Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.49 KB, 29 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề quản lý, sử dụng nguồn lao động như thế nào luôn thu hút sự
quan tâm không chỉ của các chủ sử dụng lao động mà còn của cả Nhà nước chủ thể có trách nhiệm lớn nhất trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động
kinh tế, xã hội, trong đó việc bảo vệ nguồn lực lao động luôn được quan tâm,
bởi tình trạng sử dụng lãng phí, bóc lột quá đáng của người sử dụng lao động
đã làm phát sinh các tiêu cực trong quá trình đào tạo, sử dụng và bảo vệ
nguồn lao động.
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và giá trị tinh thần, là hành động diễn ra giữa con người và giới tự nhiên
nhằm biến đổi những vật chất trong giới tự nhiên, làm cho chúng trở nên có
ích với đời sống con người. Vì thế lao động là một tất yếu khách quan của sự
tồn tại và phát triển xã hội loài người. Lao động có năng suất, chất lượng,
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Trong nhiều năm qua, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, cơ chế
quản lý trong lĩnh vực lao động việc làm cũng được chuyển sang phương
thức mới. Nhà nước và chính quyền các cấp thông qua hệ thông pháp luật,
các chính sách và kế hoạch định hướng, quản lý điều tiết vĩ mô toàn bộ hệ
thống về lao động việc làm.
Luật Lao động bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền lợi khác của
người lao động. Trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa các chế độ, chính sách và pháp luật về lao động được
nhà nước ban hành và từng bước hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu phong phú, đa
dạng về lao động trong xã hội.
Một thực tế cho thấy, quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các cơ
chế, chính sách nói chung và cơ chế, chính sách về lao động việc làm nói
riêng, trong thực tế cuộc sống còn có nhiều bất cập. Nhất là sự áp dụng thiếu
thống nhất, đồng bộ luật pháp, chính sách về lao động của các đơn vị cơ sở


đã gây nên những phức tạp, thậm trí có trường hợp trở nên nghịch lý. Đặc
2


biệt, việc áp dụng Bộ luật Lao động và Pháp lệnh cán bộ công chức của một
số cơ quan đơn vị thiếu chặt chẽ đầy đủ đã trở thành nguyên nhân của những
vụ khiếu kiện, tranh chấp lao động xảy ra trong những năm qua.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử
dụng lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn
định, giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều
có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà nước, của các doanh nghiệp và
toàn xã hội, vì vậy, sử dụng và quản lý lao động có hiệu quả góp phần công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh
Chính từ những điều trên em đã trọn đề tài “ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP ” để làm Bài Tiểu Luận cho bộ môn LUẬT LAO ĐỘNG ! em
xin chân thành cảm ơn cô : Nguyễn Thị Ngọc Linh giảng viên bộ môn LUẬT
LAO ĐỘNG đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này !

3


CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I . Tình hình lao động ở nước ta trong những năm gần đây
1. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tăng nhanh
Việt Nam là nước đông dân, có cơ cấu dân số trẻ. Năm 2012, dân số là
88,77 triệu người, trong đó dân số từ 15 tuổi trở lên là 68,195 triệu người, chiếm

76,8% dân số cả nước. Vì dân số đông nên lực lượng lao động của nước ta khá
dồi dào, đó là một lợi thế to lớn để phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Bảng 1. Dân số hoạt động kinh tế ở nước ta thời kì 1989-2012
(ĐVT: triệu người)
Năm
1989 1999 2009 2012
Dân số hoạt động kinh tế 28,4 37,3 47,7 52,3
Bảng 1 cho thấy dân số hoạt động kinh tế của nước ta giai đoạn 19892012 tăng từ 28,4 triệu người lên 52,3 triệu người (tăng 23,9 triệu người),
trung bình tăng 1,1 triệu người/năm. Năm 2012, lực lượng lao động nước ta là
52,3 triệu lao động, chiếm 58,9% tổng dân số cả nước, bao gồm 51,4 triệu
người có việc làm và 925,6 nghìn người thất nghiệp. Trong tổng số lực lượng
lao động của cả nước, nữ giới chiếm tỉ trọng thấp hơn nam giới (48,6% nữ
giới so với 51,4% nam giới).
Sức trẻ là đặc điểm nổi trội của nguồn lao động nước ta. Cơ cấu dân số
hoạt động kinh tế chia theo nhóm tuổi tập trung nhiều nhất ở nhóm 15 – 34
tuổi, chiếm 44,7%, tiếp theo là nhóm 35 – 54 tuổi (xem bảng 2).
Bảng 2. Cơ cấu dân số hoạt động kinh tế theo nhóm tuổi (%)
Năm
1989
2009
2012
Nguồn

Nhóm trẻ (15-34

Nhóm trung niên

Nhóm cao tuổi

tuổi)

(35-54 tuổi)
(≥ 55 tuổi)
52,6
40,3
7,1
47,6
42,1
10,3
44,7
43,8
11,5
lao động trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng

động, dễ tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu
4


được học văn hóa, đào tạo nghề, thì họ sẽ phát huy khả năng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là yếu tố rất thuận lợi để phát triển kinh tế - xã
hội, nhưng cũng gây áp lực lớn cho vấn đề giải quyết việc làm và đào tạo
nghề cho người lao động. Đặc biệt, với tốc độ tăng dân số nhanh và cơ cấu
dân số trẻ nên mỗi năm nước ta có hơn 1,2 triệu người đến tuổi lao động và
được bổ sung vào lực lượng lao động, điều này càng làm cho vấn đề giải
quyết việc làm trở nên khó khăn hơn.
2. Phân bố lực lượng lao động không đều
Lực lượng lao động của Việt Nam tuy đông và tăng nhanh nhưng có sự
phân bố không đều giữa các vùng lãnh thổ. Lao động nước ta tập trung chủ
yếu khu vực nông thôn. Năm 2012, lao động nông thôn chiếm 69,7% trong cơ
cấu lao động chung của cả nước. Điều này là do ở nông thôn hoạt động sản
xuất nông nghiệp là chính nên cần một lực lượng lao động đông, diện tích đất

