đa phương với các nước, các tổ chức khu vực và thế giới trên
nguyên tắc tập trung độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không
can thiệp vào công việc nội lực của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Ngày 18/11/1996 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 01/NQ - TW về: Mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996 - 2007. Nghị quyết
chỉ ra nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp, cơ chế, chính sách chủ yếu về
phát triển kinh tế đối ngoại thời kỳ 1996 - 2000. Vạch ra lộ trình với những
bước đi cụ thể để tham gia đầy đủ vào tổ chức APEC và WTO . Triển khai

thực hiện Nghị quyết số 01/NQ - TW của Bộ Chính trị về mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 5 năm 1996 - 2000. Trong lúc đó cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực bùng phát. Trong nước thiên tai liên tục xảy
ra gây thiệt hại to lớn về người và tài sản. Do đó, tốc độ tăng trưởng GDP
giảm rất mạnh.
Ngày 29/12/1997. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ Tư khố
VIII về: “Tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phấn
đấu hồn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm 2000”. Nghị quyết nêu rõ
nội dung nhiệm vụ của công tác kinh tế đối ngoại và hội nhập đến năm 2000
là: “Điều chỉnh chính sách sao cho hợp lý sản xuất trong nước theo tinh thần
bảo hộ có chọn lọc; có điều kiện và có thời hạn, phù hợp với tiến trình hội
nhập quốc tế” [7, 57] Nghị quyết cũng nêu rõ phương hướng Hội nhập kinh tế
của ta là: “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định
Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO” [7,60].
Tồn cầu hố kinh tế đang là xu hướng khách khách quan, hồ bình và
hợp tác phát triển cũng là xu thế và là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân
tộc. Hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết trên con đường hội nhập và phát
triển. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn xu thế tồn cầu hố kinh tế hiện nay,
trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt Đảng ta đã kịp thời đề ra và ngày
càng cụ thể hoá đường lối hội nhập kinh tế đúng đắn sáng tạo. Đại hội IX
(4/2001) của Đảng khẳng định trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, đồng thời


16
tranh thủ ngoại lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững.
Đại hội cũng chỉ rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo
tinh thần phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc
lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an

ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ môi trường” [10,120].
Đại hội xác định khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh
tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hanh động cụ thể, phát huy tính
chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp, cụ thể hoá nghị quyết
Đại hội IX của Đảng ngày 27/11/2001 Bộ Chính trị cũng ra Nghị quyết
chuyên đề về hội nhập kinh tế quốc tế số 07- NQ/TW trong đó nêu rõ: “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn
công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nêu ra
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001 đến năm 2010 và kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005” [11,251]. Hội nhập kinh tế thắng lợi, thực sự đáp
ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Nghị quyết còn chỉ ra những quan điểm chỉ đạo trong quá trình hội nhập.
Một là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc và bản sắc văn hố dân tộc, bảo vệ môi trường.
Hai là, hội nhập kinh tế, quốc tế là sự nghiệp của tồn dân: Trong q
trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của tồn xã hội trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Ba là, hội nhập kinh tế, quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh
và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa khơng ít thách thức do đó cần tỉnh
táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc ứng xử tính hai mặt của hội nhập tuỳ
theo đối tượng, vấn đề, trường hợp cụ thể, vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ,
thụ động, vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nơn nóng.


