Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI - TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 124 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
---&---

TRẦN NHẬT HUY

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Văn hóa học

Mã số

: 60 31 06 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN TIẾN THƯ

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU:

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỜI

9



SỐNG VĂN HÓA Ở THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI – TỈNH BÌNH
PHƯỚC HIỆN NAY

1.1. Một số lý luận và thực tiễn về đời sống văn hóa ở thị
xã Đồng Xoài – tỉnh Bình Phước

9

1.2. Khái quát về thị xã Đồng Xoài – tỉnh Bình Phước

23

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở THỊ XÃ ĐỒNG

33

XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

2.1. Chủ thể hoạt động văn hóa

33

2.2. Sản phẩm văn hóa và hệ thống thiết chế văn hóa

36

2.3. Các dạng hoạt động văn hóa

49


Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

82

LƯỢNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA Ở THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI –
TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. Dự báo xu thế vận động của đời sống văn hóa ở thị xã

82

Đồng Xoài
3.2. Phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao

85

chất lượng đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài trong
thời gian tới
KẾT LUẬN:

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

101

PHỤ LỤC:

107



DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
HĐND
UBND
TW
TH
THCS
THPT
ĐSVH
GĐVH
KDC
VH-TT
VH&TT
MTTQVN
XHH
GS.TS
NSVM
CNH-HĐH
XHCN
PCBLGĐ
BLGĐ
Tr
BCĐ
GĐVH

:
:
:
:

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Trung ương
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Đời sống văn hóa
Gia đình văn hóa
Khu dân cư
Văn hóa - thể thao
Văn hóa và Thông tin

Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Xã hội hóa
Giáo sư. Tiến sỹ
Nếp sống văn minh
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Xã hội chủ nghĩa
Phòng chống bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình
Trang
Ban chỉ đạo.
Gia đình văn hóa


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để hình thành một lối sống mới xã hội chủ nghĩa, bên cạnh các yếu tố
phát triển điều kiện kinh tế - xã hội, phải có một đời sống văn hóa sôi nổi,
phong phú, lành mạnh và trình độ tiến bộ cao. Xây dựng đời sống văn hóa
vừa là để thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nếp sống vui
tươi, lành mạnh, vừa khích lệ khả năng sáng tạo của nhân dân, góp phần nâng
cao năng suất lao động, đẩy lùi có hiệu quả những hiện tượng tiêu cực, phản
văn hóa, làm nền tảng để phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về vai trò, vị trí của công tác xây
dựng đời sống văn hóa, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII đã đề ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [10, tr.40]. Nghị quyết đã xác
định giải pháp lớn đầu tiên là mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước,
gắn với thi đua yêu nước và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời

sống văn hóa”.
Thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị, Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (Khóa IV) đã mở cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc
sống mới ở khu dân cư” (năm 1995) và phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” (năm 2000). Sau đó ngành Văn hóa ban hành kế
hoạch triển khai thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” với năm nội dung cụ thể và nhằm triển khai thực hiện sâu rộng trong
cả nước; được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể từ Trung
ương đến địa phương và các tầng lớp nhân dân đồng thuận, hưởng ứng, qua
đó góp phần nâng cao đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân,
đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.


2
Thị xã Đồng Xoài là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
tỉnh Bình Phước. Tự hào là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, địa danh
Đồng Xoài đã đi vào lịch sử với mốc son chói lọi “Đồng Xoài rực lửa chiến
công”. Chiến thắng ngày 09/6/1965 ở Đồng Xoài biểu hiện tinh thần anh
dũng, ý chí quyết thắng của nhân dân Đồng Xoài nói riêng và miền Đông
Nam bộ nói chung. Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân Đồng Xoài đã một lòng, một dạ sắt
son theo Đảng, đoàn kết đấu tranh chống áp bức, bóc lột của phong kiến, thực
dân, đế quốc và tay sai giành độc lập tự do cho dân tộc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân
thị xã Đồng Xoài đã không ngừng nỗ lực trong việc phát huy truyền thống địa
phương để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có đời sống văn
hóa. Quá trình xây dựng đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài trong những
năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa sâu sắc tới việc phát
triển đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân: Phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” ngày càng đi vào chiều sâu, được nhân dân

đồng thuận, xuất hiện nhiều gương “Người tốt, việc tốt”, truyền thống đoàn
kết và đạo lý dân tộc được phát huy, hệ thống thiết chế văn hóa được xây
dựng và phát triển, nhiều tác phẩm nghệ thuật mới được sáng tác, nhu cầu
hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của đại đa số người dân được nâng lên rõ rệt…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác xây dựng đời
sống văn hóa còn tồn tại những khó khăn, bất cập, đó là: Công tác quản lý,
khai thác các thiết chế văn hóa còn yếu; tình trạng tham nhũng lãng phí chậm
được khắc phục. Hiện tượng chạy theo lối sống gấp, coi trọng giá trị vật chất,
xem nhẹ các giá trị truyền thống vốn là bản sắc tốt đẹp của dân tộc đang diễn
ra khá phổ biến ở một số không nhỏ thanh thiếu niên; bạo lực gia đình, trộm
cắp, cướp giật có xu hướng gia tăng, ... đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
đời sống văn hóa của thị xã.


