Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tài liệu môn Đạo đức công vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.28 KB, 41 trang )

PHẦN I. MỞ BÀI.
I.

LỜI NÓI ĐẦU.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội. Do đó khi nghiên cứu đạo đức nói
chung cũng như đạo đức công vụ cần xem xét dựa trên nền tảng chung của các
quan niệm về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp.
Hoạt động thực thi công việc của những người làm việc cho Nhà nước trên một
nghĩa rộng là hoạt động thực thi công vụ. Tuy nhiên, định nghĩa công vụ không
giống nhau giữa các nước.Do đó, hoạt động công vụ cũng có thể xem như một
“ dạng nghề nghiệp” và khi nghiên cứu đạo đức công vụ cũng cần phải dựa trên
những nền tảng chung về đạo đức .
PHẦN II. NỘI DUNG.

I.

KHÁI NIỆM ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ.
Đạo đức công vụ là một phạm trù tương đối rộng, bao hàm đạo đức, lối

sống, cách xử sự của cán bộ, công chức không chỉ trong các mối quan hệ xã hội
thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ công, đó là trong giao dịch
hành chính với tổ chức, công dân. Để công tác cải cách hành chính thực sự trở
thành động lực nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy hành chính
Nhà nước, việc xây dựng các quy định, quy chế chuẩn về trách nhiệm và đạo đức
công vụ là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, hơn ai hết bản thân cán bộ, công
chức phải tự rèn luyện, trau dồi và phải tự “vượt lên chính mình”.
Đạo đức công vụ là tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công
chức. Hồ Chủ Tịch đã nói: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành
của nhân dân”, “đày tớ là phục vụ nhân dân”. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn
không ít cán bộ, công chức giài quyết công việc cho dân theo kiểu “ban ơn”, “ban
phát”, tỏ thái độ quan liêu, hách dịh, cửa quyền, nhũng nhiễu …, trách nhiệm xử


lý công việc chưa cao, còn hiện tượng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, “ăn thật làm
giả” và người gánh chịu thiệt hại, hậu quả không ai khác chính là nhân dân. Tinh


thần, thái độ làm việc này hoàn toàn trái ngược với những chuẩn mực đạo đức
trong nền công vụ, đó là: thái độ cư xử đúng mực, lịch sự, nhã nhặn; thực hiện
nhiệm vụ với tinh thần tận tụy, nhiệt tình, trung thực, không vụ lợi, vun vén cá
nhân …
Pháp luật về đạo đức công vụ là một loại hình đạo đức mang tính áp dụng.nhưng
đó là loại hình đạo đức mang tính pháp lí rất cao- trong nhiều trường hợp nó là
những loại hình mang tính cưỡng bức, bắt buộc phải làm hoặc không được phép
làm.


II.
1.

Tùy từng giai đoạn khác nhau thì có những pháp luật cụ thể không giống

nhau.
NGUYÊN TẮC CHUNG ĐỂ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠO ĐỨC
CÔNG VỤ.
Thực trạng đạo đức cán bộ, công chức nhà nước hiện nay.

Trước hết, cần khẳng định đại bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức của
chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, cố gắng thực hiện và phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ
chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, chấp hành sự phân công của tổ chức, lối
sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và
chịu tác động phức tạp trong điều kiện chuyển đổi kinh tế - xã hội, nhưng đội

ngũ cán bộ, công chức đã góp phần đóng vai trò quyết định những thành tựu
của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả một số
cán bộ, đảng viên cao cấp thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, phai nhạt lý
tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về đạo
đức, lối sống. Một bộ phận cán bộ, công chức né tránh, thiếu bản lĩnh đấu tranh
với những hành vi quan liêu, tham nhũng, tiêu cực. Một số cán bộ, công chức
nhà nước, chưa thực sự lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu, làm
thước đo chủ yếu nhất cho mức độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ của mình.
Quan hệ của họ với nhân dân thậm chí còn mang dấu ấn cai trị theo kiểu ban
phát, thiếu bình đẳng, thiếu tôn trọng. Từ đó, dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa
quyền, sách nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân và lợi dụng chức trách, thẩm
quyền được Nhà nước và nhân dân giao phó để nhận hối lộ, tham nhũng, buôn
lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu chuẩn đích thực của người cán bộ, rơi


vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng. Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII,
nhận định: "Một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất về đạo đức, lối sống, lợi
dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của
công; quan liêu, ức hiếp dân, gia trưởng độc đoán; có tham vọng cá nhân, cục
bộ, kèn cựa địa vị, cơ hội, kém ý thức tổ chức kỷ luật, phát ngôn và làm việc
tùy tiện, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng"(3).
Đáng chú ý là số lượng cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật và truy cứu
trách nhiệm hình sự, trong đó có cả một số cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà
nước, trong những năm gần đây ngày càng tăng. Điều đó đang làm xói mòn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng
và niềm tin của nhân dân đối với chế độ.
Thực trạng của những khuyết, nhược điểm về phẩm chất đạo đức của
cán bộ, công chức trên đây có phần do nguyên nhân khách quan, song chủ yếu
do những nguyên nhân chủ quan. Không ít cán bộ, công chức còn xem thường

những chuẩn mực đạo đức, nhân cách, nên thiếu nghiêm khắc với bản thân,
không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng mình. Cơ chế quản lý, kiểm tra, giám
sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt động
của cán bộ, công chức còn hạn chế, chưa thường xuyên, nghiêm túc và thiếu
đồng bộ. Việc xử lý các vi phạm đạo đức của cán bộ, công chức chưa nghiêm
đã dẫn đến hạn chế kết quả răn đe, giáo dục.
Công tác giáo dục đạo đức chậm được đổi mới: nội dung giáo dục chưa
cụ thể, sát hợp với từng đối tượng, còn giáo điều, chủ quan, phiến diện, duy ý
chí, phi thực tế, thiếu cơ sở khoa học; hình thức giáo dục đơn điệu, qua loa đại
khái hoặc phô trương hình thức, dễ gây nhàm chán. Do đó, hiệu quả giáo dục
đạo đức chưa cao, thậm chí có trường hợp phản tác dụng. Khi đề cập đạo đức
thì coi nhẹ hoặc quên tài năng, nhưng khi cần nhấn mạnh tài năng của người
cán bộ thì lại có biểu hiện coi nhẹ đạo đức, coi thường lòng tốt, phẩm hạnh một
cách phiến diện, cực đoan.

2.

Sự cần thiết điều chỉnh đạo đức công vụ bằng pháp luật.

Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cán bộ, công chức cũng như đạo
đức công vụ được “pháp luật hóa” ngày càng nhiều trong pháp luật. Đây cũng là sự
thừa nhận chính thức về tính đúng đắn khách quan, hợp lý của các quan niệm về
đạo đức cán bộ, công chức, đạo đức công vụ và cũng là cách thức hữu hiệu để Nhà
nước bảo vệ, củng cố những giá trị đạo đức cán bộ, công chức và đạo đức công vụ,
vốn hình thành và được củng cố qua nhiều thế hệ trước sự tác động tiêu cực của


các quy luật kinh tế thị trường.
Giữa pháp luật với đạo đức công vụ có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn
nhau, pháp luật như là phương tiện để thể chế hóa đạo đức công vụ. Ở đây thể hiện

mối quan hệ giữa phạm trù nội dung và hình thức, pháp luật là hình thức pháp lý
của đạo đức công vụ, pháp luật về công vụ như là “vỏ bọc, áo khoác pháp lý” của
đạo đức công vụ. Đạo đức công vụ thể hiện, xuyên suốt toàn bộ nội dung pháp luật
công vụ.
Việc ghi nhận các giá trị đạo đức công vụ trong các văn bản pháp luật dựa
trên những lý do căn bản sau đây:
Thứ nhất, cùng với quá trình ra đời và hình thành nhà nước là sự hình
thành đội ngũ những người phục vụ trong bộ máy nhà nước để thực hiện các công
việc nhà nước ( mà ngày nay được gọi với thuật ngữ công vụ). Khi thực hiện các
công việc nhà nước luôn làm phát sinh hai loại quan hệ: quan hệ giữa những người
phục vụ nhà nước với nhau - quan hệ bên trong nền công vụ và quan hệ giữa họ
với dân cư - quan hệ bên ngoài của nền công vụ, đồng thời trong mối quan hệ đó
bộc lộ cách ứng xử, thái độ, hành vi của những người thực thi công việc nhà nước.
Để bảo đảm tính thống nhất trong hành vi, cách xử sự, thái độ của những người
phục vụ trong bộ máy nhà nước, không còn cách nào khác là nhà nước phải đặt ra
những quy tắc mang tính bắt buộc chung, hoặc đối với những đối tượng nhất định đó chính là pháp luật.
Thứ hai, công dân trước khi tham gia vào công vụ, ở họ đã định hình các
quan niệm đạo đức của người cán bộ, công chức, đạo đức công vụ trong chính thể
mà họ phục vụ. Những quan niệm đó họ tiếp nhận từ xã hội, từ thế hệ những người
đi trước, từ những người thân trong gia đình, trường học hoặc qua quá trình tự
nhận thức mà có. Chính vì lẽ đó mà mỗi người lại có những quan niệm, nhận thức
khác nhau về đạo đức công vụ, do đó không thể mang vô số những quan niệm khác
nhau đó vào công vụ nhà nước. Vì vậy, cần phải có sự thể chế hóa các quan niệm,
quy tắc có tính phổ biến mà con người nhận thức được và được thừa nhận thành
các quy tắc chính thống để áp dụng chung trong công vụ của cán bộ, công chức.
Thứ ba, đạo đức công vụ, dù được thể chế hóa hay chưa, đều được bảo đảm thực
hiện bởi lương tâm, sự tự giác của cán bộ, công chức.Đây là sức mạnh vật chất từ
bên trong của nó, mà pháp luật nhiều khi lại không có được. Ví dụ, nhà nước quy
định “phải khai báo, nộp lại những quà biếu”, việc nộp lại hay không nộp lại tuỳ
thuộc vào lương tâm đạo đức, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Tuy nhiên

không phải lúc nào cán bộ, công chức cũng tự giác thực hiện các nguyên tắc, quy


tắc đạo đức công vụ, do đó, nhà nước phải thể chế hóa thành pháp luật, thành
những quy tắc bắt buộc chung và bảo đảm cho những quy tắc đó được thực hiện
trên thực tế bằng các biện pháp giáo dục, thuyết phục, tổ chức, pháp lý khác nhau
và trong một số trường hợp bằng sức mạnh của công lực.
Thứ tư, luôn có sự xuống cấp, xói mòn đạo đức, sự tha hoá của một bộ phận cán
bộ, công chức trong thực thi công vụ và trong đời sống xã hội. Nhiều hiện tượng
tiêu cực phát sinh trong các cơ quan công quyền như: lãng phí của công, sử dụng
tài sản công không đúng mục đích, lạm dụng chức vụ, quyền hạn để kiếm lợi cho
cá nhân... Tình trạng tham nhũng trong cơ quan công quyền hiện nay ở nước ta đã
không còn là cá biệt, mà trở nên có tính phổ biến, xảy ra ở nhiều cấp, nhiều
ngành.Tình trạng “mua quan, bán tước” tưởng chừng chỉ có trong thời phong kiến,
thì nay đã trở thành câu chuyện mà người ta bàn luận khá sôi nổi trong các cơ quan
nhà nước, các tổ chức công.Hiện tượng này rất khó nhận diện rõ vì nó được “người
bán và người mua” bao bọc, che đậy rất kỹ.Đây là sự biểu hiện của tham nhũng
chính trị, nếu xảy ra trên quy mô lớn sẽ rất nguy hiểm cho xã hội. Vậy cái gì điều
chỉnh những hành vi, cách xử sự này? Ở đây có thể nói, các quy tắc đạo đức không
còn đủ sức mạnh, không còn khả năng để điều chỉnh nữa, mà cần phải dựa vào
pháp luật, nhờ vào sức mạnh có tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ nói trên bằng cách cấm việc thực hiện các hành vi, đặt các chế
tài để trừng phạt đối với những cá nhân, tổ chức đã thực hiện những hành vi bị cấm
đó và buộc phải thực hiện các hành vi luật định.
Thứ năm, sự nhận thức, ý thức có tính vượt trước của các nhà làm luật về nhu cầu
cần phải ghi nhận các giá trị đạo đức, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức trong
các quy phạm pháp luật. Khi các quy phạm đạo đức cán bộ, công chức, đạo đức
công vụ được lồng vào các quy phạm pháp luật thì các quy phạm đó sẽ có sức sống
lâu bền, được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện hơn. Chính vì vậy, mà các nhà
lập pháp đã ý thức được cần phải ghi nhận các quy tắc đó vào pháp luật.

Ở nước ta, các nguyên tắc, ý niệm, suy nghĩ, các chuẩn mực đạo đức cách
mạng - đạo đức cán bộ, công chức được hình thành và phát triển từ khi có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa và được giữ gìn, lưu truyền đến ngày nay. Vì lẽ đó, để khơi dậy
truyền thống đạo đức cách mạng đã hình thành, phát triển và cần được phát huy
trong điều kiện mới, trong những năm gần đây, cả xã hội Việt Nam dấy lên phong
trào “Học tập, rèn luyện theo gương đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây thực sự
là một cuộc sinh hoạt chính trị, đạo đức rộng lớn nhất từ trước tới nay ở nước ta


nhằm khơi dậy truyền thống đạo đức của cán bộ, công chức và mọi tầng lớp dân
cư.

3.

