Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Phát triển du lịch gắn bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể tại Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.34 KB, 34 trang )

Phát triển du lịch gắn bảo tồn và phát huy giá trị
của di sản văn hóa vật thể tại Hải Dương
Nguyễn Thị Sao
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Du lịch
Chuyên ngành: Du lịch; Mã số: Chương trình đào tạo thí điểm
Người hướng dẫn: TS. Trần Thúy Anh
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về bảo tồn di sản văn hóa. Nghiên cứu hoạt động
bảo tồn di sản và mối tương quan trong khai thác di sản để phục vụ phát triển du lịch cả
tích cực và tiêu cực tại các di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Tìm hiểu thực
trạng phát triển du lịch tại Hải Dương, việc khai thác gia trị văn hoá lịch sử tại các di tích
trong phát triển du lịch; Nhận diện các vấn đề đặt ra cho công tác bảo tồn di sản văn hóa
tại các di tích này. Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch
vào quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị của các di tích CônSơn, Kiếp Bạc, Chu Văn
An, Văn Miếu Mao Điền của tỉnh Hải Dương.
Keywords. Du lịch; Di sản văn hóa; Văn hóa vật thể; Hải dương; Bảo tồn văn hóa

Content.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di tích chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, đền Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền là các
di tích lịch sử văn hóa và danh thắng đặc biệt quan trọng của quốc gia. Mảnh đất này,
từng in dấu những kỷ niệm sâu sắc về Bác Hồ, về các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng,
Nhà nước ta và nhiều bạn bè quốc tế... Uy đức của họ đã góp phần hun đúc nên hồn
thiêng sông núi, để lại tiếng vang muôn thuở. Vì vậy, Hải Dương một trong những cái
nôi sản sinh và hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của cư dân châu thổ Bắc Bộ.
Hoạt động du lịch và hoạt động bảo tồn phải luôn luôn tồn tại song song trong quỹ
đạo của lịch sử và xã hội. Với định hướng như vậy, đề tài tập trung nghiên cứu vai trò tích
cực của hoạt động du lịch trong việc phát huy các giá trị lịch sử văn hoá tiêu biểu của di

1




sản, hoá tại một số di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương như di tích chùa Côn
Sơn, đền Kiếp Bạc, đền Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền. Đây là một trong những cụm
di tích được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay các di tích này chưa thực
sự phát huy hết được những giá trị nổi bật và chưa có sự gắn kết nhiều với hoạt động du
lịch. Những giá trị văn hoá tiêu biểu của các di tích lịch sử có sự thuận lơi của giao thông
đi lại cùng với quy hoạch đặt nó trong sự phát triển của du lịch chắc chắn sẽ góp phần bảo
tồn và làm cho hoạt động du lịch Hải Dương thêm phát triển. Nhận thức được tầm quan
trọng của việc phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản tại đây, người viết đã chọn đề tài:
“Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể tại Hải
Dương ” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành du lịch học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp có thể vận dụng góp phần phát triển du lịch gắn với bảo
tồn và phát huy giá trị của di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc, Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền
tại Hải Dương.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về bảo tồn di sản văn hóa
- Nghiên cứu hoạt động bảo tồn di sản và mối tương quan trong khai thác di sản để
phục vụ phát triển du lịch cả tích cực và tiêu cực tại các di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh
Hải Dương.
- Tìm hiểu thực trạng phát triển du lịch tại Hải Dương, việc khai thác gia trị văn hoá
lịch sử tại các di tích trong phát triển du lịch; Nhận diện các vấn đề đặt ra cho công tác
bảo tồn di sản văn hóa tại các di tích này.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch vào quá
trình bảo tồn và phát huy các giá trị của các di tích CônSơn, Kiếp Bạc, Chu Văn An, Văn
Miếu Mao Điền của tỉnh Hải Dương
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các di sản văn hóa vật thể tiêu biểu trên địa bàn
tỉnh Hải Dương bao gồm cụm di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc, đền Chu Văn An, Văn Miếu
Mao Điền; Trong điều kiện có thể mở rộng đến các đối tượng quản lý khác để so sánh.

2


3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa du lịch và di sản văn hoá bao gồm di
sản văn hoá vật thể về cả lý luận và thực tiễn. Các nghiên cứu thực tiễn được tiến hành tại
các điểm di tich tại Hải Dương. Nơi đây lưu giữ những di sản văn hoá vật thể và phi vật
thể phong phú và đa dạng.
3.2.1. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực tiễn của hoạt động du lịch gắn với bảo tồn và
phát huy giá trị của của các di sản văn hóa vật thể tiêu biểu tại tỉnh Hải Dương.
3.2.2. Phạm vi không gian
Khu di tích lịch sử và danh thắng Côn Sơn nằm trên địa bàn nằm trên địa bàn phường
Cộng Hòa và xã Lê Lợi. Di tích đền Kiếp Bạc ở xã Hưng Đao, đền thờ Chu Văn An ở xã Văn
An, ba di tích này đều thuộc thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Di tích Văn miếu Mao Điền
thuộc xã Mao Điền huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
3.2.3. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu các di tích lịch sử và danh thắng Côn Sơn ,Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn
An, Văn Miếu Mao Điền và hoạt động du lịch, bảo tồn của các di tích từ khi có Luật Di
sản đến nay (2001 trở lại đây).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp thu thập, xử lý tài liệu
- Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp
- Phương pháp khảo sát thực tế tại khu di tích
- Phương pháp chuyên gia:
5. Bố cục của luận văn

Ngoài mỏ đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương như sau:
- Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về bảo tồn di sản văn hóa trong kinh doanh du lịch
- Chƣơng 2: Thực trạng bảo tồn di sản và khai thác du lịch tại các di tích tiêu biểu ở
Hải Dương
- Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp góp phần phát triển du lịch gắn với bảo tồn di
sản văn hóa ở Hải Dương

3


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HOÁ TRONG KINH
DOANH DU LỊCH
1.1. Định nghĩa về Di sản văn hóa
Trong Điều 1 của Luật Di sản văn hóa : “Di sản văn hóa gồm DSVH vật thể và
DSVH phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học
được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam [40,12].
Như vậy di sản văn hóa được khái quát lại là tổng thể những tài sản văn hóa truyền
thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết và đưa vào sử dụng nhằm đáp
ứng những nhu cầu và đòi hỏi của hiện tại [60,3].
Di sản văn hóa vật thể là: “ DSVH vật thể là những sản phẩm vật chất có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền lâu đời trong đời sống của các dân tộc, bao gồm
các di tích lịch sử - văn hóa, các công trình xây dựng kiến trúc, mỹ thuật, các danh lam
thắng cảnh, các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [40,13].
1.2. Vai trò của di sản văn hoá trong kinh doanh du lịch
Di sản văn hóa là nguồn lực cho phát triển du lịch.
Di sản văn hóa là nguồn tài nguyên chủ yếu của du lịch. Môi trường thiên nhiên và
môi trường văn hóa, nhân văn có vai trò đặc biệt quan trọng đối với du lịch vì chúng

chính là nguồn tài nguyên, là yếu tố cơ bản để tạo ra sản phẩm du lịch, phát triển các loại
hình du lịch.
Di sản văn hóa còn góp phần cấu thành nên môi trường văn hóa cho hoạt động du
lịch. Văn hóa làm cho khách du lịch sung sướng, vừa lòng, có những tình cảm tốt lành,
những kỷ niệm đẹp cho khách sau những chuyến đi thú vị
1.3. Các nguyên tắc của bảo tồn di sản văn hoá và bảo tồ n di sản văn hóa trong du
lịch
1.3.1. Nguyên tắ c bảo tồ n di sản văn hóa
Di sản văn hóa cần được bảo vệ vì nó là một thành tố quan trọng trong việc hình
thành nên bản sắc văn hóa của một cộng đồng.