3
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, là người đang công tác tại ngành Văn
hóa, Thể thao và Du lịch của thị xã Đồng Xoài, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“Đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài - tỉnh Bình Phước hiện nay, làm luận
văn tốt nghiệp hệ đào tạo Cao học với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công
tác xây dựng đời sống văn hóa ở thị xã trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta từ lâu đã thu hút sự quan
tâm của các nhà khoa học và lãnh đạo, quản lý nước ta. Khái quát về phương
diện lý luận và thực tiễn có các lĩnh vực tư liệu liên quan đến đề tài luận văn
như sau:
2.1. Sách đã xuất bản
Tập Bài giảng Văn hóa xã hội chủ nghĩa (1997), của Khoa văn hóa xã
hội chủ nghĩa - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội; cuốn Văn hóa một số vấn đề lý luận (1999) của PGS.TS Trường
Lưu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; cuốn Văn hóa vì sự phát triển xã hội

(2002) của PGS.TS. Lê Như Hoa, Nxb Viện văn hóa và Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội; cuốn Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (2003) của hai tác giả Phạm Minh Hạc và Nguyễn
Khoa Điềm (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; cuốn Giáo trình lý
luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng (2005) (Hệ cử nhân chính trị)
của GS.TS. Trần Văn Bính (Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội; cuốn
Văn hóa với đời sống xã hội” của nhà nghiên cứu Thanh Lê; cuốn Phát triển
văn hóa Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020 - Những vấn đề phương pháp luận
(2010) của PGS, TS. Phạm Duy Đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; cuốn
Văn hóa và lối sống đô thị Việt Nam một cách tiếp cận (2010) của PGS.TS.
Trương Minh Dục và TS. Lê Văn Định, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; cuốn
Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và Hội nhập quốc tế
(2012) của Phan Hồng Giang - Bùi Hoài Sơn (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.


4
Bên cạnh đó, có một số cuốn sách và công trình khoa học đề cập đến
vấn đề về xây dựng đời sống văn hóa như: Cuốn Mấy vấn đề xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở hiện nay, Nxb Hà Nội, 1985; cuốn Xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở của Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1994;
cuốn Đời sống văn hóa ở cơ sở - Thực trạng những vấn đề cần giải quyết của
Viện Văn hóa; Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1991; cuốn Mấy vấn đề lý
luận và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta của của GS. TS Hoàng
Vinh, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999; cuốn Về văn hóa và xây dựng
đời sống văn hóa của TS. Nguyễn Hữu Thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005; cuốn Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của tập thể tác giả Trường
Cao đẳng Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh ( nay là Đại học Văn hóa), Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002; cuốn Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Trần Văn Bình

(chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006.
2.2. Các bài viết đăng tải trên các tạp chí và các Kỷ yếu Hội thảo
khoa học có thể kể đến như:
Xây dựng văn hóa đô thị, kinh nghiệm từ nước ngoài của tác giả Trần
Ngọc Khánh, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 306, (tháng 12/2009); bài Xu
hướng biến đổi trong văn hóa và lối sống ở Việt Nam của tác giả Mai Văn Hai
và Phạm Việt Dũng, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 326, (tháng
2/2010); bài Đánh giá sự phù hợp trong ứng xử của sinh viên với nếp sống
văn minh đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay của tác giả Huỳnh Văn
Sơn, Tạp chí Giáo dục, số 235, (năm 2010); bài Những biến đổi trong đời
sống văn hóa tinh thần trong quá trình đô thị hóa ở quận Bình Thạnh, Thành
phố Hồ Chí Minh của tác giả Bùi Thị Ngọc Trang, Tạp chí Lý luận Chính trị,
(tháng 12/2009); bài Xây dựng đời sống văn hóa đại chúng ở nước ta hiện nay
của tác giả Nguyễn Duy Bắc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (tháng 01/2007);
Các Kỷ yếu Hội thảo: Kỷ yếu Đời sống văn hóa của Người Việt Nam
sau hai mươi năm đổi mới của tác giả Nguyễn Văn Dân tại Hội thảo quốc tế


5
Việt Nam học lần thứ ba tổ chức tại Hà Nội, (Tháng 12/2008); Kỷ yếu Đôi
điều về văn hóa Hà Nội thời hội nhập quốc tế của tác giả Phạm Xuân Hằng
tại Hội thảo quốc tế Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì
hòa bình, Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia, 2010.
2.3. Các công trình khoa học
Một số đề tài luận văn Thạc sĩ viết về đời sống văn hóa gần đây như:
Đời sống văn hóa ở nông thôn huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội hiện nay
của tác giả Trương Ngọc Lan, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh (2012); Đời sống văn hóa vùng tái định cư của thành phố Đà Nẵng
hiện nay của tác giả Đỗ Thanh Tân, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh (2012); Đời sống văn hoá của người Nùng huyện Phúc An, tỉnh