Nguyên tắc chung xây dựng pháp luật về đạo đức công vụ.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân và tiến hành cải cách hành chính nhà nước, vai trò của đạo đức công
vụ là hết sức quan trọng. Do đó, Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện
các chuẩn mực đạo đức - pháp lý cho hành vi công chức trong hoạt động công vụ
nhằm xây dựng một nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh
bạch, hiệu quả”.Cần đặc biệt chú trọng mối quan hệ mật thiết giữa quy phạm pháp
luật và các quy phạm đạo đức.Ở chừng mực nào đó, cần thiết phải thể chế hóa
những quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm pháp luật. Mặt khác,
coi việc xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của cán bộ,
công chức có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và răn đe cán bộ, công chức, đồng
thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước, vào pháp luật.Những nguyên
tắc đạo đức trong nền công vụ là cơ sở cần được nghiên cứu để luật hóa. Có thể chỉ
ra những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, tiêu chuẩn đạo đức cần được phản ánh trong một khuôn khổ pháp lý. Cơ
sở pháp lý là nền tảng để đưa ra những nguyên tắc và tiêu chuẩn áp đặt tối thiểu
đối với hành vi của mọi công chức. Luật pháp có thể đưa ra những giá trị căn bản
của nền công vụ và tạo ra khuôn khổ hướng dẫn, kiểm tra, kỷ luật và truy tố.
Những tiêu chuẩn đạo đức công vụ đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp: Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán
bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi
biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng”. Điều 12 Hiến pháp năm
1992 nhấn mạnh quan điểm Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời
khẳng định: các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Các quy định này của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
phản ánh bản chất, nguyên tắc của nền công vụ Việt Nam, đồng thời là những yêu
cầu đòi hỏi đối với mọi cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Người


cán bộ, công chức không chỉ có nghĩa vụ hoàn thành các yêu cầu công vụ, mà còn
phải có thái độ đúng đắn khi quan hệ với nhân dân trong công vụ. Các quy định
này của Hiến pháp là những nguyên lý căn bản trong ứng xử của cán bộ, công chức
trong quan hệ với công dân khi tiếp xúc, giải quyết các công việc của công dân,
của tổ chức.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, nhiều văn bản quy phạm pháp luật tiếp theo đã
cụ thể hoá về đạo đức công vụ. Trước hết, có thể kể đến Luật Phòng, chống tham
nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh Cán bộ, công chức và
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác .Để pháp luật điều chỉnh một cách đầy đủ,
toàn diện các quan hệ công vụ, cần phải thường xuyên rà soát, bổ sung, ban hành
mới các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ công vụ, đặc biệt là việc ban
hành Luật Công vụ (Luật Công vụ chứ không phải Luật Cán bộ, công chức). Trong

Luật Công vụ cần phải có những phần quy định về đạo đức công vụ.Trên cơ sở
những quy định đạo đức công vụ trong Hiến pháp, các chuẩn mực đạo đức cán bộ
“Trí - Tín - Nhân - Dũng - Liêm; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” phải được
thể chế hóa thành pháp luật.
Thứ hai, tiêu chuẩn đạo đức trong nền công vụ phải rõ ràng. Công chức cần
biết những nguyên tắc, tiêu chuẩn căn bản mà họ cần tuân thủ trong công việc
và đâu là giới hạn của các hành vi có thể được chấp nhận. Cần xây dựng và ban
hành ngay bộ quy tắc ứng xử, buộc các công chức khi thực thi nhiệm vụ phải tuân
thủ đúng những nguyên tắc hành vi đạo đức công chức đó, tránh những hành vi
lệch chuẩn. Đó cũng là công cụ để đánh giá, giám sát các hành vi trong khi thực thi
công vụ của đội ngũ CBCC. Mỗi công chức đều phải có ý thức tổ chức kỷ luật,
chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan quan, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
Phải có quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức được làm hoặc không
được làm, công khai các lợi ích của công chức, có chế tài xử phạt nghiêm các hành
vi vi phạm đạo đức công vụ, tùy theo mức độ vi phạm, kể cả truy cứu trách nhiệm
hình sự. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, kiểm soát nội bộ chặt chẽ nhằm
phát hiện các nguy cơ dẫn đến tiêu cực, tham nhũng.
Tất cả các quy định này của pháp luật là cơ sở pháp lý để điều chỉnh hành
vi, cách xử sự của cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Thông
qua đó, tạo nên thói quen chấp hành pháp luật, thói quen trong thực hiện bổn phận,
nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ, công chức. Chính vì lẽ đó, pháp luật là cơ sở
pháp lý cho việc hình thành đạo đức công vụ và đánh giá đạo đức công vụ.
Thông qua sự điều chỉnh của pháp luật đối với đạo đức công vụ, có thể nhận thấy
một số điều sau đây: pháp luật là công cụ, phương tiện để ghi nhận và bảo vệ đạo
đức công vụ; pháp luật là nhân tố điều chỉnh bên ngoài đối với hành vi công vụ,
còn đạo đức công vụ là sự điều chỉnh từ bên trong, nội tâm cán bộ, công chức


trong hoạt động công vụ; sự điều chỉnh của pháp luật đối với đạo đức công vụ thể
hiện mối liên hệ của pháp luật đối với đạo đức công vụ.

Thứ ba, công chức cần biết rõ quyền và nghĩa vụ của họ khi phát hiện những hành
động sai lầm. ; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp
luật trong cơ quan. Hoàn thiện cơ chế quản lý cán bộ, công chức, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, ngăn ngừa và xử phạt sự vi phạm đạo đức công
vụ. Phải có quy định rõ, cụ thể các hành vi cán bộ, công chức được làm hoặc
không được làm, công khai các lợi ích của công chức, có chế tài xử phạt nghiêm
các hành vi vi phạm đạo đức công vụ, tùy theo mức độ vi phạm, kể cả truy cứu
trách nhiệm hình sự. Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ, kiểm soát nội bộ chặt
chẽ nhằm phát hiện các nguy cơ dẫn đến tiêu cực, tham nhũng. Hoàn thiện cơ chế
quản lý cán bộ, công chức, làm rõ thẩm quyền quản lý từng loại cán bộ, công chức
của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị; định rõ quyền hạn và trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, cũng như định rõ trách nhiệm và quyền hạn của mỗi
cán bộ công chức, tổ chức trong quản lý hoạt động công vụ của cán bộ, công chức
thuộc quyền. Cần đặc biệt chú trọng mối quan hệ mật thiết giữa quy phạm pháp
luật và các quy phạm đạo đức.Ở chừng mực nào đó, cần thiết phải thể chế hóa
những quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm pháp luật. Mặt khác,
coi việc xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của cán bộ,
công chức có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và răn đe cán bộ, công chức, đồng
thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước, vào pháp luật
Thứ tư, quy trình ra quyết định phải rõ ràng và công khai. Công chúng có quyền
được biết các cơ quan Nhà nước thi hành quyền lực và nguồn lực mà họ được ủy
thác như thế nào. Việc kiểm tra của công chúng phải được tạo điều kiện thông qua
các quy trình dân chủ và công khai, được pháp luật bảo hộ và được tiếp cận với các
nguồn thông tin công cộng, Vì giá trị cao nhất của đạo đức công vụ là trung thành
với Tổ quốc, tận tụy phục vụ dân. Mọi hoạt động của bộ máy nhà nước và đội ngũ
cán bộ, công chức đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân với thái độ, tinh thần làm
việc tận tụy, trung thực, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, không tham nhũng,
tham ô...
Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và hoạt động
công vụ, đảm bảo quyền dân chủ cơ sở để dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát

hoạt động công vụ của cán bộ, công chức. Mọi quy trình cũng như thủ tục hành
chính đều được thông báo công khai tại cơ quan-nơi mà người dân đến làm các thủ
tục hành chính,như trong các cuộc bầu cử công dân đều được biết về nhân thân,
tiểu sử, những đống góp của người đó. Sau mỗi cuộc bầu cử đều có cuộc tiếp xúc
cử tri, các đại biểu sẽ trả lời những câu hỏi của cử tri cả nước và những cuộc tiếp
xúc cử tri đó đều được truyền hình trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại


chúng như đài, báo, ti vi,…để mọi người dân đều biết. Hay quyết định thay đổi
đơn vị hành chính cũng được thông bán công khai cho người dân biết.
Thứ năm, cơ chế trách nhiệm đầy đủ cần được áp dụng trong nền công vụ.
Cơ chế trách nhiệm có thể trong phạm vi nội bộ một cơ quan, cũng có thể trong
phạm vi toàn bộ máy hành chính; cơ chế tăng cường trách nhiệm cần được thiết kế
để kiểm soát hợp lý. Để thấy được vai trò trách nhiệm của mình trước công việc
được giao mà cụ thể gắn với đạo đức công vụ theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, được
thể hiện trong những nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực cơ bản sau:
+ Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
+ Phải có tinh thần trách nhiệm cao với công việc.
+ Chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi hành công vụ.
+ Có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc.
+ Có tinh thần thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc
Các CBCC cũng đã trình bày các quan điểm nhằm góp phần thực hiện nền cải
cách hành chính, tạo tâm lý thân thiện khi tiếp xúc người dân, nụ cười thiện cảm
trong công sở…
Thứ sáu, thủ tục và các biện pháp xử phạt thích hợp đối với việc vi phạm
đạo đức. Các cơ chế phát hiện và điều tra độc lập những hành vi sai trái như tham
nhũng là một phần thiết yếu trong một nền tảng đạo đức. Cần có những thủ tục tin
cậy và các nguồn lực cần thiết để giám sát, báo cáo và điều tra những vi phạm các
quy định của nền công vụ, đồng thời phải có biện pháp kỷ luật hay xử lý hành
chính ngăn chặn vi phạm đạo đức. Các nhà quản lý cần có sự nhìn nhận hợp lý

trong việc sử dụng các cơ chế này khi họ hành động.Làm thế nào để người dân và
tổ chức có cơ sở pháp lý đủ mạnh nhằm kiện các cá nhân và cơ quan công quyền
khi các cơ quan này đùn đẩy trách nhiệm, quay lưng lại nhau, hành nhau, gây thiệt
hại cho họ.
Thứ bảy là nguyên tắc gắn trách nhiệm với quyền lợi: Chương trình cải cách hành
chính (CCHC) giai đoạn tới cần xây dựng các giá trị cốt lõi, hình thành bộ quy tắc
ứng xử; làm rõ các nguyên tắc; cụ thể hóa các quy tắc ứng xử; tuyên truyền cho
người dân về quyền của họ và nghĩa vụ của công chức; giáo dục đạo đức công vụ
cho công chức; nêu gương lãnh đạo; công khai, minh bạch các thủ tục hành chính
có liên quan đến các cam kết WTO; gắn kết đạo đức công vụ với phòng chống
tham nhũng; kiểm soát và cuối cùng là thực hiện cam kết phục vụ với khách
hàng. Điều chỉnh, nâng cao tiền lương và đãi ngộ vật chất hợp lý, tinh thần phong
phú đối với cán bộ, công chức. Cải cách hệ thống tiền lương, tiền thưởng, đảm bảo
trả đúng sức lao động và giá trị cống hiến của cán bộ, công chức, tạo động lực thực
hiện công vụ là giải pháp có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng, nâng cao phẩm giá người công chức đồng thời để họ yên tâm làm việc, dốc


toàn bộ năng lực, trí tuệ làm tốt công việc được giao. Để có thể thỏa mãn nhu cầu
và lợi ích. Xây dựng các chế độ, chính sách tôn vinh, khuyến khích sự tận tâm thực
hiện công vụ, khen thưởng thích đáng về vật chất và tinh thần cho cán bộ, công
chức làm việc tốt, tận tụy và trong, phải thay đổi cách đánh giá quản lý CBCC với
nguyên tắc cơ bản là phải gắn với quyền lợi, kỷ luật, khen thưởng… của người lao
động với chính công việc mà họ đang đảm nhận
Thực hiện các vấn đề trên cần có thời gian. Nhưng phải có một bộ những
quy tắc để buộc công chức phải tuân thủ trong quá trình thực thi công vụ.
Thực hiện “Khoán 10” trong cải cách hành chính.Đó là gắn quyền lợi trực tiếp của
CBCC với lợi ích của CCHC.Nhiều CBCC còn bàng quan với CCHC là vì họ chưa
thấy quyền lợi trực tiếp từ công cuộc cải cách này.
Cuối cùng, chúng ta phải xây dựng cơ chế quản lý sao cho CBCC không cần,

không muốn, không dám và không thể làm sai, tham nhũng trong thực thi công vụ
bởi CBCC không muốn làm sai xuất phát từ đạo đức và sự vinh dự khi trở thành
một CBCC. Không dám làm sai xuất phát từ tâm lý sợ hãi bởi sự nghiêm minh,
công bằng của luật pháp.Không thể làm sai xuất phát từ sự minh bạch, công khai,
dân chủ của các hoạt động Nhà nước.
Như vậy, lòng trung thành với Nhà nước, với chính thể, tinh thần trách nhiệm phục
vụ nhân dân, việc chấp hành pháp luật, tính kỷ luật được coi là những tiêu chí đầu
tiên, quan trọng nhất, của đạo đức công vụ - đạo đức của những người phục vụ
trong bộ máy nhà nước. Những quy tắc này là nền tảng cho sự hình thành, phát
triển mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, giữa cán bộ, công chức với nhân
dân trong quá trình thực thi công vụ.
PHÁP LUẬT VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM.
Trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam lien quan đến điều chỉnh các quan
hệ viiecj làm của người lao động làm việc trong khu vực Nhà nước có thể chia
làm 2 nhóm:
 Văn bản mang tính luật( Luật, pháp lệnh, nghị quyết):
 Văn bản lập quy nhằm hướng dẫn thực hiện các văn bản luật.
Trong điều kiện Việt Nam, cho đến năm 2009 vẫn chưa có một văn bản pháp luật
nào riêng về đạo đức công vụ hay đạo đức công chức. Do đó, xây dựng một chế tài
cụ thể quy định những cách ứng xử giao tiếp, quan hệ của công chức với Nhà
nước: với công dân một cách cụ thể là cần thiết và phù hợp với xu hướng chung
của thế giới.
III.