đai ở nông thôn cũng lớn hơn. Tuy nhiên, do năng suất lao động thấp, hơn
nữa, vào thời gian chuyển giao giữa các mùa, lực lượng lao động thiếu việc
làm cao nên tỉ lệ lao động nông thôn giảm dần, góp phần làm tăng tỉ lệ lao
động thành thị. Lao động di cư từ nông thôn ra thành thị tìm việc một cách tự
phát cũng đang trở thành một trong những khó khăn cho vấn đề việc làm ở
nước ta.
Phân bố lao động cũng có sự chênh lệch giữa các vùng kinh tế. Trong 8
vùng kinh tế, gần 3/5 lực lượng lao động (56,7% tổng lực lượng lao động của
cả nước) tập trung ở 3 vùng là đồng bằng (ĐB) sông Hồng, Bắc Trung Bộ và
Duyên hải miền Trung, ĐB sông Cửu Long (xem bảng 3). Như vậy, khu vực
nông thôn và 3 vùng kinh tế - xã hội này là những nơi cần có các chương trình
khai thác nguồn lực lao động, tạo việc làm và đào tạo nghề trong những năm
tới.

5


Bảng 3. Số lượng lao động và phân bố lực lượng lao động Việt Nam
năm 2012
Nơi cư trú/vùng
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
Các vùng
Trung du miền núi Bắc Bộ
ĐB sông Hồng*
Bắc Trung Bộ và Duyên hải

Lực lượng lao động
(Nghìn người)

52 348,0
15 885,7
36 462,3
7 209,3
8 023,6
11 309,3

Tỉ trọng (%)
Tổng số Nam Nữ
100,0
30,3
69,7

100
30,4
69,6

100
30,3
69,7

13,8
15,3
21,6

13,4
14,7
21,1

14,2

16,0
22,1

miền Trung
Tây Nguyên
3 136,6
6,0
6,1
5,9
Đông Nam Bộ*
4 517,7
8,6
8,8
8,5
ĐB sông Cửu Long
10 362,8
19,8
20,9 18,6
Hà Nội
3 702,5
7,1
6,9
7,2
TP Hồ Chí Minh
4 086,4
7,8
8,1
7,5
*ĐB sông Hồng và Đông Nam Bộ không bao gồm Hà Nội và TPHCM.
3. Chất lượng nguồn lao động

Chất lượng nguồn lao động nước ta đã được cải thiện, có đóng góp
đáng kể cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nhưng nhìn chung vẫn
còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế đất nước và còn có sự khác
biệt lớn giữa các vùng lãnh thổ.
- Về trình độ học vấn của lực lượng lao động:
Nhìn chung trong cả nước, trình độ học vấn của lực lượng lao động
ngày càng được nâng cao. Tỉ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu
học không ngừng giảm. Tỉ lệ này năm 1996 là 26,67%, năm 2009 giảm xuống
còn 6,5%. Đồng thời, số người đã tốt nghiệp THCS, THPT tăng lên liên tục,
trong đó tăng nhanh nhất (cả về quy mô và tốc độ) là số người tốt nghiệp
THPT, từ 13,48% năm 1996 lên 26,4% năm 2009.
Những chuyển biến tích cực về trình độ học vấn sẽ tạo nhiều thuận lợi
cho việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm
việc làm mới cho lực lượng lao động trong thời gian tới. Tuy nhiên, trình độ
học vấn còn có sự phân hóa giữa nông thôn với thành thị và theo các vùng
6


lãnh thổ. Ở nông thôn, tuy trình độ học vấn của lực lượng lao động đã được
cải thiện, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị. Năm 2009,
tỉ lệ người chưa tốt nghiệp tiểu học trong lực lượng lao động ở nông thôn là
15,9% (thành thị là 7,6%), tỉ lệ người tốt nghiệp THPT ở nông thôn là 17,8%
(thành thị là 46,8%).
Trình độ học vấn của lực lượng lao động theo vùng lãnh thổ cũng có
chênh lệch. Tỉ lệ những người chưa từng đi học trong lực lượng lao động cao
nhất ở vùng Trung du và miền núi (TD&MN) phía Bắc (chiếm 11,3% lực
lượng lao động của vùng, 2009), tiếp đến là Tây Nguyên (10,2%) và ĐB sông
Cửu Long (5,7%). Đây cũng là những vùng có tỉ lệ lao động tốt nghiệp THPT
trở lên thấp nhất, đặc biệt là vùng ĐB sông Cửu Long, chỉ có 13,4% trong khi
trung bình của cả nước là 25,6%. Hai vùng có trình độ học vấn của lực lượng

lao động cao là ĐB sông Hồng và Đông Nam Bộ. Tỉ lệ lực lượng lao động
chưa từng đi học chỉ có 0,8% và 2,2%, còn tỉ lệ tốt nghiệp THPT trở lên
chiếm 35,9% và 32,9%.
- Về trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động:
Trình độ chuyên môn kĩ thuật là một trong những yếu tố quan trọng cấu
thành chất lượng lao động. Trình độ chuyên môn kĩ thuật của người lao động
nước ta đã có sự thay đổi theo thời gian như sau (xem bảng 4):
Bảng 4. Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kĩ thuật (%)
Các chỉ tiêu
Không có trình độ CMKT
Công nhân kĩ thuật
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học trở lên