17
Bốn là, nhận thức đầy đủ những đặc điểm của nền kinh tế nước ta, từ đó đề

ra kế hoạch và lộ trình hội nhập hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của
đất nước, vừa đáp ứng các quy định của tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham
gia, tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển và các nước có
nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp, sang kinh tế thị trường.
Năm là, kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với u cầu
giữ vững an ninh, quốc phịng thơng qua hội nhập để tăng cường sức mạnh
tổng hợp của quốc gia nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, đồng
thời cảnh giác với những mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ
“Diễn biến hồ bình” đối với nước ta.
Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm hội nhập kinh tế. Nghị quyết 07 NQ/TW khoá IX đã xác định nhiệm vụ cụ thể. Trong đó nhiệm vụ thứ VIII
chỉ rõ: “Tích cực tiến hành đàm phán để gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO) theo các phương án và lộ trình hợp lý với hồn cảnh nước ta là một
nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang trong quá trình chuyển đổi cơ
chế kinh tế. Gắn kết quá trình đàm phán với quá trình đổi mới hoạt động kinh
tế ở trong nước” [11,261].
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, ngày 14/3/2001 Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành quyết định số 37/QĐ - TTg về “chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 07 NQ/TW ngày 27/11/2007 của Bộ Chính trị về
“hội nhập kinh tế quốc tế” mang tính tổng thể với sự tham gia với đầy đủ bộ
ngành, với nhiều nội dung quan trọng trong đó có: Xây dựng, sửa đổi, bổ sung
pháp luật, cơ chế, chính sách kinh tế thương mại; chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
nâng cao khả năng cạnh tranh, tổng hợp và hoàn thiện chiến lược tổng thể về hội
nhập kinh tế và tổ chức thương mại thế giới (WTO)…Ngày 11/11/2002, Uỷ
ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đã được kiện toàn lại theo quyết định
số 1037- QĐ.TTg để giúp Thủ tướng Chính phủ điều hành chương trình hành
động, đồng thời các bộ ngành, địa phương cũng đã xây dựng các đề án
chuyên ngành nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả nghị quyết của Đảng cũng
như chương trình hành động của Chính phủ.



18
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX (1/2004)
trên cơ sở kiểm điểm việc thực hiện giữa nhiệm kỳ Đại hội IX. Đề ra những
nhiệm vụ giải pháp thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX những năm tiếp
theo. Hội nghị lần thứ IX chỉ rõ: “Chủ động và khẩn trương hơn trong hội
nhập kinh tế quốc tế thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương song
phương nước ta đã được chuẩn bị tốt các điều kiện để sớm gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO)” [12,189- 190]. Tiến hành xây dựng chiến lược
tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế ở các cấp toàn cầu, khu vực và song phương,
vừa đẩy nhanh hợp tác đa phương với các đối tá có vị thế quan trọng và lâu
dài. Giành thế chủ động trong hội nhập, sửa đổi văn bản pháp luật cho phù
hợp với yêu cầu gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Tăng nhanh năng lực
cạnh tranh, giảm dần theo lộ trình bảo hộ bằng thuế nhập khẩu, xây dựng hệ
thống các biện pháp bảo lộ phí thuế phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế.
Sau hơn 3 tháng khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị
quyết số 08 - NQ/TW về “một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của tổ
chức thương mại thế giới” cũng như chương trình hành động của chính phủ,
cán bộ, ngành hữu quan đã tích cực triển khai cơng việc, kể cả việc điều chỉnh
cơ chế chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện những cam kết
khi gia nhập WTO. Cho tới nay các nước có chân trong WTO đều thừa nhận
thái độ nghiêm chỉnh của nước ta trong việc thực thi nghĩa vụ của một thành
viên. Có được những kết quả đáng khích lệ như vậy do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau. Trong đó có một nguyên nhân hết sức quan trọng đó là sự lãnh
đạo kịp thời của Đảng. Ngay sau khi Việt Nam là thành viên chính thức của
WTO trong thời gian ngắn. Trong nghị quyết 08 - NQ/TW Ban Chấp hành
Trung ương đã nêu lên những quan điểm và những chủ trương chính sách lớn
nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa nền kinh tế nước ta phát triển
nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.