Đạo đức công vụ trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức.
Như đã nêu trên, chúng ta chưa có một văn bản pháp luật riêng về đạo đức công
chức hay đạo đức thực thi công việc của công chức. Chúng ta có một số văn
bản pháp luật lien quan đến cán bộ, công chức tức về những người làm việc
trong cơ quan nhà nước nói riêng và trong toàn bộ hệ thống thể chế chính trị,

nhà nước nói chung.
1.

I.1

Sắc lệnh số 76 – SL ngày 20-5-1950.
Đây là loại văn bản pháp luật đầu tiên lien quan đến việc quy định công
chức. Những giá trị cũng như chuẩn mực hành vi ứng xử, quan hệ công việc
cũng được quy định.
Giá trị của công chức và công việc của họ đã được ghi ngay trong phần mở
đầu của Sắc lệnh:
“ Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy
Nhà nước của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của chính
phủ.
Vậy người công chức phải đem tất cả sức lực và tâm chí, theo đúng đường
lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc.
Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng
với tài năng của mình”.
Sắc lệnh đề cập đến nhiều nhóm nội dung liên quan đến việc quảnlý công
chức. Tuy không có từ ngữ nào nói về đạo đức công chức, nhưng Sắc lệnh
ấn định một số nội dung mang tính “ chuẩn mực”.
Sắc lệnh quy định nghĩa vụ của công chức. Theo đó “ công chức Việt Nam
phải phục vụ nhân dân, trung thành với Chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh
thần trách nhiệm và tránh làm những việc có hại đến thanh danh công chức
hay đến sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Công chức Việt Nam phải cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
Đây chính là những “ định hướng giá trị của những công việc do công chức
thưc hiện. Đồng thời công chức có những giá trị về quyền lợi. Đó làm công
chức có quyền:
- Hưởng lương, các thứ phụ cấp và hưu bổng;

- Nghỉ hàng năm có lương, được săn sóc về sức khỏe và trợ cấp khi bị tai
nạn;
- Hoạt động về chính trị, văn hóa, xã hội;
- Gia nhập công đoàn.


-

Bên cạnh hai nhóm giá trị đó, Sắc lệnh cũng ấn định những hình thức xử
lí vi phạm những quy tắc làm việc của công chức với tư các là người
phục vụ nhà nước sau khi đã được nhà nước tuyển dụng.
Những quy định mang tính xử lý kỉ luật cũng chính là “ những chuẩn
định hướng” để răn dậy công chức cần phải quan tâm:
Tùy lỗi nhẹ hay nặng, công chức phạm lỗi sẽ phải chịu một trong những
hình phạt sau này
Cảnh cáo
Khiển trách.
Hoãn dụ thăng thưởng trong hạn một hay hai năm.
Xóa tên trong bảng thăng thưởng.
Giáng một hay hai trật.
Từ chức bắt buộc.
Cách chức.
Với những kỷ luật thuộc phạm hình luật, Sắc lệnh đưa ra các chế tài xử lí
nghiêm khắc.
Nghị định 169/HDBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày
25/5/1991.
Nghị định này là văn bản pháp luật đầu tiên quy định về thuật ngữ công
chức ở Việt Nam sau Sắc lệnh 76/SL. Trong văn bản này, chỉ quy định
nhóm người làm việc cho nhà nước được gọi là công chức, không có quy
định cụ thể về những hành vi ứng xử, quan hệ, chuẩn mực giá trị.


I.2

Pháp cán bộ, công chức (1998 và các lần sửa đổi 2000 và 2003)
Trong pháp lệnh này, thuật ngữ công chức không được quy định cụ thể,
nhưng sau đó chính phụ đã quy định chi tiết nhóm người được gọi là công
chức ( xem chi tiết nghị định 95/1998 và nghị định 171/2004).
Đây là loại văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh các yếu tố liên quan đến
những người làm việc cho hệ thống thể chế chính trị ở Việt Nam từ cấp
huyện trở lên (1998 và 2000)và toàn bộ hệ thống thể chế chính trị từ cơ sở
đến trung ương ( sửa đổi năm 2003) .


Pháp lệnh 1998 (và sửa đổi ) cũng không sử dụng thuật ngữ đạo đức công
chức. Tuy nhiên một số điều quy định mang tính chuẩn mực định hướng
cho cán bộ, công chức hoạt động.
Phần nghĩa vụ của cán bộ,công chức, những định hướng mang tính chuẩn
mực bao gồm:
1. Trung thành với Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ
sự an toàn , danh dự và lợi ich quốc gia;
2. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước; thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy định
của pháp luật;
3. Tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân;
4. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tham gia sinh hoạt với cộng đồng dân cư
nơi cư trú, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân;
5. Có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư;
không được quan liêu, hách dịch,cửa quyền, tham nhũng;
6. Có ý thức tổ chức kỷ luật và trách nhiệm trong công tác; thực hiện
nghiêm chỉnh nội quy của cơ quan, tổ chức; giữ gìn và bảo vệ của công,

bảo về bí mật của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
7. Thường xuyên học tập nâng cao trình độ; chủ động, sáng tạo, phối hợp
trong công tác hoàn thành tốt nhiệm vụ, công vụ được giao;
8. Chấp hành sự điều động, phân công công tác của cơ quan tổ chức có
thẩm quyền. Nhiều nước, các quy định trên mang tính “ giá trị cốt lõi của
công vụ” . Do đó cũng có thể coi đó chính là những giá trị đạo đức mà
cán bộ, công chức phải tuân thủ.
Đồng thời pháp lệnh quy định có tính chất “ không được làm” trên một
số lĩnh vực.Đó là:
- Các bộ , công chức không được chây lười trong công tác,trốn tránh trách
nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè phái,mất
đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc.
- Cán bộ công chức không được chây lười trong công tác trốn tránh trách
nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ,không được gây bè phái, mất
đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc.
- Các bộ, công chức không được cửa quyền,hách dịch,sách nhiễu,gây khó
khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết
công việc.
- Cán bộ công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham
gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần,công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư,
trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư. Cán bộ công chức
không được là tư vấn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh, dịch vụ