1989
92,7
2,2
3,2
1,9

1999
91,9
2,4
3,0
2,7

2009
82,4
6,3
4,4

6,9

2012
83,2
4,7
3,7
8,4

Theo kết quả Điều tra lao động - việc làm năm 2012, trong tổng số 52,3
triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ có gần
9 triệu người đã được đào tạo, chiếm 16,8% tổng lực lượng lao động. Như
vậy, nguồn nhân lực của nước ta trẻ và dồi dào nhưng đa số là lao động không
có tay nghề và chuyên môn kĩ thuật. Bảng 4 cho thấy xu hướng giảm dần tỉ lệ
lao động không có trình độ chuyên môn kĩ thuật so với tổng dân số, từ 92,7%
7


năm 1989 xuống còn 83,2% năm 2012, giảm 9,5% qua hơn 20 năm. Nhìn
chung, xu hướng này là tiến bộ; tuy nhiên, mức giảm của tỉ lệ lao động không
có trình độ chuyên môn kĩ thuật còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đối với công nhân kĩ thuật,
tăng từ 2,2% lên 6,3% giai đoạn 1989-2009, nhưng sau đó lại giảm xuống còn
4,7% năm 2012. Mức độ tăng này là chậm so với yêu cầu và không ổn định,
điều này đặt ra những nhiệm vụ là cần mở rộng và hoàn thiện hệ thống dạy
nghề trong nền kinh tế quốc dân.
4. Cơ cấu lao động của nước ta có sự chuyển biến nhưng còn chậm
- Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa
là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Quá trình này dẫn đến làm tăng

tỉ trọng lao động trong các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ
trọng lao động trong nông nghiệp (xem biểu đồ 1).

8


Biểu đồ 1 cho thấy qua hơn 20 năm, cơ cấu lao động của nước ta đã có
sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa. Tỉ trọng lao động
trong công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng gần gấp đôi, tăng tương ứng từ
11,2% lên 21,2% và 16,3% lên 31,4%. Lao động nông nghiệp giảm mạnh từ
71,5% xuống còn 47,4% giai đoạn 1989-2012. Tuy vậy, có thể thấy rằng sự
gia tăng tỉ lệ lao động trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng vẫn còn
chậm và chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa. Mặc dù lao động trong nhóm ngành nông - lâm - thủy sản đã giảm nhưng
vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn.
- Cơ cấu lao động giữa các vùng lãnh thổ
Cơ cấu lao động giữa các khu vực có sự chuyển dịch phù hợp với quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tỉ trọng lao động
giữa các vùng trong khu vực rất khác nhau (xem bảng 5).
+ Lao động trong khu vực I: thấp nhất là Đông Nam Bộ (34,8%), ĐB
sông Hồng (40,7%), các vùng còn lại đều cao hơn mức trung bình của cả
nước.
+ Lao động trong khu vực II: cao nhất là Đông Nam Bộ (33,5%), thấp
nhất là Tây Nguyên (8,2%), TD&MN phía Bắc (12,1%), ĐBS Cửu Long
(16,6%).
+ Lao động trong khu vực III: cao nhất là Đông Nam Bộ (31,8%), tiếp
đến ĐB sông Cửu Long (31,3%), đến ĐB sông Hồng (29,5%), thấp nhất là
TD&MN phía Bắc (17,9%), Tây Nguyên (20,6%).

9



Bảng 5. Tỉ trọng lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế của
từng vùng năm 2012 (đơn vị: %)
Các vùng

Chia theo nhóm ngành kinh tế
Nông-lâm-ngư

Công nghiệp-Xây dựng

Dịch vụ

Cả nước

47,4

21,2

41,4

TD&MN phía Bắc

69,9

12,1

17,9

ĐB sông Hồng


40,7

29,8

29,5

Bắc Trung Bộ và duyên

54,9

16,9

28,2

Tây Nguyên

71,2

8,2

20,6

Đông Nam Bộ

34,7

33,5

31,8


ĐB sông Cửu Long

52,1

16,6

31,3

hải Nam Trung Bộ

- Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế
Phân loại cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế có ý nghĩa quan
trọng đối với nước ta, đặc biệt trong thời kì chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế có những thay đổi quan
trọng. Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần, bao
gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các
số liệu thống kê lao động - việc làm chia cơ cấu này thành 3 khu vực kinh tế
lớn: kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài (xem bảng 6).

10


Việc sử dụng lao động phân theo các thành phần kinh tế đã có chuyển
biến rõ nét. Năm 1986 được coi là một mốc trên con đường đổi mới kinh tế.
Việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức sản xuất đã tạo
điều kiện cần
thiết cho sự hình thành, tồn tại và phát triển một nền kinh tế nhiều

thành phần. Lao động trong thành phần kinh tế nhà nước không có nhiều biến
động, chiếm 10,4% trong cơ cấu lao động (2012) và có xu hướng giảm,
chuyển sang khu vực kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể, đặc biệt khu vực đầu
tư nước ngoài tăng từ 0,5% năm 1998 lên 3,3% năm 2012. Sự chuyển dịch lao
động từ khu vực nhà nước sang khu vực kinh tế khác đang diễn ra phù hợp
với quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường. Điều này cho thấy
thị trường lao động ở nước ta đã phát triển trong thời gian qua. Tuy vậy, mức
tăng lao động khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài vẫn ở mức thấp
và chậm.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LAO
ĐỘNG
1. Khái niệm Quản lý nhà nước về lao động
Quản lý nhà nước về lao động dưới góc độ pháp luật là những chế định
của luật lao động, các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ quản lý lao
11


động giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, các hành vi quản lý lao
động, các hoạt động sử dụng lao động, vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động…
Quản lý nhà nước về lao động là hình thức quản lý lao động đặc biệt và
có hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Quyền lực, tính bắt buộc chính là những
yếu tố không thể thiếu được và có tính đặc dụng trong trong quản lý nhà nước
về lao động. Đặc điểm về chủ thể quản lý, tính chất quản lý, mục tiêu quản lý
chính là lý do căn bản tạo nên sự khác biệt giữa quản lý nhà nước về lao động
so với các dạng quản lý khác được sử dụng trong các doanh nghiệp, kể cả các
doanh nghiệp nhà nước.
2. Sự khác biệt giữa quyền quản lý lao động của Nhà nước với
quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
2.1. Cơ sở của việc thiết lập quyền quản lý lao động

Quyền quản lý nhà nước về lao động thực chất là sự thể hiện quyền lực
nhà nước trong lĩnh vực lao động nhằm bảo vệ tốt nhất cho các chủ thể tham
gia quan hệ lao động. Nhà nước phải thực hiện bổn phận đảm bảo gìn giữ, bảo
vệ, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn nhân lực. Bởi lẽ, nhân lực là yếu tố
không thể thiếu để thực hiện các hoạt động lao động - hoạt động quan trọng
nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã
hội. Nhà nước phải có trách nhiệm lớn nhất trong việc tổ chức các hoạt động
kinh tế - xã hội, trong đó có việc sử dụng lao động trong các doanh nghiệp và
các đơn vị sử dụng lao động khác. Về phương diện kinh tế - xã hội, việc quản
lý lao động của Nhà nước có vai trò đặc biệt trong việc quản lý nguồn nhân
lực quốc gia, khắc phục những khía cạnh tiêu cực của lao động, làm cho các
quan hệ lao động, quá trình lao động trở nên có tổ chức và có hiệu quả hơn.
Về phương diện pháp lý, Nhà nước là chủ thể có quyền lực pháp lý lớn nhất,
có quyền ban hành và thực thi pháp luật, áp dụng các trách nhiệm pháp lý đối
với tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật1.
Như vậy, cơ sở của việc thiết lập quyền quản lý lao động của Nhà nước
12


trước hết xuất phát từ vị trí, vai trò của Nhà nước trong xã hội, đó là thiết lập,
củng cố và duy trì trật tự xã hội trên thị trường lao động, bảo đảm việc bảo vệ
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức những người lao động trong xã hội - thông qua quyền quản lý nguồn nhân lực
và quản lý lao động bằng pháp luật để có chính sách phát triển, phân bố
nguồn nhân lực, phát triển đa dạng các hình thức sử dụng lao động và giới
thiệu việc làm thông qua hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lao động các
cấp; khuyến khích việc quản lý lao động dân chủ, công bằng, văn minh trong
doanh nghiệp và mọi biện pháp, kể cả việc trích thưởng từ lợi nhuận của
doanh nghiệp, làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp, nhằm đạt hiệu quả cao trong quản lý lao động, sản xuất của
doanh nghiệp; hướng dẫn người lao động và năng suât lao động xây dựng mối

quan hệ lao động hài hòa và ổn định, cùng nhau hợp tác vì sự phát triển của
doanh nghiệp…
Là chủ sử dụng lao động, người sử dụng lao động có quyền quản lý
người lao động.Người sử dụng lao động là người tổ chức, theo dõi, giám sát
việc thực hiện các nhiệm vụ của người lao động trong quá trình lao động. Bởi
lẽ, khi tham gia quan hệ lao động, mỗi người lao động thực hiện các nghĩa vụ
từ hợp đồng lao động mang tính cá nhân, đơn lẻ, song hoạt động lao động của
người lao động là hoạt động mang tính xã hội, vì thế hiệu quả của hoạt động
lao động phụ thuộc vào sự phối hợp, tương tác qua lại của cả tập thể người lao
động dưới sự điều hành của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động
là người được hưởng lợi từ kết quả lao động của người lao động, có nghĩa vụ
trả lương và các quyền lợi khác cho người lao động kể từ thời điểm hợp đồng
lao động có hiệu lực pháp luật. Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao
động là quyền không thể thiếu trong quá trình duy trì mối quan hệ lao động đã
được thiết lập giữa các bên tham gia quan hệ lao động.
Như vậy, hoạt động quản lý lao động của người sử dụng lao động là
quyền mà Nhà nước dành cho các chủ sử dụng lao động. Quá trình thực hiện
13


quản lý lao động, người sử dụng lao động phải tuân thủ các quy định về tuyển
dụng, bố trí, sắp xếp việc sử dụng lao động, bảo đảm môi trường làm việc an
toàn cho người lao động. Quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động
là sự ràng buộc, kiểm soát sự quản lý của người sử dụng lao động trong
khuôn khổ pháp luật và tương quan với sự bình đẳng có tính bản chất của
quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường.
2.2. Mục đích của việc quản lý lao động
Nhà nước thực hiện việc quản lý lao động trong nền kinh tế thị trường
trước hết là để bảo vệ các bên tham gia quan hệ lao động, bảo đảm quyền tự
do của các bên tham gia quan hệ lao động, phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi

phạm pháp luật các bên tham gia quan hệ lao động. Mục đích việc quản lý lao
động của Nhà nước thể hiện sự điều hành cả ở tầm vĩ mô và vi mô đối với quá
trình quản lý lao động, tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thi hành chính sách,
pháp luật lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình lao động.
Quản lý nhà nước về lao động có tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống
xã hội, đặc biệt là các chính sách của Nhà nước đối với xã hội. Trong các giai
đoạn phát triển khác nhau, Nhà nước buộc phải giải quyết hài hòa giữa mục
tiêu tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, do vậy, phải coi
trọng chính sách xã hội là động lực để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời lại
phải coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã
hội. Việc đưa ra các bảo đảm cho người lao động, nhất là về chính sách xã hội
là điều hết sức cần thiết, nhưng phải cân nhắc mức độ phù hợp theo từng thời
kỳ để nâng dần từng bước, có tính đến các khả năng kinh tế chung của đất
nước và khả năng chi trả của người sử dụng lao động, cần xét tới phạm vi,
biện pháp và bước đi nếu không sẽ có thể gây thiệt hại cho chính bản thân
người lao động, trước hết là về việc làm, sau là không đạt được mục tiêu của
chính sách, không bảo vệ được người lao động trong thực tế.
Việc thực hiện quản lý lao động của người sử dụng lao động trước hết
14


là sự thể hiện quyền của người sử dụng lao động trong quan hệ lao động, thể
hiện quan hệ lệ thuộc của người lao động vào người sử dụng lao động, là một
trong những đặc điểm cơ bản của quan hệ pháp luật lao động. Thông qua hoạt
động quản lý lao động của người sử dụng lao động sẽ bảo đảm việc tổ chức
thực hiện quá trình lao động, theo dõi, giám sát người lao động trong quá
trình lao động theo ý đồ của họ. Bằng các hành vi quản lý, người sử dụng lao
động tiến hành việc tuyển chọn người lao động, phân công, sắp xếp công việc,
bảo đảm điều kiện làm việc, tổ chức quản lý quá trình lao động...
Như vậy, mục đích của việc quản lý lao động của người sử dụng lao

động chính là bảo đảm cho quá trình lao động diễn ra có trật tự, tránh tổn thất
tài sản của người sử dụng lao động và kiểm soát hiệu quả việc sử dụng sức
lao động của người lao động nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Bên cạnh đó,
thông qua hoạt động quản lý lao động, người sử dụng lao động có thể nắm bắt
được tâm tư, nguyện vọng của người lao động để có biện pháp bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người lao động hữu hiệu nhất và thông qua đó, thực hiện
tốt các nghĩa vụ mà pháp luật quy định trong quá trình lao động.
2.3. Hình thức thể hiện quyền quản lý lao động
Nhà nước thực hiện quyền quản lý lao động trên cả ba mặt: ban hành
cơ chế, chính sách, pháp luật về lao động; tổ chức thực hiện pháp luật lao
động; theo dõi, kiểm tra, giám sát người sử dụng lao động trong việc tuân thủ
pháp luật lao động trong quá trình lao động; xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật lao động của các bên tham gia quan hệ lao động. Đây là hoạt động quản
lý lao động của Nhà nước nhằm tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các
bên tham gia quan hệ lao động bằng việc quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ
của các bên tham gia quan hệ lao động cũng như các thiết chế thực thi quyền
và nghĩa vụ đó trong thực tiễn; quy định cụ thể nội dung, phương thức quản lý
Nhà nước về lao động, các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp
luật lao động của các bên tham gia quan hệ lao động. Đến nay, hệ thống các
15


văn bản pháp luật về quản lý lao động ở nước ta có thể nói là tương đối đầy
đủ, ở nhiều cấp độ văn bản pháp luật khác nhau. Cụ thể là:
- Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã tạo cơ sở để
xác định các nguyên tắc, nội dung định hướng cơ bản của pháp luật lao động
như: quyền – nghĩa vụ cơ bản của công dân (người lao động và chủ sử dụng
lao động cũng là công dân), quyền – nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp là tổ chức sản xuất, kinh doanh), tổ chức
và hoạt động công đoàn và của tổ chức đại diện người sử dụng lao động...

Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định
thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã
hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến
khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động
(Điều 56).
- Bộ luật Lao động hiện hành điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn có tác
động sâu rộng tới toàn bộ đời sống xã hội, tất cả các thành phần kinh tế, mọi
doanh nghiệp, các tổ chức, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và mọi người
lao động. Cùng với Bộ luật Lao động, Nhà nước còn ban hành một số luật liên
quan đến lĩnh vực lao động, như Luật Công đoàn năm 1990, Luật Người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2006; Luật Bảo hiểm y tế năm 2008, Luật Dạy nghề năm
2006…
- Cụ thể hóa Bộ luật Lao động và các đạo luật trên, Chính phủ đã ban
hành hơn 40 Nghị định, các Bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tổng liên đoàn
Lao động Việt Nam... cũng ban hành hoặc phối hợp ban hành khoảng 100
Thông tư, Thông tư liên tịch quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể việc thi
hành các quy định về pháp luật lao động như Nghị định 39/2003/NĐ-CP
ngày 18/4/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật Lao động về việc làm; Nghị định 139/2006/NĐ-CP ngày 20/11/2006
16


quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động và
Luật Giáo dục về dạy nghề; Nghị định 126/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;...
Người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý lao động của mình
thông qua các hoạt động cơ bản là tuyển chọn, sắp xếp, bố trí lao động; ban
hành nội quy, quy chế, mệnh lệnh, quyết định nhằm bảo đảm việc sắp xếp, bố