4


Bảo tồn các di sản văn hóa là một hoạt động nhằm mục đích lưu giữ , bảo vệ các di
sản văn hóa đang có nguy cơ biến mất vì lý

do này hay lý do khác. Bảo tồn bao gồm

nhiều hoạt động khác nhau như việc điều tra, nghiên cứu, bảo quản, tu bổ, phục dựng.
Bảo tồn được coi là một lĩnh vực khoa học chuyên ngành với những yêu cầu về kỹ năng
riêng biệt. Bên cạnh đó việc bảo tồn các di sản văn hóa vật thể phải tuân thủ các nguyên
tắc về việc trùng tu, tôn tạo, bảo quản.
Khi bảo tồn di sản văn hóa, mỗi cá nhân, tổ chức cần phải hiểu di sản là tài sản, niềm
tự hào, nền văn hóa của chính người dân sở tại. Chính vì điều này mà nguyên tắc đầu tiên
trong bảo tồn di sản văn hóa cần phải đảm bảo , đó là cân bằng lợi ích giữa bảo tồn văn
hóa và lợi ích kinh tế.
Di sản văn hóa cần được nhìn nhận như một bộ phận hữu cơ trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Kinh tế và di sản văn hóa là hai yếu tố tương tác, phụ thuộc và bổ
sung cho nhau. Và do đó, việc bảo tồn di sản văn hóa không được cản trở, mà ngược lại,

còn phải tạo ra động lực cho phát triển xét dưới góc độ tác động tới việc hình thành nhân
cách con người và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ trực tiếp cho phát triển.
Di sản văn hóa phải được gắn với con người và cộng đồng cư dân địa phương (với tư
cách là chủ thể sáng tạo văn hóa và chủ sở hữu tài sản văn hóa), coi việc đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt văn hóa lành mạnh của đông đảo công chúng trong xã hội là mục tiêu hoạt
động.
1.3.2. Nguyên tắ c bảo tồ n di sản văn hóa gắ n với phát triển du lich
̣
Khi gắn kết các di sản với hoạt động du lịch, không thể chỉ nhìn thấy Di sản là
những giá trị được hình thành qua quá trình lịch sử, phản ánh đời sống của cộng đồng;
bao gồm những giá trị vật thể và phi vật thể.
Khai thác và phát huy di sản văn hóa phải được coi là một nguồn tài nguyên tạo nền
móng cho hoạt động du lịch phát triển bền vững.
Phát triển du lịch bền vững cũng được coi là nguyên tắc cần đảm bảo trông bảo tồn
di sản văn hóa.
Sự tham gia của cộng đồng dân cư trong kinh doanh du lịch và bảo tồn di sản là rất
quan trọng nó được thể hiện ở việc cư dân địa phương được tham gia vào các hoạt động
kinh doanh du lịch .

5


1.4. Mối quan hệ giữa du lịch và bảo tồn di sản văn hoá
1.4.1. Những tác động tích cực của du lịch tới bảo tồn các di sản
Sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp vào việc chấn hưng và bảo tồn các di sản
văn hóa. Doanh thu của các hoạt động du lịch được sử dụng cho việc tu bổ các di tích,
chỉnh lý các bảo tàng, đồng thời khôi phục các di sản văn hóa. Du lịch góp phần làm cho
các di tích sống lại, vì du lịch không chỉ đưa di sản văn hóa đến với công chúng mà còn
tiếp sức cho di sản bằng nguồn lợi ích mà nó khai thác từ di sản, góp phần tái tu bổ di
tích.

1.4.2. Những tác động tiêu cực của du lịch tới bảo tồn các di sản
Đối với các di sản văn hóa vật thể đặc biệt là những di sản có giá trị toàn cầu nổi
bật thì khách tham quan du lịch và sự bùng nổ số lượng khách tham quan đã và đang trở
thành mối nguy cơ đe dọa việc bảo vệ các di sản.
Hoạt động du lịch ồ ạt có nguy cơ làm suy thoái tài nguyên du lịch tự nhiên. Sự
tập trung quá nhiều người và thường xuyên tại địa điểm du lịch làm cho thiên nhiên
không kịp phục hồi và đi đến chỗ bị huỷ hoại. Mặt khác, do số lượng công trình phục vụ
khách tăng lên nhanh chóng tại các điểm du lịch, đặc biệt là tại các điểm có di sản vượt
quá khả năng chịu tải của cơ sở hạ tầng nên chúng bị xuống cấp trầm trọng, góp phần gia
tăng mức ô nhiễm môi trường.
Tiểu kết chương 1
Bảo tồn các di sản văn hóa là yếu tố quan trọng để giúp các di tích phát triển vì
các di sản văn hóa được coi là nguồn tài nguyên quan trọng góp phần phát triển hoạt động
du lịch. Khi bảo tồn các di sản văn hóa trong hoạt động kinh doanh du lịch do cần đảm
bảo các nguyên tắc cần bằng lợi ích giữa bảo tồn với phát triển kinh tế, chú trọng tới việc
thúc đẩy sự tham ra của các cơ sở kinh doanh du lịch, cộng động dân cư vào các hoạt
động bảo tồn, không ngừng tằng cường nhận thức về bảo tồn cho cộng đồng bằng các
chương trình giáo dục nhận thức về di sản một cách cụ thể. Từ đó thúc đẩy mối quan hệ
tích cực của du lịch tới bảo tồn di sản.
Một điều đáng lưu ý là, hoạt động bảo tồn có thể vẫn diễn ra dù có hay không hoạt
động khai thác du lịch bởi lẽ chúng ta bảo tồn di sản trước hết vì chính bản thân giá trị
văn hóa của di sản ấy. Tuy nhiên du lịch sẽ thể hiện vai trò của mình như một cầu nối

6


sống động đưa di sản vào dòng chảy hiện đại thay vì chỉ đơn thuần là một minh chứng
cho quá khứ.
CHƢƠNG 2.THỰC TRẠNG BẢO TỒN DI SẢN VÀ KHAI THÁC DU LỊCH TẠI
CÁC DI TÍCH TIÊU BIỂU Ở HẢI DƢƠNG

2.1. Khái quát về tỉnh Hải Dƣơng
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
- Địa hình
- Khí hậu
- Nguồn nước.
- Sinh vật
2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
- Dân cư và phân bố dân cư
- Mạng lưới giao thông
- Hệ thống thông tin liên lạc
- Hệ thống điện
- Về kinh tế
2.2. Các di sản văn hoá vật thể tiêu biểu tại tỉnh Hải Dƣơng
2.2.1. Di tích chùa Côn Sơn
Khu di tích Côn Sơn có hai dãy núi Kỳ Lân và Ngũ Nhạc, gồm chùa Côn Sơn, Bàn
Cờ tiên, Thạch Bàn, Giếng Ngọc, am Bạch Vân, đền Nguyễn Trãi, động Thanh Hư, cầu
Thấu Ngọc, có Ngũ Nhạc linh từ...
* Chùa Côn Sơn
Chùa Côn Sơn nhìn về hướng Đông Nam, tên chữ là “Thiên Tư Phúc tự”, nghĩa là
ngôi chùa được trời ban phúc lành, thời Trần thuộc xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, nay
thuộc phường Cộng Hoà, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Năm 1962, thực hiện Nghị định của Thủ tướng Chính phủ về việc bảo vệ các di
sản văn hoá dân tộc, khu di tích Côn Sơn được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá
Quốc gia.
Năm 1992, khu di tích này được xếp hạng là di tích lịch sử - danh thắng đặc biệt quan
trọng quốc gia.