-

-

-


và các tổ chức cá nhân ở trong nước và nước ngoài về các công việc có
liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình và các công việc khác mà việc tư vấn đó
có khả năng gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Chính phủ quy định cụ
thể việc làm tư vấn của Cán bộ, công chức.
Cán bộ, công chức làm việc ở những ngành, nghề có liên quan đến bí
mật Nhà nước, thì trong thời hạn ít nhất là năm năm kể từ khi có quyết
định hưu trí, thôi việc, không được làm việc cho các tổ chức, cá nhân
trong nước, nước ngoài hoặc tổ chức liên doanh với nước ngoài trong
phạm vi các công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình
đã đảm nhiệm. Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công
việc, thời hạn mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách ưu
đãi đối với những người phải áp dụng quy định của Điều này.
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng
của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động
trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện quản lý nhà
nước”.
Người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức không
được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con,anh, chị,em ruột của mình giữ
chức vụ lãnh đạo về tổ chức nhân sự, kế toán – tài vụ; làm thủ quỹ, thủ
kho trong cơ quan, tổ chức hoặc mua bán vật tư, hàng hóa, giao dịch, ký
kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức đó.
Về nguyên tắc nếu các quy định trên bị vi phạm, đều bị pháp luật xử lý
theo quy định. Hai văn bản pháp quy quy định chi tiết về quản lý công
chức đã được Chính phủ ban hành .Tuy nhiên những quy định mang tính
đạo đức không có tính đặc thù, chủ yếu về quản lý mang tính chất quy
trình. Những hành vi, ứng xử, nghĩa vụ đều theo quy định của pháp lệnh
1998 và các văn bản sửa đổi
Quy chế văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước ban

hành kèm theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 2 tháng 8 năm
2007 của Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dù quyết định này không nói về đạo đức, mà thay bằng thuật ngữ
văn hóa( ứng xử, giao tiếp).Như đã phân tích ở trên, những chuẩn mực
văn hóa tổ chức mang tính pháp lý cũng đồng nhất với đạo đức. Do đó
đây cũng là loại hình văn bản quy định một số hành vi ứng xử của cán bộ
công chức trong hoạt động thực thi công việc.Quyết định quy định có
tính nguyên tắc định hướng cho văn hóa ứng xử của cán bộ, công chức
viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước. Đó là:


1.
2.
3.

Phù hợp với truyền thống,bản sắc văn hóa dân tộc và điều kiện kinh
tế - xã hội;
Phù hợp với định hướng xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên
chức chuyên nghiệp, hiện đại;
Phù hợp với các quy định của pháp luật và mục đích, yêu cầu cải cách
hành chính, chủ trương hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước.
Nếu coi đó là văn hóa ứng xử, mọi cán bộ, công chức đều phải quan
tâm tuân thủ khi thực hiện các quan hệ với nhau; với quan hệ với cơ
quan Nhà nước và với công dân.

1.3. Luật cán bộ công chức năm 2008.
1.3.1
Khái niệm cán bộ công chức.
Điều 4. Cán bộ, công chức
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,

chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức
vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã
hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.


1.3.2. Nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức.
Điều 5. Các nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức
1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý của Nhà
nước.
2. Kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế.
3. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và

phân công, phân cấp rõ ràng.
4. Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm
chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ.
5. Thực hiện bình đẳng giới.
1.3.3. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức.
Điều 8. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân
dân
1. Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia.
2. Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
nhân dân.
4. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Điều 9. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ
1. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được giao.
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ
quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm
pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
3. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
4. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
5. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là
trái pháp luật thì phải kịp thờibáo cáo bằng văn bản với người ra quyết định;


trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và
người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc
thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra

quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu
Ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này, cán bộ,
công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa
vụ sau đây:
1. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
2. Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;
3. Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
4. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa
công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công
chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;
5. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
1.3.4. Quyền của cán bộ, công chức.
Điều 11. Quyền của cán bộ, công chức đượcbảo đảm các điều kiện thi
hành công vụ
1. Được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ.
2. Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm việc khác theo quy định
của pháp luật.
3. Được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
4. Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp


vụ.

5. Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
Điều 12. Quyền của cán bộ, công chức vềtiền lương và các chế độ liên
quan đến tiền lương
1. Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn
được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Cán bộ, công chức
làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có
môi trường độc hại, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy
định của pháp luật.
2. Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ
khác theo quy định của pháp luật.
Điều 13. Quyền của cán bộ, công chức vền nghỉ ngơi
Cán bộ, công chức được nghỉ hàng năm, nghỉ lễ, nghỉ để giải quyết việc riêng
theo quy định của pháp luật về lao động. Trường hợp do yêu cầu nhiệm vụ, cán bộ,
công chức không sử dụng hoặc sử dụng không hết số ngày nghỉ hàng năm thì ngoài
tiền lương còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng tiền lương cho những
ngày không nghỉ.
Điều 14. Các quyền khác của cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa học, tham
gia các hoạt động kinh tế, xã hội; được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương
tiện đi lại, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật; nếu
bị thương hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì được xem xét hưởng chế độ,
chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và các
quyền khác theo quy định của pháp luật.


IV.
1.

PHÁP LUẬT ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐIỂN HÌNH.

Vài nét về công chức và luật công chức ở một số nước.

Bài viết này nêu các quan niệm khác nhau về công chức và luật công chức từ kinh
nghiệm xây dựng pháp luật một số nước trên thế giới nhằm cung cấp thông tin
tham khảo cho việc xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về công chức ở
nước ta, đáp ứng yêu cầu xây dựng một nền hành chính chính quy, hiện đại với đội
ngũ công chức chuyên nghiệp.
Quan niệm về công chức
Mặc dù chế độ công vụ đã tồn tại và phát triển đã trên 3 thế kỷ tính từ thời điểm
xuất hiện thuật ngữ công chức vào năm 1859 ở Anh nhưng cho đến nay vẫn chưa
có một quan niệm thống nhất về công chức cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Sự
khác nhau trong quan niệm về công chức thể hiện trên các phương diện như: phạm
vi công chức, đặc điểm công chức và chế độ công vụ.
1.1. Về phạm vi công chức, có một số quan niệm chính như sau:
- Công chức là những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong bộ máy
hành chính của các bộ thuộc Chính phủ. Như vậy, những đối tượng khác tuy làm
việc ở bộ nhưng không trực tiếp làm công tác chuyên môn nghiệp vụ theo chức
năng quản lý của bộ thì không phải là công chức và cũng theo quan niệm về công
chức như vậy thì những người làm việc trong bộ máy của chính quyền địa phương
cũng không phải là công chức (Anh, Thái -lan, Xin-ga-po...);
- Công chức không chỉ là những người thực hiện các hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ quản lý trong bộ máy hành chính của các bộ (trung ương) mà còn bao
gồm cả những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ quản lý trong bộ máy
hành chính thuộc chính quyền của các địa phương (Nga, Trung Quốc, Ba Lan,
Hung-ga-ri...);
- Khác với các quan niệm đã nêu trên, một số nước xác định phạm vi công chức
bao gồm cả những người thực thi công vụ tại các tổ chức cung ứng dịch vụ công
hoặc cả ngành lập pháp, tư pháp (Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha...).