trí lao động; tổ chức, điều hành các hoạt động của người lao động; kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ đã giao cho người lao động; xử lý vi
phạm của người lao động… Thông qua các hình thức này, hoạt động quản lý
lao động của người sử dụng lao động có liên quan trực tiếp đến việc tạo lập
môi trường lao động cho người lao động. Các hình thức thực hiện quyền quản
lý lao động của người sử dụng lao động phải thực hiện trên cơ sở quy định
của pháp luật. Trong quá trình quản lý lao động nếu người sử dụng lao động
có hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.
2.4. Biện pháp thực hiện quản lý lao động
Hoạt động quản lý lao động của Nhà nước được bảo đảm thực hiện
bằng quyền lực nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quản lý lao động.
Pháp luật lao động hiện hành quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý Nhà nước về lao động. Theo đó,
Ủy ban quan hệ lao động có chức năng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ
chế, chính sách, giải pháp xây dựng quan hệ lao động lành mạnh; xây dựng cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan đến vệc phòng ngừa, giải
quyết tranh chấp lao động, đình công. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực việc làm, dạy nghề, lao
động, tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động… trong phạm
vi cả nước theo quy định tại Nghị định 186/2006/NĐ-CP ngày 25/12/2007
của Chính phủ. Công tác quản lý Nhà nước về lao động ở địa phương do Ủy
17


ban nhân dân các cấp thực hiện thực hiện theo quy định của Thông tư liên tịch
số 10/2008/TTLT-LĐTBXH-BNV ngày 10/07/2008 giữa Bộ Lao động Thương binh và Xã hội với Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh, huyện và nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động của Ủy ban
nhân dân cấp xã. Một đặc điểm đáng chú ý khi đề cập đến cơ quan quản lý lao
động, đó là sự tham gia của tổ chức công đoàn trong công tác quản lý nhà

nước về lao động trong doanh nghiệp và tổ chức đại diện của người lao động
là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh hợp tác xã Việt
Nam.
Người sử dụng lao động thực hiện quyền quản lý lao động của mình
thông qua hợp đồng lao động, sổ lao động, hệ thống thang bảng lương, nội
quy, kỷ luật lao động và thỏa ước lao động tập thể và các biện pháp khác. Các
quy định pháp luật hiện hành đã tạo điều kiện và trao quyền cho người lao
động, người sử dụng lao động thỏa thuận những điều kiện lao động thuận lợi
cho người lao động như giảm giờ làm việc trong tuần, tăng số ngày nghỉ hàng
năm, ngày nghỉ vì việc riêng, tiền lương, thưởng hàng tháng, thưởng lương
tháng thứ 13, thưởng từ lợi nhuận của doanh nghiệp; nghỉ học tập, hội họp
đoàn thể tính vào giờ làm việc; hỗ trợ tiền ăn giữa ca, tiền xăng xe, tiền tàu xe
khi nghỉ hàng năm, tiền thuê nhà trọ; gửi lao động đi bồi dưỡng nâng cao
trình độ; mua bảo hiểm thương mại, bảo hiểm nhân thọ cho một số người lao
động….
Như vậy, khác với biện pháp quản lý lao động của Nhà nước thông qua
các biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước như xử lý hình sự, xử phạt vi
phạm hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho các bên thỏa thuận xây dựng
quan hệ lao động hài hòa cả ở tầm vĩ và vi mô, thì biện pháp quản lý lao động
của người sử dụng lao động mang tính chất tác động đến hành vi xử sự cụ thể
của người lao động trong quá trình lao động. Các biện pháp tác động quản lý
Nhà nước của NSDLĐ vừa mang tính cưỡng chế trên cơ sở pháp luật, vừa
18


mang tính động viên, khuyến khích người lao động trong quá trình lao động.

19



CHƯƠNG II
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TRONG LĨNH VỰC LAO ĐÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Các giải pháp nâng cao hiệu của của quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực lao động
Một là, hoạt động quản lý Nhà nước về lao động phải tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ lao động, không can thiệp trực tiếp
vào quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, quyền thương
lượng và tự định đoạt của các bên quan hệ lao động theo quy định của pháp
luật lao động. Nhà nước quy định hành lang pháp luật hợp lý và mềm dẻo để
cả người lao động và người sử dụng lao động có thể thực hiện được; hạn chế
tối đa sự can thiệp hành chính vào quan hệ lao động của hai bên, bảo đảm hài
hoà lợi ích của các chủ thể trong quan hệ lao động; tạo điều kiện để các bên
cùng nhau thương lượng, đạt được thoả thuận về những điều kiện thuận lợi
hơn cho người lao động so với quy định pháp luật lao động. Đồng thời, hướng
dẫn hai bên xây dựng mối quan hệ lao động mới, hài hoà và ổn định vì sự
phát triển của doanh nghiệp và sự phồn vinh của đất nước.
Hai là, quản lý Nhà nước về lao động phải phù hợp với sự phát triển
của thị trường lao động ở hiện tại và tương lai, nhất là công tác thông tin, quy
hoạch phát triển thị trường lao động.
Thời gian qua, công tác hệ thống dự báo ở cấp quốc gia cũng như ở
từng địa phương và thông tin thị trường lao động chưa được quan tâm thích
đáng đã dẫn đến công tác hướng dẫn, định hướng hoạt động thị trường lao
động còn bị động, hiệu quả thấp; đào tạo chưa gắn với nhu cầu; người lao
động và người thất nghiệp thiếu thông tin về việc làm; Người sử dụng lao
động thiếu thông tin về cung cầu trên thị trường lao động, ảnh hưởng đến đầu
tư, phát triển sản xuất; cơ quan quản lý nhà nước thiếu thông tin để phân tích,
đánh giá và xây dựng chính sách thị trường lao động phù hợp với nhu cầu
20