19
Về quan điểm Nghị quyết 08 - NQ/TW mà Hội nghị lần thứ Tư, Ban
Chấp hành Trung ương khoá X nêu ra quan điểm chỉ đạo chung: “Giữ vững
độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” [14,45]. Bên cạnh đó nghị quyết cũng nêu ra
những quan điểm cụ thể như coi hội nhập kinh tế là cơng việc của tồn dân,
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu
quả của tăng trưởng, gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao các nguồn
lực; Đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp
với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước; giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà nước, mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Từ những quan điểm cụ thể ấy mà trong thời
gian ngắn chúng ta phát huy được sức mạnh tổng hợp và đạt được những kết
qủa hết sức to lớn đó là tổng mức lưu chuyển ngoại thương 10 tháng đầu năm
đạt 87 tỷ USD, tăng 24,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch
xuất khẩu đạt 39,1 tỷ, tăng 186% so với cùng kỳ năm 2006. Đáng chú ý nhờ
thoát khỏi chế độ hạn ngạch, giá trị hàng dệt may xuất khẩu tăng 31,1%, đạt
mức 6,4 tỷ, gần ngang với dầu khí…dịng vốn trực tiếp và gián tiếp từ nước
ngoài tăng đột biến và hồn tồn có cơ sở để nói tới một làn sóng đầu từ mới
để vào Việt Nam. Nếu tính cả vốn đăng ký mới và bổ sung thì đầu tư trực tiếp
trong 10 tháng đầu năm lên tới 11,26 tỷ tăng 36,4%, một mức tăng chưa từng
có,t rong đó khơng ít dự án có giá trị hàng tỷ USD, lượng du khách nước
ngoài tới Việt Nam cũng tăng tới 17,8% đạt 3,5 triệu lượt khách, trong đó
lượng khách từ những nước có thu nhập cao tăng khá cao.
Tất cả những kết quả ấy góp phần khơng nhỏ vào thành tựu phát triển
kinh tế - xã hội mở ra triển vọng khá thuận lợi cho việc sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng nước có thu nhập thấp.

Những thành tựu này cũng đâu dấu sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn về tổng quan quá trình gia nhập WTO của nước ta


20
và sau khi là thành viên chính thức của tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu
này.
1.2.2. Phương hướng, giải pháp về Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới (WTO)
* Về trao đổi thương mại
- Nội dung về quá trình trao đổi thương mại:
Các lĩnh vực hội nhập theo thoả thuận WTO đã được mở rộng phạm vi áp
dụng từ hàng hoá sang thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Hiện WTO chi phối
các chính sách thương mại của các khu vực và quốc gia chiếm tới 85% thương
mại hàng hoá và 90% thương mại dịch vụ thế giới, điều tiết cả 4 lĩnh vực:
Thương mại hàng hoá, 11 ngành và 155 phân ngành dịch vụ đầu tư liên quan
đến thương mại và sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Tuy nhiên, WTO
vẫn chưa đạt được sự thống nhất hoàn toàn bởi các phiên đàm phán sau vòng
Urugoay đều thất bại do những mâu thuẫn giữa các nước phát triển và đang phát
triển còn hết sức gay gắt, trong đó nổi bật nhất là các nước phát triển chưa chịu
mở cửa thị trường các sản phẩm nông nghiệp cho các nước đang phát triển trong
khi họ lại đòi các nước đang phát triển phải nhanh chóng mở cửa thị trường các
lĩnh vực cũng như thực thi nghĩa vụ bảo vệ quyền về sở hữu trí tuệ.
Đối với Việt Nam, việc đàm phán gia nhập WTO cũng thể hiện quyết tâm
của mình trong hội nhập đầy đủ vào tổ chức này trên các lĩnh vực từ thương mại
hàng hoá, dịch vụ, đầu tư đến sở hữu trí tuệ. Dù với tư cách là một nước đang
phát triển đi sau nhưng những sức ép về mở cửa thị trường trong các lĩnh vực hết
sức gay gắt. Biểu hiện cụ thể và rõ nét trong quy định các lĩnh vực hội nhập của
Việt Nam là Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ. Với 7 chương trong
bản Hiệp định, Việt Nam đang thực hiện hội nhập hầu như toàn bộ các lĩnh vực

của nền kinh tế quốc dân có liên quan đến thương mại từ cơng nghiệp, dịch vụ
đến y tế, giáo dục đào tạo…
- Quá trình trao đổi thương mại
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với Mỹ được bắt đầu từ khi ba nước
bình thường hoá quan hệ (năm 1994, khi Mỹ xoá bỏ cấm vận với Việt Nam);