Với các quan niệm trên cho thấy vẫn còn những câu trả lời khác nhau với câu hỏi
ai là công chức trong số những người làm việc tại các cơ quan trong bộ máy nhà
nước và sẽ vẫn chưa có câu trả lời chung cho câu hỏi này trong một thời gian dài
nữa. Sự khác nhau này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: lịch sử sự
tồn tại và phát triển của nền hành chính quốc gia; điều kiện kinh tế - xã hội mà trên
đó pháp luật được hình thành; quan điểm của các nhà lập pháp trong việc đánh giá
sử dụng các thành tựu của khoa học pháp lý...
1.2. Về đặc điểm công chức. Qua nghiên cứu cho thấy công chức có các đặc điểm
căn bản như (1):
- Tính nghề nghiệp (career). Tính nghề nghiệp thể hiện ở việc công chức thực
hiện thường xuyên một công vụ theo nghiệp vụ chuyên môn mà công chức đó
đảm nhiệm (kế toán, kiểm toán, văn thư...);
- Tính quan liêu (bureaucratic). Tính quan liêu trong thực thi công vụ thể hiện
trên các phương diện khác nhau như không phụ thuộc vào bất kỳ một tác động
nào khác của chính trị, kinh tế hay dân sự. Công chức thực hiện công vụ theo
một quy trình công tác đã được pháp luật xác định và họ không có quyền thay
đổi nếu không được pháp luật cho phép (2).;
- Tính thứ bậc. Công chức được chia thành những bậc hạng khác nhau tuỳ theo
tính chất, yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ của công việc và được bổ nhiệm
vào vị trí công tác theo thứ bậc đó (Ví dụ: Công chức ở Trung Quốc chia thành
15 bậc, cao nhất là Thủ tướng Quốc vụ viện và thấp nhất là cán sự);
- Tính được nhà nước trả lương. Vì công chức thực thi công vụ nhà nước do vậy
được hưởng lương từ ngân sách của nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt
công chức với những người là việc ở các doanh nghiệp và khu vực tư nhân
hưởng lương không do nhà nước chi trả.
Tuỳ theo quan điểm trong việc xây dựng, phát triển đội ngũ công chức mà mỗi
nước có sự nhấn mạnh, chú trọng nhiều hơn đến một trong số các đặc điểm trên
theo đó tạo nên sự khác nhau trong quan niệm về công chức. Ví dụ: các nước
như Pháp, Đức... coi trọng tính nghề nghiệp của công chức trong khi đó các



nước theo chế độ công vụ việc làm như Anh, Mỹ... không chú trọng nhiều đến
đặc điểm này.
Sử dụng phương pháp so sánh để xem xét quan niệm về công chức của các
nước ta thấy:
- Phạm vi công chức của Mỹ chỉ là những người thực thi công vụ trong ngành
hành chính (hoạt động chuyên môn nghiệp vụ quản lý hành chính) và không
nhấn mạnh đến tính nghề nghiệp của công chức mà coi trọng hơn đến mức độ
khả thi khi công chức thực thi công vụ. Khác với Mỹ, Pháp và một số nước
khác như Đức, Đan Mạch... quan tâm rất nhiều đến tính nghề nghiệp và xem đó
là một chức nghiệp của công chức. Như vậy tính nghề nghiệp của công chức thể
hiện rất đậm nét trong quan niệm của người Pháp, Đức... có phần mờ nhạt hơn
trong quan niệm của Anh và gần như không còn gì trong quan niệm của Mỹ. Từ
đó có những chế độ công vụ khác khau như chức nghiệp (career system), việc
làm (jobs system).
- So với Anh thì phạm vi công chức theo quan niệm của Pháp, Mỹ rộng hơn với
đối tượng là công chức các địa phương.
- Xét trên phương diện đặc điểm công chức thì có những nét tương đồng giữa
quan niệm của Anh với quan niệm của Pháp thể hiện cụ thể như: tính quan liêu
trong khi thực thi công vụ; tính thứ bậc với các ngạch bậc khác nhau theo yêu
cầu về mặt chuyên môn nghiệp vụ quản lý mà công chức đó đảm nhiệm; lương
của công chức do nhà nước chi trả.
- So sánh các quan niệm về công chức của các nước với nước ta thì thấy chúng ta
tổng hợp hơn theo đó phạm vi công chức rộng hơn với cả công chức làm chuyên
môn nghiệp vụ, công chức trung ương, công chức địa phương, viên chức trong các
đơn vị sự nghiệp công và công chức xã. Sự khác biệt căn bản trong quan niệm từ đó
đi đến khác nhau về phạm vi công chức của các nước so với nước ta còn thể hiện ở
chỗ các nước không coi những người làm việc trong các đảng phái và tổ chức phi
chính phủ là công chức và theo đó không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật về
công chức

1.3. Về chế độ công vụ:


Theo các kết quả nghiên cứu cho thấy hiện nay có các chế độ công vụ tiêu biểu
sau đây:
- Chức nghiệp. Theo chế độ công vụ chức nghiệp thì tính quan liêu trong thực
thi công vụ của công chức nổi trội hơn so với các đặc điểm khác. Các nước như
Pháp, Đức, Hà Lan là những nước theo chế độ công vụ chức nghiệp tuy nhiên
hiện nay tính chức nghiệp có phần giảm sút theo đó vị trí công việc của chế độ
công vụ việc làm đã chi phối hệ thống công vụ chức nghiệp;
- Việc làm. Chế độ công vụ việc làm được xây dựng trên cơ sở phân tích công
việc từ đó xác định vi trí và các yêu cầu chuyên môn đối với mỗi vị trí công tác
mà người thực thi công vụ phải đáp ứng. Chế độ công vụ việc làm đòi hỏi khắt
khe về chuyên môn đối với mỗi công chức đảm trách các vị trí công tác khác
nhau trong hệ thống công vụ. Người thực thi công vụ đáp ứng được yêu cầu, thi
đạt vào vị trí thì được công nhận là công chức nhưng công việc đó không đòi
hỏi cũng như bắt buộc người ta phải gắn bó suốt đời theo kiểu chức nghiệp. Các
nước theo hệ thống thông luật (Common Law) như Anh, Mỹ theo chế độ công
vụ này;
- Hỗn hợp. Chế độ công vụ hỗn hợp không có lý thuyết riêng mà thực chất là sự
phối hợp của chế độ chức nghiệp với chế độ việc làm. Có khá nhiều nước trên
thế giới áp dụng chế độ công vụ hỗn hợp vì nó có nhiều ưu điểm như tạo cho
người lao động nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn công việc cũng như quyết
định có gắn bó lâu dài với công việc mà mình đang đảm nhiệm hay không. Các
nước áp dung chế độ công vụ này như Phi -li-pin, Bu-tan, Pa-ra-goay.
So sánh các chế độ công vụ trên với chế độ công vụ ở nước ta hiện nay cho thấy
tính hỗn hợp trong chế độ công vụ của ta nổi trội hơn với sự kết hợp của cả chế
độ công vụ cán bộ với chức nghiệp và chịu ảnh hưởng ít nhiều của chế độ công
vụ việc làm.