7



Bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị lịch sử văn hoá của khu di tích Côn Sơn trong
công cuộc đổi mới, mở rộng giao lưu quốc tế là việc làm có ý nghĩa chiến lược, cấp thiết
được Đảng và Nhà nước quan tâm.
* Đền Thanh Hư
Đền Thanh Hư thờ Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán thuộc quần thể di tích Côn Sơn.
Trần Nguyên Đán (1325 - 1390) hiệu là “Băng Hồ”, con của Uy Túc hầu Trần Văn Bích chắt của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên
Trường (nay là xã Mỹ Phúc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định). Trần Nguyên Đán thuộc họ
Tôn Thất, nên từ sớm được bổ nhiệm làm quan theo quy chế tập chức.
Hơn 30 năm làm quan, Trần Nguyên Đán là Tướng quốc của ba triều vua: Trần Dụ
Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông.
* Di tích miếu Ngũ Nhạc
Miếu được xây dựng trên năm đỉnh núi Ngũ Nhạc thuộc thôn An Mô, xã Lê Lợi, thị
xã Chí Linh. Núi có chiều dài 4390 m đỉnh cao nhất là 238 m. Trải qua bao năm tháng
cùng sự phá hoại của thời gian, mưa nắng, những miếu thờ trên đỉnh Ngũ Nhạc chỉ còn là
những ban thờ lộ thiên kiến trúc đơn sơ bằng đá trát vữa vôi có hình chữ nhật với chiều
dài 3m,rộng 2m, cao 1m. Đây thực sự là những di tích quý giá cần được khôi phục.
Sau hơn một năm thi công, ngày 16 tháng giêng năm Bính Tuất (tức ngày 13/2/2006) lễ
khánh thành năm miếu thờ trên núi Ngũ Nhạc cùng hệ thống đường bộ hành lên núi đã được
tổ chức. Các ngôi miếu đều quay về hướng Nam - nơi có hồ Côn Sơn quanh năm nước biếc.
* Bãi Giễ
Bãi Giễ nằm ở phía Nam chân núi Côn Sơn, diện tích khoảng 15ha. Cây giễ cứ héo
rồi lại xanh tiếp nhau phủ kín diện tích rộng lớn ấy, năm này qua năm khác mà chẳng ai
phải mất công chăm sóc.
* Giếng Ngọc
Dưới chân tháp tổ Huyền Quang là Giếng Ngọc, nước trong vắt mát lạnh. Người xưa
cho rằng, giếng Ngọc là huyệt mạch của núi Côn Sơn và là mắt của con Kỳ Lân. Tương
truyền, đêm rằm tháng bảy, sư tổ Huyền Quang mơ thấy vị thần dẫn đi về phía sau chùa chỉ
cho viên ngọc sáng lấp lánh dưới chân núi.
* Suối Côn Sơn

Suối bắt nguồn bởi 2 dãy núi Côn Sơn và Ngũ Nhạc, dài khoảng 3km uốn lượn
tạo nhiều ghềnh thác kế tiếp nhau rồi đổ ra hồ Côn Sơn. Dòng suối hẹp, cây cối um

8


tùm mang dáng vẻ hoang sơ, thơ mộng. Suối Côn Sơn đã đi vào thơ ca Nguyễn Trãi:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm; Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”.
Suối Côn Sơn chảy rì rào quanh năm suốt tháng, bên suối có hai tảng đá lớn tương
đối bằng phẳng gọi là Thạch Bàn.
* Bàn Cờ Tiên
Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, không biết từ bao giờ nhân dân trong vùng
gọi là Bàn Cờ Tiên. Tương truyền ở đây có nền của Am Bạch Vân, một kiến trúc cổ được
xây dựng từ thế kỷ XIV nhà Trần, thời Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang tu hành ở chùa
Côn Sơn. Am Bạch Vân là nơi các vị cao tăng thường lên đây tu luyện, hoặc giảng kinh,
thuyết pháp cho các môn đệ.
* Đăng Minh Bảo Tháp
Sau khi Sư tổ Huyền Quang viên tịch tại chùa Côn Sơn (1334), Vua Trần Minh
Tông cúng dường 10 lạng vàng xây tháp cho thiền sư, lấy tên là Đăng Minh Bảo Tháp,
đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả.
* Nền nhà Nguyễn Trãi
Phía sau công trình đền thờ Trần Nguyên Đán 200m, là dấu tích nền nhà cũ của Anh
hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi. Nơi đây, gần 600 năm trước (từ
năm 1435 - 1442) Nguyễn Trãi đã về đây nương theo sườn núi, lấy cây rừng đá núi dựng
nên nếp nhà đơn sơ nhưng ấp ủ trong đó là một con người có tâm hồn, nhân cách, tài năng
vĩ đại.
Hiện nay, dấu tích ngôi nhà xưa chỉ còn lại nền nhà bằng phẳng dài 17m, rộng 7m
nằm bên cạnh Thạch Bàn.
* Đền thờ Nguyễn Trãi
Đây là công trình xây dựng để tưởng niệm Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế

giới Nguyễn Trãi.. Ngày 14/12/2000, UBND tỉnh Hải Dương đã quyết định khởi công xây
dựng đền thờ Nguyễn Trãi tại Côn Sơn với tên gọi Ức Trai linh từ.
Đền thờ Ức Trai được xây dựng trên diện tích một vạn m2 chia cắt bằng năm cung bậc cao
thấp trải dài kế tiếp nhau.
Ngôi đền được xây dựng ở cung bậc thứ 5, theo kiến trúc thời Lê, đề tài trang trí trên
các bức cốn, đầu dư, xà nách là "Tứ linh hội hợp", trên các cánh cửa trạm đề tài: "Tứ quý
uyên ương". Hoành phi câu đối trong đền do Viện Nghiên cứu Hán nôm sưu tầm tuyển chọn.
Nội dung của hoành phi câu đối thể hiện tâm hồn, nhân cách cao đẹp, tài năng và công đức

9


lớn của Nguyễn Trãi, đồng thời thể hiện thái độ tôn vinh, tấm lòng biết ơn đối với Nguyễn
Trãi.
* Lễ hội chùa Côn Sơn
Từ xưa, chùa Côn Sơn đã nổi tiếng là một trong 3 chốn tổ của thiền phái Trúc Lâm.
Năm 1328, thiền sư Huyền Quang - vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm đã về đây trụ trì,
tu hành và phát triển thiền phái. Ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) nhà sư viên
tịch tại chùa Côn Sơn.
Ngày viên tịch của Huyền Quang là ngày giỗ tổ của chùa Côn Sơn, cũng vì thế mà
Côn Sơn trở thành chốn Phật tổ của thiền phái này. Ngày giỗ tổ sau trở thành ngày hội
truyền thống.
* Rước nước là một nghi lễ quan trọng trong lễ hội Côn Sơn
* Các trò chơi dân gian, biểu diễn nghệ thuật… thể hiện sự khéo léo, tài hoa của
ngưòi xứ Đông: Thi nấu cơm, múa rối, đập niêu, chọi gà, cờ tướng… Các trò chơi đậm
chất dân gian này ngoài ý nghĩa giáo dục sâu sắc, còn tạo chiều sâu tinh thần cho lễ hội.
2.2.2. Di tích lịch sử đền thờ Kiếp Bạc
Xung quanh đền Kiếp Bạc là hệ thống di tích đền, chùa Nam Tào - Bắc Đẩu, Sinh Từ,
Hang Tiền, Hố Thóc, Xưởng Thuyền, Hành Cung, Viên Lăng, Ao Cháo... Thời Trần đây là
những công trình kiến trúc bề thế, nguy nga nhưng hiện nay nhiều di tích chỉ còn là phế tích.