21
nhưng chỉ thực sự phát triển khi Chính phủ hai nước ký kết bản Hiệp định
thương mại song phương - BTA (13/07/2000) và chính thức có hiệu lực thực
hiện khi Quốc hội hai nước phê chuẩn (10/12/2001). Việc BTA đi vào thực
hiện đã mở ra bước tiến mới trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
của Đảng và Nhà nước ta nói chung, củng cố thêm một bước trong q trình
bình thường hố quan hệ Việt - Mỹ, trong đó vấn đề trọng tâm là phát triển
quan hệ thương mại song phương.
Trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, kể từ khi hai nước bình
thường hố (11 - 1991) đặc biệt là việc cùng nhau xác định “láng giềng hữu
nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt”, quan hệ Việt - Trung đã có những
bước phát triển nhanh chóng cả về chính trị, đối ngoại và kinh tế. Về kinh tế,
Trung Quốc đang và tiếp tục trở thành đối tác thương mại nhiều tiềm năng
của Việt Nam, là nhà đầu tư có nhiều cơ hội thực hiện ở Việt Nam. Đến năm
2003 hai nước ký kết 41 Hiệp định và thoả thuận ở cấp Nhà nước, trong đó có
các Hiệp định tạo hành lang pháp lý cơ bản cho quan hệ thương mại song
phương.
Quan hệ thương mại với Nhật Bản: Trong những năm gần đây phát triển
khá nhanh. Việt Nam thường xuyên xuất siêu sang Nhật Bản, do tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu ln đạt mức cao (trung bình từ 1992 - 1998 là 40% năm
trong khi nhập khẩu tăng chậm (trung bình 1991- 1998 chỉ tăng 5%). Nhưng
từ năm 2002 trở lại đây, Việt Nam từ nước xuất siêu chuyển sang nhập siêu

với Nhật mà lý do chủ yếu là các doanh nghiệp Việt Nam trú trọng đến thị
trường Mỹ do tác động của BTA Việt Mỹ và thị trường Trung Quốc nổi trội.
Bên cạnh đó quan hệ thương mại Việt Nam với các quốc gia và tổ chức
khác cũng được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế.
- Những cơ hội và thách thức trong trao đổi thương mại
Trong trao đổi thương mại Việt Nam đang đứng trước những cơ hội rất
lớn:Một là chúng ta có thị trường trao đổi thương mại rất rộng mở. Hai là


22
chúng ta là nước phát triển sau nên chúng ta có nhiều điều kiện tiếp thu những
kinh nghiệm của những nước đi trước.Ba là, chúng ta có một thị trường trong
nước năng động, sáng tạo. Chính những cơ hội này sẽ là những thuận lợi lớn
nếu chúng ta biết tận dụng và phát huy tốt sẽ tạo nên những tiền đề rộng mở.
Bên cạnh đó chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức khơng
phải là nhỏ đó là: Những âm mưu các nước trên thế giới và khu vực, đứng đầu
là đế quốc Mỹ và thế lực thù địch gây sức ép trong chuyển hoá Việt Nam trên
lĩnh vực thương mại, sức ép trong cải cách mở cửa thị trường, Mỹ và các
nước tăng cường chuẩn bị lộ trình cho các doanh nghiệp của họ xâm nhập
nhiều vào lĩnh vực và khu vực kinh tế trọng điểm, nhạy cảm của Việt Nam.
* Về dịch vụ:
- Nội dung về hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ: Về cơ bản như BTA, trước
hết Cơng ty nước ngồi khơng được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức
chi nhánh , trừ khi điều đó được Việt Nam cho phép từng ngành cụ thể ngồi
ra cơng ty nước ngồi tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt
Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của cơng ty phải là người Việt Nam.
Việt Nam cũng cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần
trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng với tỷ lệ phải phù hợp với mức mở
cửa thị trường ngành đó, riêng ngân hàng Việt Nam chỉ cho phép ngân hàng