phát triển ngày càng cao của nền kinh tế.
Không những thế, quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội, đô thị chưa
đồng bộ, chưa tính đến phát triển nguồn nhân lực của từng tỉnh, từng vùng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa kéo theo hiện tượng đô thị hóa khá tập trung,
không đồng đều giữa các tỉnh, các vùng và phát triển không đồng bộ đã gây
nên sự chênh lệch ở các địa phương. Nơi tập trung quá nhiều khu công
nghiệp, khu chế xuất lại là nơi dân số ít, nguồn lao động không nhiều. Một
số địa phương tập trung thu hút đầu tư để phát triển kinh tế, không tính toán
đến cung cầu lao động cũng như hạ tầng cơ sở đáp ứng yêu cầu dịch chuyển
lao động.
Do vậy, trong công tác quản lý nhà nước về lao động, Nhà nước cần
xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, dự báo xu hướng việc làm,
nhu cầu của người sử dụng lao động, chi phí đào tạo, tỷ lệ hoàn trả của đào
tạo,… Đồng thời cung cấp đầy đủ các thông tin về dự báo kinh tế, triển vọng
đầu tư, các dự án phát triển, trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ dự kiến phát
triển kinh tế, nhu cầu nguồn nhân lực và chủ động xây dựng các kế hoạch
nhân lực của mình. Đặc biệt cần đầu tư công tác thống kê, phân tích dữ liệu
thông tin thị trường lao động ở các tỉnh, thành phố và thiết lập hệ thống thông
tin giữa các tỉnh nhằm cung cấp, điều phối lao động. Nói khác đi, quản lý Nhà
nước về lao động cần có sự kết hợp hài hòa giữa các quy định pháp luật, cơ
quan quản lý lao động, các phương pháp quản lý Nhà nước với công tác thống
kê, xây dựng chiến lược, quy hoạch sử dụng lao động, nhất là định hướng và
dự báo nhu cầu lao động trong xã hội để người lao động và người sử dụng lao
động chủ động trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu lao động tránh sử dụng
nguồn nhân lực lãng phí, bóc lột nhân công.
Ba là, quản lý Nhà nước về lao động phải giải quyết hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là việc bảo vệ quyền lợi
cho người lao động.
21



Số lượng lao động nước ta hàng năm đều tăng, song chất lượng, trình
độ học vấn của người lao động còn khá thấp. Đến năm 2008, tỷ lệ lao động
chưa biết chữ là 4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là 12,01%, tốt nghiệp tiểu học là
28,34%, tốt nghiệp THCS là 32,08% và tốt nghiệp THPT là 23,56%; năm
2008, tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 37% và qua đào tạo nghề khoảng
26%. Có thể nói, thị trường lao động nước ta đa phần là lao động phổ thông,
lao động chưa qua đào tạo. Do vậy, cùng với việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực thì việc tạo lập các công cụ, biện pháp bảo vệ hữu hiệu cho người
lao động cũng cần phải được quan tâm. Công tác quản lý Nhà nước phải tạo
điều kiện thuận lợi cho người lao động tìm kiếm việc làm qua các kênh thông
tin thị trường, hội chợ việc làm, các biện pháp hỗ trợ người lao động về vật
chất và tinh thần…
Thời gian qua, Nhà nước ta đã có những nỗ lực nhằm từng bước cải
thiện mức sống và môi trường làm việc cho người lao động như chính sách
nhà ở cho người có thu nhập thấp, chế độ bảo hiểm thất nghiệp, chế độ làm
thêm giờ, chính sách riêng cho lao động nữ, người lao động khuyết tật, chăm
lo đời sống người lao động khi có biến động về kinh tế - xã hội; chính sách
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, huy động các nguồn lực xã hội
cùng chung tay đào tạo nghề cho người lao động… thực sự đã bảo đảm sự
phát triển hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy vậy, các thiết chế bảo vệ quyền cho người lao động chưa thật sự phát huy
hết vai trò, tác dụng của nó. Chẳng hạn, chưa ngăn chặn được tình trạng
người sử dụng lao động cố tính ký các hợp đồng lao động dưới ba tháng nhằm
trốn tránh đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; môi trường làm việc
không bảo đảm; số lượng thanh tra viên lao động thấp mới chỉ đạt khoảng
40% yêu cầu so với số doanh nghiệp (theo tiêu chí của Tổ chức Lao động
quốc tế, thì cả nước cần phải có số lượng khoảng 800 đến 1.000 thanh tra viên
lao động); với số lượng thanh tra viên hiện có, hàng năm cũng chỉ thanh tra

được khoảng 3,4% tổng số doanh nghiệp trong cả nước…
22


Bốn là, nâng cao vị trí, vai trò của Nhà nước trong việc định hướng,
điều tiết thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường không phải là thay
thế thị trường, mà là cải thiện các chức năng của nền kinh tế thị trường. Hơn
nữa, bất cứ quyết định nào nhằm quy định hoặc can thiệp vào hoạt động của
các lực lượng thị trường (cung và cầu) đều phải được cân nhắc cẩn thận giữa
cái hại do các quy định đó đưa ra với lợi ích mà các can thiệp đó đem lại.
Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt hơn trong việc quản lý quan hệ lao động,
bởi việc sử dụng, khai thác nguồn nhân lực quốc gia có tác động trực tiếp tới
việc thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước. Với mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, con người có điều kiện phát triển
toàn diện thì việc Nhà nước bảo đảm môi trường pháp lý, thể chế thuận lợi
cho việc xác lập quan hệ lao động là vấn đề cốt lõi. Do đó, việc xác định cụ
thể những nội dung nào Nhà nước cần quản lý, nội dung nào Nhà nước giao
cho các chủ sử dụng lao động quản lý, tức là Nhà nước cần hạn chế đến mức
thấp nhất sự can thiệp không cần thiết vào các quan hệ lao động. Để làm được
điều này, Nhà nước cần chủ động xây dựng một bộ máy chuyên trách làm
nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lao động, đồng thời sử dụng có hiệu quả các
thiết chế tự quản của người lao động và người sử dụng lao động trong quá
trình sử dụng lao động.
Thực chất của việc phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý lao
động chính là việc Nhà nước phát huy vai trò của bên thứ ba trong cơ chế ba
bên, bởi lẽ, trong nền kinh tế thị trường, cơ chế ba bên được coi là phương
thức tổ chức quan trọng nhằm tăng cường đối thoại xã hội để hướng tới mục
tiêu căn bản là xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và giữ gìn
hòa bình công nghiệp. Về bản chất, cơ chế ba bên là một quá trình dân chủ