Qua các cuộc khai quật khảo cổ học cho thấy đây là di sản quí giá về mặt lịch sử, văn hoá, khoa
học của khu di tích Kiếp Bạc:
* Đền Kiếp Bạc
Đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, được
nhà nước xếp hạng di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia, thời Trần thuộc hương
Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang, tời Lê, Nguyễn thuộc trấn Kinh Bắc( nay thuộc xã Hưng Đạo,
thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương).
Đền tựa lưng (chẩm) vào núi trán Rồng. Hai bên tả, hữu là 2 dãy núi rộng mở thế tay
ngai, long mạch toả ra hình rồng uốn khúc từ đỉnh dãy núi Rồng kéo thành "tay Long" núi
Nam Tào (Dược Sơn) chầu bên tả và "tay Hổ" núi Bắc Đẩu bao bên hữu.
Nghi môn đền là công trình kiến trúc đồ sộ hoàng tráng, thiết kế kiểu cổng thành
dạng bức cuốn thư với ba cửa vòm và hai trụ biểu lớn. Qua nghi môn là tả - hữu Thành
Các. Công trình được tôn tạo thời Nguyễn, là nơi các quan hàng tỉnh về nghi ngơi, chuẩn
bị các kỳ lễ hội.

10


Đền chính gồm: Tiền tế, Trung từ, Hậu cung. Trong đền còn lưu giữ nhiều hiện vật,
cổ vật quý như 5 pho tượng đồng, sơn son thiếp vàng, đúc cuối thế kỷ XIX, hoành phi,
câu đối, bia đá... đặc biệt là Thánh Ấn nhà Trần. Ấn "sát quỷ, trừ tà" của Đức Thánh Trần
được dân gian truyền tụng và gìn giữ, là bảo vật của muôn đời. Bất cứ ai hành hương về
đền Kiếp Bạc đều mong xin được ấn dấu nhà Ngài, mang bên mình cầu an.
* Đền và chùa Nam Tào, Bắc Đẩu
Trên hai ngọn núi Nam Tào, Bắc Đẩu có ngôi đền và ngôi chùa dựng từ thời Trần,
thờ phật và thờ thần Nam Tào (cầm sổ sinh), Bắc Đẩu (cầm sổ tử) tượng trưng cho thị giả
giúp Đức Thánh Trần coi sóc chúng sinh.
Đền, chùa Nam Tào - Bắc Đẩu, đặt trong sự đối ứng với đền Kiếp Bạc đã thể hiện
sự tôn vinh, ngưỡng vọng của nhân dân đối với Trần Hưng Đạo, tôn ông là vị Thánh sánh
với Ngọc Hoàng thượng đế trên thiên đình. Nam Tào - Trần Hưng Đạo - Bắc Đẩu xuất

hiện dưới hạ giới là hiện tượng hiếm thấy, mang đậm mầu sắc đạo giáo.
* Dược Sơn
Dược Sơn (núi thuốc) là nhánh núi phía Nam đền Kiếp Bạc với diện tích xấp xỉ
10.000m2. Thời Trần, Trần Hưng Đạo với tư tưởng người Nam dùng thuốc nam đã cho
trồng những cây thuốc nam, vị thuốc quý để chữa bệnh trị thương cho quân sỹ.
* Viên Lăng
Viên Lăng nằm ở gò đất nhỏ hình tròn, cách đền Kiếp Bạc khoảng 200m về phía
Đông Nam. Xung quanh Viên Lăng là ruộng trũng, phía trước nhìn ra sông Thương, phía
sau là dãy núi Rồng bao bọc. Viên Lăng được ví như một viên ngọc mà rồng (núi rồng)
luôn ở tư thế lao xuống muốn càm ngọc.
Là một địa điểm đẹp, tương truyền xưa kia lăng mộ Trần Hưng Đạo được táng ở
đây. Năm 2000 khảo cổ học đã phát hiện nhiều dấu tích kiến trúc nhà ở và một số hiện vật
thời Trần.
* Sinh Từ
Năm 2000, Viện Bảo Tàng lịch sử Việt Nam đã tổ chức thám sát khảo cổ học tại di tích
Sinh Từ. Nơi đây trong sử sách, nhân dân vẫn nhắc nhớ về phủ đệ cũ và vị trí ngôi đền thờ
Hưng Đạo Đại Vương khi Người còn sống đã được vua Trần cho xây dựng.
* Cồn Kiếm
Trên sông Lục Đầu, trước cửa đền Kiếp Bạc có một cồn cát chạy dài 200m hình như
lưỡi kiếm nằm xuôi dòng nước, gọi là Cồn Kiếm. Cồn Kiếm ngày nay vẫn còn trên dòng

11


sông Lục Đầu về phía nam trước cửa đền Kiếp Bạc. Nhân gian cho rằng Người đã thả kiếm
xuống dòng sông, nhờ nước sông Lục Đầu hay siêu thực hơn lấy cái Đức của trời đất
(Thiên Đức, Nhật Đức, Nguyệt Đức, Minh Đức) gột rửa chiến tranh để gìn giữ nền thái
bình muôn thuở. Đó cũng là cổ mẫu từ huyền thoại - huyền tích với biểu trưng của kim và
thuỷ (kim sinh thuỷ) nhằm cầu mưa, chống lũ lụt hay cầu mùa màng của cư dân nông
nghiệp cổ.

* Lễ hội đền Kiếp Bạc
Lễ hội truyền thống đền Kiếp Bạc chiếm một vị trí quan trọng, là điểm hẹn thiêng liêng
của đồng bào cả nước: “Dù ai buôn bán gần xa; Hai mươi tháng tám giỗ Cha thì về”
Hơn 700 năm qua, lễ hội truyền thống đền Kiếp Bạc - kỷ niệm ngày mất của Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quốc Tuấn vẫn gìn giữ, bảo lưu và phát huy giá trị đặc sắc, độc đáo, hấp dẫn
của kì "Quốc lễ". Lệ xưa, đến ngày kị của Đức Thánh, triều đình đều cử các quan đại thần, các
quan phủ, trấn vùng lân cận về dự tế, lễ.
Ngày 15 tháng 8 âm lịch hai làng VạnYên và Dược Sơn làm lễ tế cáo yết (xin mở
cửa đền). Ngày 18 tháng 8 âm lịch Nhà nước tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm, khai ấn
Đức Thánh, cùng quốc tế ban ấn. Ngày 20 tháng 8 âm lịch diễn ra nghi lễ rước kiệu Đức
Thánh của hai làng và nhân dân thập phương.
2.2.3. Đền thờ Chu Văn An
Đền thờ Chu Văn An được xây dựng trên địa phận xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Dương, nơi địa linh, nhân kiệt, sản sinh nhiều nhân tài, đồng thời còn là nơi hun
đúc những tâm hồn lớn với ý chí phi thường.
Tổng thể của khu di tích bao gồm các hạng mục công trình như Điện Lưu Quang,
ao Miết Trì, nền Đền Thờ và nhà bia cũ, hai nhà bia mới, hai nhà Giải Vũ, Đền thờ chính,
khu lăng mộ Chu Văn An.
* Điện Lưu Quang
Điện Lưu Quang được xây dựng trên nền nhà cũ mà Chu Văn An xưa kia đã dùng
để dạy học khi từ quan về ở ẩn. Do thời gian và chiến tranh nhà cũ của Ông nay đã không
còn nữa, chỉ còn lại nền nhà. Cho tới năm 1998 ngành Giáo Dục Đào Tạo Hải Dương đã
công đức và cho xây dựng lại.
* Ao Miết Trì
Tử điện Lưu Quang đi xuống khoảng chừng 10m là ao Miết Trì.
* Nền nhà cũ đền thờ thầy Chu Văn An