nước ngoài được mua tối đa 30% cổ phần. Ngoài ra Việt Nam còn thực hiện
cam kết của một số ngành như : Dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí, dịch vụ viễn
thơng, dịch vụ phân phối…
- Q trình hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ trong Hiệp định Thương mại
Việt - Mỹ (BTA), Việt Nam đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 ngành).
Trong thoả thuận gia nhập WTO, Việt Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính
theo phân ngành khoảng 110. Về mức độ cam kết, thoả thuận WTO đi xa hơn
BTA , nhưng không nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những
ngành nhạy cảm như báo kiểu phân phối, du lịch...Việt Nam giữ được mức độ
cam kết gần như BTA. Riêng viễn thơng, ngân hàng và chứng khốn để kết
thúc đàm phán, Việt Nam có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá


23
xa so với hiện trạng và phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt
cho các ngành này.
- Những cơ hội, thách thức trong dịch vụ:
Trong quá trình hội nhập quốc tế về dịch vụ Việt Nam đứng trước những
cơ hội có điều kiện phát triển rất tốt đó là: Nước ta đang phát triển và hội
nhập tồn diện trên tất cả mọi mặt, đặc biệt như dịch vụ viễn thơng, dịch vụ
chứng khốn, ngân hàng, bên cạnh đó thị trường dịch vụ trong nước lại đang
có tóc độ phát triển rất mạnh mẽ; và những dịch vụ trong nước phát triển thì
cũng chính là những ngành mà phù hợp với thế giới như viễn thông, ngân
hàng, điện tử, phân phối…
Nhưng trong lĩnh vực dịch vụ Việt Nam cũng gặp phải những thách
thức: Các công ty dịch vụ nước ngoài chỉ được phép hoạt động tại Việt Nam
trong các ngành công nghiệp đã chọn và ở một mức độ giới hạn phải đối mặt
với những hạn chế hành chính đáng kể trong khi hoạt động tại Việt Nam.
Ngồi ra cũng như trong lĩnh vực khác, luật pháp thiếu sự rõ ràng, nhận thức
xã hội về luật và quy định hiện hành bị hạn chế cũng gây trở ngại lớn cho sự

thâm nhập thị trường của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
* Về đầu tư
- Nội dung về hợp tác đầu tư:
Các lĩnh vực dự án đầu tư phải thực hiện theo hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh hoặc liên doanh với yêu cầu tỷ lệ góp vốn trong nước gồm: phát
thanh, truyền hình, sản xuất, xuất bản và phát hành các sản phẩm văn hoá, đầu tư
trong lĩnh vực ngân hàng, môi giới, kinh doanh, tiền tệ và các dịch vụ có liên
quan, khai thác và chế biến khoáng sản, xây dựng, lắp đặt, vận hành và bảo trì
mạng viễn thơng, xây dựng và vận hành cảng sơng, cảng biển, phịng khơng…
Các lĩnh vực mà Việt Nam có thể yêu cầu dự án đầu tư phải gắn với phát
triển nguồn nguyên liệu trong nước gồm: Chế biến giấy, dầu thực vật, sữa
đường, mía, chế biến gỗ.


24
Các lĩnh vực mà Việt nam có thể yêu cầu dự án đầu tư phải xuất khẩu từ
80% sản phẩm trở lên gồm: sản xuất xi măng, các loại sơn và sơn xây dựng,
các loại gạch ốp lát, sứ vệ sinh, nhựa PVC và các loại nhựa khác…
Các lĩnh vực duy trì chế độ cấp giấy phép gồm: (a) phát thanh, truyền
hình, sản xuất, xuất bản và phát hành các sản phẩm văn hoá, du lịch, vận tải
hàng hoá và hành khách đường bộ, đường hàng không…(b) các dự án thuộc
ngành điện lực, khai thác và chế biến khoáng sản, luyện kim, xi măng, hoá
chất…(c) các dự án sử dụng đất trồng lúa, đất đô thị từ 5ha trở lên. Đồng thời
quy định lộ trình thực hiện chế độ đăng ký giấy phép đầu tư thay thế cho chế
độ cấp phép đầu tư; các yêu cầu về vốn đầu tư cho các nhà đầu tư Mỹ.
- Quá trình hợp tác đầu tư:
Về đầu tư nước ngoài cho đến năm 2003 Việt Nam thu hút được 5.441
dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với số vốn đăng ký lên gần 46 tỷ USA và
hơn 22 tỷ USA vốn pháp định.
Về hình thức đầu tư, có 45% vốn đăng ký được thực hiện theo hình thức