hoá mối quan hệ lao động, là cơ chế hợp tác, chia sẻ quyền lực và trách nhiệm
giữa Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động. Nhà nước không
chỉ đứng ở vị trí chủ thể quản lý xã hội để áp đặt quyền lực của mình lên hành
23


vi của các chủ thể khác, mà cần có sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của các bên
tham gia quan hệ lao động. Nhà nước phải chấp nhận “chuyển” một phần
quyền lực của mình sang cho các đối tác xã hội khác. Về phía người sử dụng
lao động, trở thành một đối tác bình đẳng với người lao động cũng có nghĩa
người sử dụng lao động chia sẻ một phần quyền lực của mình cho người lao
động. Và như vậy, Nhà nước sẽ không “một mình” hoạch định, ban hành
chính sách, pháp luật về lao động và những vấn đề có liên quan buộc người sử
dụng lao động và người lao động chấp hành. Người sử dụng lao động cũng sẽ
không hành xử theo lối áp đặt quyền lực của mình cho người lao động. Ngược
lại, những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi sẽ được giải quyết một
cách hài hòa nhất nếu được ba bên cùng trao đổi, bàn bạc, thương lượng và
quyết định, trong đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất.
Năm là, hoạt động quản lý Nhà nước về lao động phải tạo điều kiện
thuận lợi cho tổ chức công đoàn tham gia có hiệu quả vào hoạt động quản lý
lao động.
Theo Báo cáo của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, cả nước đã có
khoảng 93.000 công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn với khoảng 6,1 triệu đoàn viên,
trong đó 71.000 công đoàn cơ sở thuộc khu vực nhà nước, với khoảng 3,8
triệu đoàn viên, 22.000 công đoàn cơ sở thuộc khu vực ngoài nhà nước với
khoảng 2,3 triệu đoàn viên. Công đoàn đã phối hợp với doanh nghiệp trong
việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tư vấn pháp luật
cho người lao động. Công đoàn đã thành lập được 47 trung tâm và văn phòng
tư vấn pháp luật, 394 tổ tư vấn pháp luật tại 56 Liên đoàn lao động cấp tỉnh,
công đoàn ngành với gần 1.000 tư vấn viên pháp luật và đã tư vấn thực hiện

miễn phí cho 50.000 lượt công nhân lao động. Công đoàn thường xuyên tham
gia, phối hợp tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật lao động, luật công
đoàn tại các địa phương, doanh nghiệp. Hàng năm ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội đã phối hợp với công đoàn tổ chức kiểm tra liên ngành việc
thực hiện pháp luật lao động, Luật Công đoàn tại các địa phương, doanh
24


nghiệp nhằm phát hiện, uốn nắn, xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật và kịp
thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong thực tế để kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về quản lý lao động của người sử dụng lao động. Trong thời
gian từ năm 2003 đến năm 2007, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đã tham
gia với Nhà nước xây dựng 84 dự án luật, pháp lệnh, nghị định và thông tư.
Ngoài ra, Công đoàn còn tham gia nhiều văn bản quy phạm nội bộ của địa
phương, ngành. Trong các văn bản pháp luật đó, có nhiều văn bản liên quan
đến người lao động, người sử dụng lao động như Luật Bảo hiểm xã hội; Luật
Dạy nghề, Luật đưa Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng, Bộ luật Lao động hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên, số lượng công đoàn cơ sở được thành lập còn thấp, hiện còn
80% doanh nghiệp dân doanh và 60% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
chưa thành lập được công đoàn cơ sở. Năng lực, kỹ năng của cán bộ làm công
các công đoàn cơ sở vừa thiếu, vừa yếu, chưa được đào tạo về nghiệp vụ. Do
đó, đa số công đoàn cơ sở chưa làm tốt vai trò là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua các hoạt động như giám sát
việc thực hiện pháp luật, yêu cầu doanh nghiệp giải quyết các kiến nghị của
người lao động; công đoàn cơ sở chưa làm tốt vai trò là “người chủ thực sự”
khi tham gia xây dựng thỏa ước lao động tập thể, thỏa thuận thang bảng lương,
đề nghị doanh nghiệp cung cấp thông tin và tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, nhất là những khó khăn để kịp thời thông báo với người lao
động. Nội dung hoạt động của tổ chức công đoàn còn đơn giản, mới chỉ tập

trung vào việc thăm hỏi, động viên người lao động lúc ốm đau, ma chay, hiếu
hỉ; môi trường và điều kiện làm việc của người làm tổ chức công đoàn tại các
doanh nghiệp rất khó khăn, phần lớn là các cán bộ kiêm nhiệm, chưa thoát ly
khỏi quyền lợi của chủ doanh nghiệp…
Do đó, để nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong quản lý nhà
nước về lao động hiện nay, Nhà nước cần tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ công đoàn; cho phép tổ chức công
25


×