12



Đền thờ cũ bị dời bỏ, nay chỉ con lại nền móng và nhà bia. Thay vào đó là đền thờ
mới với kiến trúc thời Lê. Trước đây đền cũ được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh
với hai lớp, lớp ngoài cùng là tiền đường với 3 ban thờ, ban giữa là thờ Công Đồng, bên
trái là ban thờ các học trò của Chu Văn An và bên phải là ban thờ Sơn Thần, bên trong là
hậu cung với ban thờ Chu Văn An và gia tiên họ Chu. Bên cạnh đền cũ là nhà bia cũ, tại
đây có đặt năm tấm bia đại cổ được tìm thấy khi khai quật khu di tích.
* Nhà bia và nhà Giải Vũ
Hai nhà bia này cùng với hai nhà Giải Vũ được khánh thành cùng với đền thờ chính
vào ngày 04/ 01/ 2008. Hai nhà Giải Vũ là nơi dừng chân, đón tiếp du khách thập phương
khi đến thăm đền, đồng thời cũng là nơi trưng bày hiện vật được tìm thấy để chứng minh
thầy giáo Chu Văn An đã từng sống và dậy học tại đây sau khi từ quan về ở ẩn. Ở giữa
hai nhà Giải Vũ là bức bình phong khổng lồ hay còn gọi là chiếu đá, toàn bộ đều được
làm bằng đá xanh được chuyển từ Thanh Hoá ra.
* Đền thờ chính Chu Văn An
Đền thờ chính được xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Đinh, hai tầng tám mái,
được lợp bằng ngói mũi hài. Đền thờ chính bao gồm 5 gian tiền tế và một gian hậu cung
đây là kiểu kiến trúc tiêu biểu cho kiểu kiến trúc chùa ở nước ta. Phía trên của đền là hình
ảnh lưỡng long chầu nguyệt, hình tượng này gắn liền với tín ngưỡng nông nghiệp lúa
nước.
Gian tiền đường của đền thờ chính gồm 5 gian, gian chính giữa là ban thờ công
đồng, 2 gian bên cạnh là hai lối đi vào trong gian hậu cung, gian ngoài cùng bên trái là
ban thờ các học trò của Chu Văn An, gian ngoài cùng bên phải là ban thờ sơn thần.
* Lăng mộ thầy Chu Văn An
Mộ của Chu Văn An nằm giữa rừng thông bạt ngàn trên dãy núi Phượng Hoàng. Mộ
thầy Chu Văn An được xây dựng theo hình vuông với quan niệm trời tròn đất vuông, phía
dưới là hình các con vật minh triết như rồng, phượng, hình tượng con kỳ lân được cách
điệu tạo vẻ linh thiêng cho khu mộ. Phía trong là hình cuốn sách với bốn góc lăng mộ là
hình các đầu bút long.
2.2.4. Văn Miếu Mao Điền
Văn Miếu Mao Điền là một trong 6 Văn Miếu còn sót lại trên đất nước ta. Văn Miếu

Mao Điền tồn tại khá nguyên vẹn tới năm 1947, song đến năm 1948, giặc Pháp chiếm
đóng và lập quận Mao Điền. Do năm tháng chiến tranh, vào những năm 1980 – 1990, Văn

13


Miếu Mao Điền đã bị xuống cấp nghiêm trọng, hầu hết đồ thờ bị phá huỷ hoặc thất lạc.
Năm 1991, cán bộ và nhân dân xã Cẩm Điền đã đóng góp công đức tu bổ cấp thiết khu di
tích. Năm 1992, bộ Văn Hoá Thông Tin đã ra quyết định số 97/QĐ - VH xếp hạng Văn
Miếu Mao Điền là di tích lịch sử quốc gia.
Văn Miếu Mao Điền gồm các hạng mục công trình
- Cổng tam quan
- Nhà bia
- Giếng Thiên Quang
- Gác chuông và gác trống
- Nhà bái đường
- Nhà hậu cung
2.3. Thực trạng khai thác du lịch tại các di sản văn hoá vật thể tại Hải Dƣơng
2.3.1. Về tổ chức quản lý
Về công tác quản lý tại các di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương ngoài sự
quản lý chung của các cơ quan quản lý cấp tỉnh thì ở mỗi di tích đều có một cơ quan quản
lý cấp địa phương riêng cụ thể cho từng di tích.
Bảng 2.1: Hệ thống cơ quan quản lý về du lịch tại các di tích ở Hải Dƣơng
STT

Tên cơ quan

Chức năng
Chỉ đạo toàn bộ các dự án về tu bổ các


1

UBND tỉnh Hải Dương

di tích, tôn tạo, xây dựng và phát triển
các di tích
Cơ quan chuyên môn giúp việc cho

2

Sở Văn Hóa Thể Thao và Du

UBND tỉnh trong lĩnh vực du lịch. Xây

lịch Hải Dương

dựng các đề án giải pháp cho việc phát
triển du lịch tại Hải Dương

3

4
5

UBND huyện Cẩm Giàng, thị

Cơ quan thực thi chỉ đạo của UBND tỉnh

xã Chí Linh(nơi có các di tích)


Hải Dương về vấn đề quản lý các di tích

Ban quản lý khu di tích (Văn

Chịu trách nhiệm trực tiếp về việc quản

Miếu Mao Điền, đền thờ Chu

lý di tích, giam sát di tích trên địa bàn

Văn An, Côn Sơn, Kiếp Bạc)

quản lý

UBND xã Cẩm Điền (Văn Miếu Thực hiện chỉ đạo của UBND huyện, thị

14


Mao Điền), xã Văn An (đền thờ

xã giải quyêt các chính sách liên quan

Chu Văn An), Cộng Hòa (Côn

tới di tích

Sơn), Hưng Đạo (Kiếp Bạc)
2.3.2. Về xây dựng sản phẩm
Xây dựng các tour du lịch về các điểm di tích văn hóa lịch sử, gắn với các điểm

di tích lịch sử văn hóa như Côn Sơn, Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, văn miếu Mao
Điền...và các di tích lịch sử có giá trị khác. Nâng cấp các lễ hội để tăng thêm phần hấp
dẫn, thu hút được khách du lịch tới tham quan.
Khai thác các gía trị văn hóa của di sản thành các sản phẩm du lịch văn hóa đặc
trưng của vùng vào phục vụ khách du lịch dựa trên cơ sở xem xet các giá trị của các di
tích bao gồm:
Xây dựng các tour du lịch văn hóa, tín ngưỡng để đến với các di tích . Vì vậy, các
tour du lịch khởi hành hàng ngày đưa khách tới tham quan các di tích này có nhiều loại
tour khác nhau.
Từ đây, dựa trên các giá trị văn hóa của các di tích các công ty lữ hành trên địa bàn
Hải Dương và các tỉnh có thể tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa cho tour du lịch. Như các
tour du lịch liên hoàn
2.3.3. Về du khách
Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc là một trong những địa chỉ du lịch, với vị thế là khu
di tích lịch sử nổi tiếng của cả nước, hàng năm Côn Sơn - Kiếp Bạc tiếp đón hàng vạn du
khách tìm về. Chính vì vậy nhiệm vụ đón tiếp khách chu đáo, an toàn được ưu tiên số một.
Bảng 2.2: Số liệu khách tham quan khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền Chu Văn
An, Văn Miếu Mao Điền (2007 – 9/2011)
Đơn vị tính: lượt khách
Di tích Côn Sơn- Di tích đền Chu Văn Di tích Văn Miếu Mao
Kiếp bạc
An
Điền

Năm

Lƣợt
khách
(triệu
ngƣời)


Gia Lƣợt khách
tăng
(triệu
(%)
ngƣời)

15

Gia
tăng
(%)

Lƣợt
khách
(triệu
ngƣời)

Gia
tăng
(%)