liên doanh, 42% theo hình thức 100% vốn nước ngoài.
Về cơ cấu đầu tư, vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng chủ
yếu với 3625 dự án có tổng vốn đăng ký đạt 28.876 triệu USA, chiếm 63% số vốn
đăng ký đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế. Bên cạnh đó về quốc gia đầu tư
và cơ cấu vùng lãnh thổ cũng có sự thu hút đầu tư nước ngồi với số đồng vốn
lớn.
Về đầu tư trong nước: Trong những năm qua nhờ đổi mới hệ thống pháp
luật và cơ chế chính sách. Việt Nam huy động được nhiều nguồn vốn từ các
thành phần kinh tế đầu tư phát triển, kết quả giai đoạn 1995 - 2003 như: tính
theo giá đầu tư thực tế tổng vốn đầu tư xã hội tăng lên gấp 3 lần, tính theo giá
so sánh năm 1994 thì tổng số đầu tư xã hội tăng gấp hơn 1,5 lần.
Bên cạnh đóng góp vào mở rộng quy mô kinh tế với đẩy mạnh tốc độ
tăng trưởng trong những năm qua, các thành phần kinh tế đã đóng góp tích
cực vào việc giải quyết việc làm trong xã hội, đặc biệt vai trị của khu vực
kinh tế ngồi quốc doanh (trong 3 năm 2001 - 2003 các doanh nghiệp dân


25
doanh đã tạo thêm được hơn 1,5 triệu chỗ làm mới kể từ khi Luật Doanh
nghiệp có hiệu lực thực hiện từ năm 2000 đến nay).
- Những cơ hội và thách thức trong hợp tác đầu tư:
Trong những năm gần đây do đạt được những thành tựu của hơn 20 năm đổi
mới và kể từ khi bình thường hố quan hệ với Trung Quốc (1991) và Hoa Kỳ
(1995) Việt Nam có những cơ hội rất lớn : một là, chúng ta đang phát triển vì vậy
có nhiều dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng rất lớn như: cầu, đường, đầu tư về bưu
chính viễn thơng, hệ thống khai thác và lọc dầu; hai là, chúng ta lại có chế độ
chính trị ổn định là mơi trường rất thuận lợi cho thút hút đầu tư nước ngoài; ba là,
lực lượng lao động chúng ta đơng và trẻ lại có tay nghề cao , vì vậy đây là những
thuận lợi đồng thời là những cơ hội rất lớn thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhưng cùng với thuận lợi và cơ hội chúng ta cũng gặp phải những thách

thức không nhỏ là: Thách thức trong đảm bảo giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, sử dụng đầu tư để xoá bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, thực
hiện tư nhân hoá nền kinh tế; thách thức trong đảm bảo an ninh chính trị, từng
bước chiếm lĩnh các lĩnh vực, địa bàn kinh tế nhạy cảm của Việt Nam, tạo khả
năng gây khủng hoảng ở mức độ đàm phán khác nhau để thực hiện ý đồ của
họ…

Kết luận chương 1
Hội nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là xu thế khách quan,
ngày càng có nhiều nước tham gia mà Việt Nam khơng là ngoại lệ. Trong q
trình hội nhập chúng ta cũng có những cơ hội rất lớn, đó là những điều kiện
thuận lợi để Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào Tổ chức Thương
mại, với khu vực và nền kinh tế thế giới nói chung nhưng bên cạnh đó chúng


×