2. Luật về công chức.
Cũng như quan niệm về công chức, luật về công chức cũng rất đa dạng trên các
phương diện khác nhau như:
- Về loại hình văn bản: nhiều nước sử dụng loại hình văn bản Luật (Đức, Nhật
Bản, Trung Quốc); một số nước khác sử dụng loại hình văn bản Quy chế (Anh
và các nước khác thuộc khối liên hiệp Anh, Trung Quốc năm 1993); Pháp lệnh
(Việt Nam). Tuy có tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung thì văn bản pháp luật
về công chức do cơ quan lập pháp quốc gia ban hành.
- Về tên gọi của văn bản: một số nước lấy tên của văn bản là Luật Công chức
(Luật Công chức năm 2006 của Trung Quốc); một số nước lấy tên văn bản theo
số (Công luật số 5 của Phi -li-pin hoặc Luật số 11 của Hung -ga-ri); một số
nước lấy tên văn bản là Luật Công vụ (Luật Công vụ năm 1975, 1992 của Thái
-lan hoặc Luật Công vụ quốc gia của Nhật Bản trên cơ sở nền tảng Luật Công
chức của Đức. Hoặc Luật Liên bang về những cơ sở công vụ nhà nước, năm
1995 của Liên bang Nga); lấy một tên gọi cụ thể (tên tác giả của đạo luật hoặc
tên địa danh) đặt cho tên gọi của luật (Luật Păng -téc-đơn của Hoa Kỳ).
- Về đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng: tuỳ theo quan điểm của các nhà
lập pháp mà đối tượng điều chỉnh và phạm vi áp dụng của văn bản cũng khác
nhau: Nếu xác định công chức là những người làm công tác chuyên môn nghiệp
vụ trong bộ máy hành chính của các bộ thuộc Chính phủ. Theo đó những đối
tượng khác tuy làm việc ở bộ nhưng không trực tiếp làm công tác chuyên môn
nghiệp vụ theo chức năng quản lý của bộ thì không phải là công chức do vậy
không thuộc đối tượng điều chỉnh của văn bản. Theo đó phạm vi áp dụng của
văn bản chỉ với các bộ thuộc Chính phủ tức là không áp dụng đối với các địa
phương.
Nếu xác định công chức là những người thực hiện các hoạt động chuyên môn
nghiệp vụ quản lý trong bộ máy hành chính của các bộ (trung ương) mà còn bao
gồm cả những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ quản lý trong bộ máy
hành chính thuộc chính quyền của các địa phương thì đối tượng và phạm vi

điều chỉnh của văn bản trải rộng với các cơ quan hành chính trên toàn quốc.


Nếu xác định phạm vi công chức bao gồm cả những người thực thi công vụ tại
các tổ chức cung ứng dịch vụ công hoặc cả ngành lập pháp, tư pháp thì theo đó
đối tượng điều chỉnh của văn bản gồm công chức chuyên làm luật, công chức
hành pháp và công chức tư pháp.
- Về kết cấu, bố cục: các nước theo hệ thống pháp luật thực định (lấy văn bản
quy phạm pháp luật là nguồn chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ khác nhau
trong xã hội) thì kết cấu, bố cục của văn bản theo kiểu có các chương, mục với
các điều luật và mỗi điều luật là một quy phạm quy định. Các nước theo hệ
thống thông luật (văn bản quy phạm pháp luật chỉ là một trong những nguồn
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ khác nhau trong xã hội) thì kết cấu, bố cục
của văn bản chủ yếu là các điều luật với những quy định nhiều khi rất chi tiết.
- Về nội dung quy định: tuy có tên gọi, loại hình, kết cấu, bố cục khác nhau
nhưng qua nghiên cứu cho thấy những nội dung sau đây thường có trong văn
bản: tuyển dụng, thi tuyển, đề bạt, trả lương, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật,
nghỉ hưu./.

Ghi chú:
(1) Đặc điểm khác với điều kiện trở thành công chức. Điều kiện để trở thành
công chức là quốc tịch, độ tuổi, sức khoẻ... một số tác giả không có sự phân biệt
rõ hai vấn đề này nên coi điều kiện cũng là đặc điểm công chức - Tác giả chú
thích.
(2) Một số nghiên cứu đưa ra đặc điểm về tính vô nhân xưng của công chức.
Theo chúng tôi thì vô nhân nhân xưng là một trong những biểu hiện của
tính quan liêu mà thôi - Tác giả chú thích.
3. Một số nước điển hình.
3.1. THÁI LAN.
Luật Đạo đức nghề nghiệp của Thái Lan ra đời năm 1994 quy định 16 điểm cụ thể

về đạo đức công chức. Theo đó, công chức phải đề cao các nguyên tắc đạo đức,


bản thân phải cư xử sao cho tương xứng với cương vị là một công chức nhà
nước.Đồng thời công chức phải thi hành nhiệm vụ một cách trung thực, không
được có thành kiến và không được mưu lợi cá nhân. Công chức phải làm việc đúng
giờ và phải dành toàn bộ thời gian cho lợi ích của công vụ; phải thực hiện nhiệm
vụ với hết khả năng, thận trọng và nhanh nhạy với một sự cần mẫn, chính xác hợp
lý; phải luôn nhớ đến những lợi ích sẽ đem lại cho dân chúng.
Trong quan hệ với dân chúng, công chức phải phục vụ dân một cách đẹp đẽ, rộng
lượng, nhã nhặn, lịch thiệp, dịu dàng, hết mình. Khi không thể giúp được người
dân thì phải giải thích lý do và đề xuất đường đi nước bước đúng hướng cho người
dân biết. Công chức phải kiềm chế, không được nhận từ người mình phục vụ quà
biếu hay ân huệ có giá trị vượt quá giá trị mà người này thường cho người kia do
quý mến, và phải báo cáo với cấp trên về việc nhận quà biếu mà sau khi nhận công
chức đó thấy nó có giá trị đáng kể để có các xử lý thích hợp.
3.2. INDONESIA.
Theo Quy định số 30 của Indonesia năm 1980, công chức Indonesia có nghĩa vụ
phải tuyệt đối trung thành và tuân thủ bản Pancasia (Triết học quốc gia), hiến pháp.
Ngoài những yêu cầu về giờ làm việc, trang phục, tuân thủ quy định về thuế, thái
độ và tư cách công chức đối với dân v.v... công chức còn phải tôn trọng cả những
người dân có tín ngưỡng khác nhau về thần Almighty.
Công chức Indonesia bị cấm nhận quà biếu dưới bất kỳ hình thức nào, của bất kỳ ai
mà người tặng bị phát hiện hoặc nghi ngờ là có liên quan đến vị trí hoặc công việc
của công chức đó. Công chức cũng không được đến những nơi có thể làm hoen ố
danh dự hay uy tín của công chức, ngoại trừ mục đích công vụ. Công chức cũng
không được tham gia các hoạt động kinh doanh, là thành viên của ban giám đốc
hoặc hội đồng quản trị công ty tư nhân.Nghiêm cấm công chức đánh thuế sai quy
định trong khi thi hành nhiệm vụ để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Các biện pháp kỷ luật công chức gồm có: kỷ luật nhẹ (khiển trách, phê bình cảnh

cáo), kỷ luật trung bình (hoãn tăng lương, hoặc hạ lương, hoặc hoãn đề bạt tối đa là
một năm), kỷ luật nặng (hạ một cấp tối đa là một năm, cách chức, cho thôi việc, sa
thải).
3.3. BRUNEI DARUSSALAM
Theo Chương 83 Luật Ủy ban về công vụ của Brunei Darussalam, giờ làm việc
bình thường của công chức là bảy giờ rưỡi/ngày, tổng số giờ làm việc trong tuần là


×