2007

1.200.750

100,0

8.017


100.0

3.017

100.0

2008

1.390.000

115,7

8.300

103,5

4.100

135,9

2009

1.540.000

110,8

9.000

108,4


4.900

119,5

2010

1.650.480

107,1

10.000

111,1

5.700

116,3

9/2011 1.090.000

66,0

4.500

45,5

2.500

43,9


(Nguồn: Ban QLDT Côn Sơn - Kiếp Bạc, Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền)
2.3.4. Về hiệu quả kinh tế xã hội
Ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc còn khai thác nguồn vốn tự thu như: Két
công đức và lệ phí tham quan để tu sửa, xây dựng, tôn tạo các công trình phụ trợ của di
tích, nhằm phục vụ cho sự đi lại, nghỉ ngơi và tham quan, thắp hương tưởng niệm của
nhân dân.
Bảng 2.3: Doanh thu khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, đền Chu Văn An, Văn Miếu
Mao Điền
Di tích Côn Sơn- Kiếp Di tích đền Chu Văn
bạc
An

Doanh thu
(triệu
đồng)

Gia
tăng
(%)

9.308.408.000 100,0 1.000.000.000 100.0 600.000.000

100.0

2008 11.579.566.400 124,3 1.020.000.000 103,5 750.000.000

135,9

2009 18.541.816.100 160,1 1.050.000.000 108,4 890.000.000


119,5

2010 20.371.356.000 109,8 1.250.000.000 111,1 970.000.000

116,3

Năm

2007

Doanh thu
(tỷ đồng)

Gia
tăng
(%)

Doanh thu
(tỷ đồng)

16

Gia
tăng
(%)

Di tích Văn Miếu Mao
Điền



9/2011 18.150.425.000 66,0

400.000.000

32,5

150.000.000

15,5

(Nguồn: Ban QLDT Côn Sơn - Kiếp Bạc, Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền)
2.4. Mối tƣơng tác giữa bảo tồn di sản và hoạt động du lịch tại Hải Dƣơng
2.4.1. Khái quát hiện trạng hoạt động du lịch tại Hải Dương
2.4.1.1.Khách du lịch
Theo báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh du lịch hàng năm của Sở VHTT&DL
Hải Dương, vào năm 2010, tăng trưởng trung bình là 17,9%. Khách không lưu trú tăng từ
797.000 lượt năm 2006 lên 1.633.130 lượt vào năm 2010 tăng trưởng trung bình đạt
21,2%/năm.
Khách quốc tế đến Hải Dương chủ yếu với mục đích công vụ, hội nghị, hội thảo,
nghiên cứu thị trường kinh doanh, mở rộng đầu tư, tìm kiếm đối tác kết hợp thăm than,
vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng…
Đối với khách du lịch nội địa, số lượng khách không ngừng tăng, song khách du lịch
lưu trú chủ yếu vẫn là khách công vụ , khách của các bộ ngành, đoàn thể đến dự các hội
nghị, hội thảo, các giải thể thao kết hợp du lịch chiếm 55% (du lịch Mice); nghiên cứu
khoa học chiếm 15% , du lịch thuần túy chiếm 23%, khác chiếm 7 %, đối tượng khách
này phần lớn chi tiêu cho lưu trú, chi tiêu cho mua sắm và vui chơi giải trí thấp.
2.4.1.2. Doanh thu du lịch
Theo thống kê của Sở VHTT & DL Hải Dương, doanh thu du lịch tăng từ 390 tỷ
đồng năm 2006 lên 727,9 tỷ đồng vào năm 2010, giai đoạn 2006 – 2010 có mức tăng

trưởng trung bình là 16,8 %
Bảng 2.4: Doanh thu du lịch Hải Dƣơng
Năm

Doanh thu (tỷ đồng)

2005

335

2006

390

2007

465

2008

530

2009

650

2010

727,9


17


2.4.1.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Giai đoạn 2006 – 2010, các cơ sở lưu trú du lịch ở Hải Dương phát triển nhanh cả
về số lượng và chất lượng, đáp ứng phần nào nhu cầu của khách du lịch. Năm 2006 toàn
tỉnh có 73 khách sạn, nhà nghỉ, với tổng số 1540 phòng nghỉ, đến năm 2010 tăng lên 133
cơ sở lưu trú với tổng số 1540 phòng nghỉ; đến năm 2010 tăng lên 133 cơ sở lưu trú với
tổng số 2637 phòng, tốc độ tăng trưởng phòng khách sạn trong giai đoạn 2006 – 2010 đạt
14,4%. Chất lượng dịch vụ trong hệ thống khách sạn đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của du khách.
2.4.1.4. Nguồn nhân lực du lịch
Về số lượng và trình độ đào tạo, cùng với sự gia tăng của khách du lịch và hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, trong những năm qua số lượng lao động trong ngành du
lịch ở Hải Dương cũng không ngừng gia tăng, tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội.
Về chất lượng đào tạo: Tính bình quân cả giai đoạn thì số lao động có trình độ đại
học trở lên chiếm 12,5%; cao đẳng, trung cấp 41,6%; trình độ sơ cấp 13,8%; trình độ dưới
sơ cấp (qua đào tạo tại chỗ hoặc huấn luyện nghiệp vụ ngắn hạn) 16,6%;
2.4.1.5. Đầu tư phát triển du lịch
Tính đến nay, tổng đầu tư cho du lịch đạt trên 3000 tỷ đồng. Trong đó có 3 dự án từ
300 đến 600 đồng, 10 dự án có vốn đầu tư từ 15 – 50 tỷ đồng còn lại là các dự án từ 3 – 5
tỷ đồng.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển du lịch còn hạn chế và chiếm tỷ lệ nhỏ
so với đầu tư cho các ngành kinh tế khác.
2.4.1.6. Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch
Xuất bản các ấn phẩm du lịch (đĩa VCD, tập gấp, bản tin, catalog) tuyên truyền
quảng bá trong và ngoài nước, xây dựng chuyên mục du lịch phát sóng trên Đài phát
thanh truyền hình Hải Dương về các chuyên đề du lịch văn hóa, lễ hội cổ truyền, du lịch
sinh thái; thông tin quảng cáo: dựng biển quảng cáo tấm lớn để đưa hình ảnh du lịch Hải
Dương đến với du khách trong nước và quốc tế.

2.4.1.7. Hệ thống khu, tuyến, điểm du lịch
* Các khu du lịch, điểm du lich
Một số khu, điểm du lịch chính đang hình thành bao gồm:
- Khu du lịch Côn Sơn – Kiếp Bạc
- Khu An Phụ - Kính Chủ

18


- Điểm du lịch sinh thái đảo Cò Chi Lăng Nam
- Khu du lịch thành phố Hải Dương
* Các tuyến du lịch
- Tuyến du lịch liên tỉnh
+ Hải Dương – quốc lộ 18 – Hạ Long – cửa khẩu quốc tế Móng Cái – Trung Quốc
+ Hải Dương – Bắc Ninh – Lạng Sơn – cửa khẩu Hữu Nghị quan – Trung Quốc
+ Hải Dương – Hải Phòng
+ Hải Dương – Bắc Giang – Lạng Sơn
2.4.2. Tác động của hoạt động du lịch tại các di sản văn hoá vật thể tiêu biểu ở Hải
Dương tới bảo tồn di sản văn hoá
2.4.2.1. Những tác động tích cực
* Tác động tới chính sách và hoạt động của các cấp chính quyền
Ngoài ra trong đề án phát triển du lịch giai đoạn 2010 – 2015 của tỉnh Hải Dương đã
tập trung thực hiện nhiều chương trình phát triển du lịch liên quan đến các di tích
+ Chương trình bảo tồn, trùng tu các di tích lịch sử, văn hóa trọng điểm gắn với phát
triển du lịch, với các dự án trọng điểm, bảo tồn, trùng tu các khu di tích quan trọng như:
Côn Sơn – Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền, chùa Thanh Mai.
Tại các khu di tích này việc thu vé tham quan danh cho khách du lịch được Ủy Ban
nhân dân tỉnh Hải Dương ra quyết định bắt đầu từ ngày 9/01/2009 với mức giá 10.000
đồng/người lơn, trẻ am là 5000 đồng/trẻ em.
Bảng 2.5: Bảng giá vé tham quan khu di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc


T
T

Điểm

Giá vé

Giá vé trông, giữ phƣơng tiện

tham quan

(đồng\xe\lƣợt)

tham
quan

(đồng\ngƣời

Xe

Xe

Ô tô từ

đạp

máy

4-7 chỗ


\lƣợt)

Thời
gian

Ô tô từ

Ôtô

mở

7-16

trên 16

cửa

chỗ

chỗ

Khu di
1

tích,
danh

24/24h
10.000


1000

3000

thắng

10.000

12.000

15.000

các
ngày
trong

19


Côn

tuần

Sơn
Khu di
2

tích
Kiếp


24/24h
10.000

1000

3000

10.000

12.000

15.000

Bạc

các
ngày
tro

* Nâng cao ý thức bảo tồn di sản văn hóa
- Bảo tồn các di tích văn hóa
2.4.2.1. Những tác động tíêu cực
Vấn đề thương mại hóa di sản, nguồn lợi từ các hoạt động du lịch đem lại cho các di
tích được đánh giá tương đối cao, song bên cạnh đó nó vấn có những tác động tiêu cực.
Khu di tích lịch sử Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền
hàng năm đón khách khoảng 2.000.000 - 2.500.000 lượt khách tới tham quan.
Do chưa tổ chức tốt công tác dịch vụ hàng quán nên việc đảm bảo môi trường trong
sạch, xử lý rác thải trong các kỳ lễ hội vẫn là vấn đề tồn tại mang tính cấp thiết. Các công
trình vệ sinh tại các điểm di tích chưa được đầu tư còn gây bất tiện và chưa đảm bảo vệ

sinh.
2.5. Những vấn đề đặt ra cho công tác bảo tồn di sản văn hoá
2.5.1. Vấn đề phát triển du lịch tại các di sản
Tại các di sản tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện còn thiếu những nghiên
cứu cụ thể về nhu cầu thị trường đối với những sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn được
xem là lợi thế của từng di tích đó là du lịch tâm linh, giáo dục
Hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch tỉnh Hải Dương nói chung và các
di tích Côn Sơn – Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền nói riêng còn hạn
chế và chưa đồng bộ.
Để phát triển du lịch Côn Sơn – Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao
Điền tương xứng với tiềm năng của mình cần chú ý một số vấn đề sau:
Trong quá trình xác định hệ thống sản phẩm du lịch điểm di tích Côn Sơn – Kiếp
Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền, cần lưu ý tránh trùng lặp với những sản

20


phẩm du lịch ở các di tích khác trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và ở vùng phụ cận
nói chung.
2.5.2. Vấn đề quản lý và bảo tồn các di sản
* Về công tác quản lý các di sản:
Tại khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc, do nhiều cơ quan quản lý trên địa
Di tích đền thờ Chu Văn An (UBND xã quản lý đất đai, dịch vụ tại dịch tích; Ban
quản lý Rừng - Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn quản lý về đồi rừng; Ban quản
lý di tích Chu Văn An quản lý về di tích)
Di tích Văn Miếu Mao Điền (UBND xã quản lý đất đai, dịch vụ tại dịch tích; Ban
quản lý di tích Văn Miếu Mao Điền quản lý về di tích)
Tại khu đền thờ Chu Văn An thi các dịch vụ còn nhỏ lẻ chỉ có vài hàng quán chưa có hệ
thống, các dịch vụ chỉ phục vụ vào mùa lễ hội. Còn đối với khu di tích Văn Miếu Mao Điền
thi dịch vụ thưa thớt chỉ có duy nhất một cửa hàng bán các đồ phục vụ du khách mua đồ thắp

hương.
Chưa có tổ chức du lịch theo tuor để kết nối giữa khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc với
các khu di tích khác trong vùng (Yên Tử, Hạ Long...).
* Về công tác bảo tồn các di sản
Hiện còn nhiều cổ vật, hiện vật vẫn được nhân dân lưu giữ, chưa được tổ chức điều tra,
thống kê.
Hiện nay các di tích đã và đang được quy hoạch, tu bổ mới dừng lại ở mức đáp ứng yêu
cầu dự án tu bổ, tôn tạo di tích theo nguồn vốn đã được phê duyệt.
Vấn đề đầu tư tài chính cho công tác bảo tồn cũng còn nhiều vướng mắc, kinh phí từ
ngân sách nhà nước còn eo hẹp so với thực tế đòi hỏi làm cho các dự án bảo tồn phải đầu
tư nhiều lần, dở dang.
Hải Dương còn thiếu nhiều cán bộ giỏi, kinh nghiệm được đào tạo chuyên sâu về
lĩnh quy hoạch, nhận diện các giá trị của di sản văn hóa trong đó có di sản văn hóa vật
thể. Tại các di tích chưa có đội ngũ thuyết minh viên chuyên nghiệp
2.6. Những thuận lợi và khó khăn trong việc bảo tồn di sản văn hoá trong hoạt động
du lịch
2.6.1. Thuận lợi
Ban quản lý của các điểm di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn
Miếu Mao Điền đã phối hợp với với các cơ quan quản lý để tổ chức nghiên cứu xây dựng

21


quy hoạch, kế hoạch trùng tu, tôn tạo di tích giai đoạn 1995 - 2000 trình các cấp có thẩm
quyền để phân kỳ thực hiện.
Theo Quyết định số 920 QĐ/TTg ngày 18/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ, khu di tích
lịch sử và danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc sẽ được quy hoạch định hướng từng bước phát
triển để trở thành khu du lịch cấp Quốc gia.
Vốn đầu tư ước tính là khoảng 1.600 tỷ đồng, từ nguồn ngân sách trung ương
Khu di tích Đền Chu Văn An đã và đang được tôn tạo nhiều hạng mục công trình

bằng nguồn kinh phí từ Ngân sách Nhà nước và của giao viên, học sinh nhiều tỉnh, thành
trong nước công đức. .
Di tích Văn miếu Mao Điền bị xuống cấp nghiêm trọng do thời gian và chiến tranh.
Năm 1991, cán bộ và nhân dân xã Cẩm Điền đã đóng góp công đức tu bổ. Năm 1992,
Văn miếu Mao Điền được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia, năm 2002, Ủy ban Nhân
dân tỉnh Hải Dương đã thực hiện dự án trùng tu, tôn tạo di tích với quy mô lớn. Tháng
8/2004, Ban Quản lý di tích Văn miếu Mao Điền được thành lập.
2.6.2. Khó khăn
Chưa có sự liên kết đồng bộ trong công tác tổ chức giữa các cơ quan quản lý và các
địa phương nơi có điểm di tích
Tại các di tích nguồn vốn có được chủ yếu là do thu vé tham quan và tiền công đức
của du khách và nhân dân trong vùng đóng góp,ma hiện nay thì chỉ mới có hai di tích là
Côn Sơn và Kiếp Bạc thu phí thăm quan còn lại di tích đền thờ Chu Văn An và Văn Miếu
Mao Điền thì không thu phí. Chính vì vậy nguồn vốn không nhiều để bảo tồn di tích
Như vậy vấn đề đặt ra là vai trò của Ban quan lý tại các điểm di tích Côn Sơn, Kiếp
Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền đến đâu trong việc quản lý bảo tồn di tích
gắn với phát triển du lịch.
Tiểu kết chương 2
Với mục tiêu bảo tồn phát huy bền vững giá trị của các khu di tích Côn Sơn, Kiếp
Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn miếu Mao Điền gắn với phát triển du lịch phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh Hải Dương và khu vực. Việc bảo
tồn các di tích góp phần làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời ngăn chặn các
yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến giá trị văn hoá làm sáng tỏ các giá trị lịch sử văn hoá

22


của quần thể di tích Côn Sơn,Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền ở
hiện tại và trong tương lai.
Tuy nhiên khi gắn kết hoạt động du lịch với bảo tồn, hoạt động du lịch cũng đã thể

hiện những mặt tích cực trong việc hỗ trợ bảo tồn di sản văn hóa tại các di tích. Trong đó
quan trọng nhất là sự tác động vào nhận thức của người dân, giúp họ ý thức hơn về tầm
quan trọng về văn hóa và ý nghĩa kinh tế của việc lưu giữ những giá trị văn hóa của Hải
Dương. Du lịch chính là một hướng phát triển được ưu tiên hàng đầu trong các chính sách
phát triển của địa phương, chính vì lẽ đó các di sản được đưa vào phục vụ du lịch cũng
được quan tâm bảo vệ hơn, được đầu tư tôn tạo kỹ lưỡng hơn. Ngoài ra du lịch đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình “tiếp thị di sản” tại Hải Dương, giúp cho các di sản văn
hóa nơi đây được biết đến nhiều hơn, có sự thu hút hơn. Tiếp nối nhưng kinh nghiệm phát
triển của các tỉnh thành phố trong cả nước tại các di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc, đền thờ Chu
Văn An, Văn Miếu Mao Điền đang từng bước xây dựng cho mình chiến lược phát triển
du lịch riêng dựa trên những đặc điểm về văn hóa và vị trí địa lý của riêng minh cùng các
thế mạnh về tài nguyên du lịch.
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU
LỊCH GẮN VỚI BẢO TỒN DI SẢN VĂN HOÁ Ở HẢI DƢƠNG
3.1. Định hƣớng của Chính phủ về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể tại
tỉnh Hải Dƣơng.
Theo Quyết định số 1706/2001/ QĐ - BVHTTngày 24/7/2001của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa – Thông tin phê duyệt quy hoạch Tổng thể Bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020, khu di tích lịch sử và danh thắng Côn Sơn,
Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền sẽ được quy hoạch định hướng từng
bước phát triển để trở thành khu du lịch cấp Quốc gia. Trong đó cần thực hiện các nhiệm vụ
sau:
+ Tiếp tục triển khai nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, khai quật khảo cổ
+ Triển khai lập và phê duyệt các quy hoạch chi tiết, các dự án thành phần theo
từng giai đoạn thực hiện.
+ Xây dựng phương án khai thác các hoạt động du lịch; huy động các nguồn lực trong
và ngoài nước và sự đóng góp của nhân dân trong việc triển khai đầu tư thực hiện quy hoạch,
bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích.

23



+ Ban hành Quy chế quản lý hệ thống di tích, đất đai, cảnh quan, môi trường, quản
lý các hoạt động đầu tư xây dựng, các hoạt động kinh tế - văn hoá - xã hội trên toàn địa
bàn khu di tích và trong từng vùng cụ thể.
3.2. Định hƣớng của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dƣơng
Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích lịch sử và danh thắng Côn Sơn, Kiếp
Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền trên địa bàn tỉnh Hải Dương là công cụ giúp
cho chính quyền các cấp thuộc tỉnh Hải Dương .
+ Hệ thống di sản văn hóa vật thể phong phú đa dạng. Hệ thống các di tích lịch sử đều
đã được xếp hạng quốc gia. Đây là nguồn tài nguyên vô tận để phát triển ngành kinh tế không
khói của tỉnh Hải Dương và khu vực.
+ Khu di tích lịch sử và danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền thờ Chu Văn An, Văn Miếu
Mao Điền được quy hoạch và xây dựng vừa hiện đại, vừa bảo tồn được các giá trị lịch sử trong
một môi trường sinh thái phong phú, đa dạng, cảnh quan hài hoà thì sẽ trở thành điểm di lịch,
dịch vụ quan trọng của khu vực.
+ Định hướng quy hoạch và phát triển các di tích là: di tích lịch sử Côn Sơn, Kiếp Bạc, đền
thờ Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền là khu vực có đủ các điều kiện để phát triển thành khu du
lịch đặc thù trong mối quan hệ ưu tiên với bảo tồn di tích
+ Quan điểm phát triển là khai thác hợp lý các thế mạnh của điều kiện địa chính trị,
địa kinh tế, địa nhân văn và các điều kiện tự nhiên, tài nguyên, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội, các thế mạnh về nông nghiệp, sản vật, văn hoá lịch sử và cảnh quan cho phát triển
kinh tế - xã hội.
+ Căn cứ nội dung quy hoạch tổng thể UBND tỉnh Hải Dương xây dựng và ban
hành Quy chế quản lý toàn diện các di tích trên cơ sở các bộ luật của Nhà nước.
3.3. Các giải pháp phát triển du lịch gắn với bảo tồn di tích vật thể trên địa bàn tỉnh
Hải Dƣơng
3.3.1. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù
Khuyến khích đầu tư nâng cấp mở rộng các loại hình vui chơi giải trí tại các khu vực
trọng điểm phát triển du lịch lễ hội của tỉnh.
Nghiên cứu quy hoạch một số điểm trình diễn văn nghệ ca múa nhạc dân tộc với

những chương trình độc đáo mang tính nghệ thuật và dân tộc cao.
Huy động các nguồn vốn đầu tư nâng cấp, hình thành các khu điểm du lịch chuyên
đề và tổng hợp, có khả năng thu hút và cung cấp các dịch vụ đa dạng, chất lượng cao.

24


Cần nhấn mạnh tới các sản phẩm mang tính đặc thù, đặc sắc của Hải Dương, đó là
tổ chức lễ hội hoành tráng đối với Côn Sơn – Kiếp Bạc, xây dựng các tour du lịch giáo
dục về các điểm Văn Miếu Mao Điền, Chu Văn An, tổ chức dịch vụ thật tốt tại các điểm
dừng chân.
3.3.2. Giải pháp về tổ chức quản lý các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích
* Hoạt động bảo tồn di tích
+ Việc bảo tồn các di tích tuân thủ những nguyên tắc về bảo tồn, tôn tạo di sản mà Bộ
Văn hóa Thể thao và Du lịch ban hành, trong đó bảo đảm tuyệt đối tính nguyên gốc.
+ Lập quy hoạch chi tiết trong ranh giới, để làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý
đầu tư xây dựng và thực hiện các dự án trung và ngắn hạn, phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế, bền vững môi trường
+ Phòng ngừa sự cố hoả hoạn, úng lụt, vỡ đê trong khu vực.
+ Quản lý giám sát các hoạt động du lịch, hoạt động kinh tế để có biện pháp xử lý,
điều chỉnh kịp thời những ảnh hưởng tiêu cực đến cảnh quan thiên nhiên khu vực nhất là
các nhà ở, lều quán xây dựng tự phát.
Hoạt động bảo tồn các khu vực di chỉ khảo cổ
+ Tiến hành thăm dò, xác định ranh giới khu vực bảo vệ;
+ Lập hồ sơ di tích;
+ Lập phương án bảo vệ khu vực;
+ Lập dự án khai quật các di tích khảo cổ dưới lòng đất;
+ Lập phương án bảo vệ lâu dài và trưng bày các di vật khảo cổ;
* Hoạt động phát huy giá trị di tích
Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền giới thệu về khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc,

đền Chu Văn An, Văn Miếu Mao Điền. Xuất bản các ấn phẩm, tờ gấp, bưu ảnh bằng
nhiều thứ tiếng, có thể sử dụng tuyên truyền, phát ấn phẩm ở những địa điểm thu hút
khách tham quan, du lịch như:
3.3.3.Tăng cường vai trò của cộng đồng trong du lịch.
Để bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản một cách tốt nhất trước hết phải tập
trung vào nhận thức của người dân, phải để cho người dân hiểu một cách sâu sắc về giá trị
của di sản đang tồn tại và khả năng khai thác của nó.
Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động cung cấp dịch vụ du
lịch, tiến tới xã hội hóa hoạt động du lịch.

25


×