Cao Bằng của tác giả Trịnh Xuân Nho, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh (2013).
Có thể khái quát tình hình nghiên cứu liên quan trên đây ở các phương diện:
Thứ nhất, những định hướng quan trọng của Đảng, chính sách của Nhà
nước đối với phát triển văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa, tiêu biểu và
quan trọng nhất là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và các Nghị quyết
các Đại hội từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XI ( năm 2011). Quan niệm
về văn hóa và các lĩnh vực chủ yếu của văn hóa trong đời sống xã hội được
xác định.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu đã góp phần làm khá rõ quan
niệm về văn hóa, đời sống văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cả về lý
luận và thực tiễn một cách có hệ thống. Nhiều nghiên cứu đã đề cập đến
những vấn đề chung của đời sống văn hóa cũng như việc xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở về diện mạo, nội dung, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm,
giải pháp...của xây dựng đời sống văn hóa.


6
Thứ ba, các chính sách của Đảng và Nhà nước dù đã khá đầy đủ và chi
tiết nhưng để đề ra một nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương hoặc một đối
tượng cụ thể là không thể thực hiện trong một văn bản của nhà nước. Đây
chính là lý do mà chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Đời sống văn hóa ở thị xã
Đồng Xoài - tỉnh Bình Phước hiện nay. Trong quá trình triển khai nghiên cứu
đề tài, chúng tôi sẽ tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học
đi trước để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra của đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở nhận thức rõ những vấn đề lý luận về đời
sống văn hóa, vai trò của đời sống văn hóa đối với sự phát triển ở thị xã Đồng
Xoài, đề tài đi sâu khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống văn hóa ở thị xã từ
khi thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2000 đến nay. Qua đó đề xuất các

giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa cho người dân thị xã
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Nhiệm vụ: Xác định các khái niệm công cụ có liên quan đến nội
dung đề tài như: Quan niệm về đời sống văn hóa, đời sống văn hóa đô thị và
đặc điểm của đời sống văn hóa đô thị; cấu trúc của đời sống văn hóa; vai trò
của đời sống văn hóa với sự phát triển kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội ở
địa phương.
Khảo sát, phân tích thực trạng đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài từ
năm 2000 đến nay, trên cơ sở đó chỉ ra những thành tựu đã đạt được, những
vấn đề tồn tại trong đời sống văn hóa thị xã Đồng Xoài - tỉnh Bình Phước.
Luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Về đối tượng: Đời sống văn hóa trên địa bàn thị xã Đồng Xoài tỉnh Bình Phước.


7
4.2. Về phạm vi: Luận văn khảo sát thực trạng đời sống văn hóa ở thị
xã Đồng Xoài từ năm 2000 - khi thị xã Đồng Xoài - tỉnh Bình Phước được
thành lập và đi vào hoạt động đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận: Trên cơ sở quan điểm lý luận văn hoá của chủ nghĩa
Mác - Lênin, các luận điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về văn hoá, đề tài tiếp cận một cách có hệ thống những tiền đề lý
luận về đời sống văn hoá, về xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp liên ngành văn hóa học,
trong đó tiếp cận đời sống văn hóa trên địa bàn thị xã Đồng Xoài - tỉnh Bình
Phước là phương pháp luận chủ yếu của luận văn. Cùng với phương pháp
dân tộc học, phương pháp văn bản học, luận văn còn vận dụng các thao tác
nghiên cứu cụ thể, như: Sưu tầm tài liệu, miêu tả, thống kê, so sánh, phân

tích, tổng hợp, điền dã thực địa để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên
cứu của đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn bước đầu nhận diện và hệ thống hóa thực trạng đời sống văn
hóa ở thị xã Đồng Xoài. Đề xuất một số giải pháp và các kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng công tác xây dựng đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Làm tài liệu tham khảo cho công tác xây dựng đời sống văn hóa và hoạt
động nghiên cứu, giảng dạy.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần gợi mở, bổ sung những
vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng đời sống văn hóa ở tỉnh
Bình Phước nói chung và thị xã Đồng Xoài nói riêng. Đồng thời, luận văn có
thể là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến lĩnh vực này.


8
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phục lục, luận văn được kết cấu thành 03 chương, 8 tiết:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đời sống văn hóa ở thị
xã Đồng Xoài - tỉnh Bình Phước hiện nay
Chương 2: Thực trạng đời sống văn hóa ở thị xã Đồng Xoài - tỉnh Bình
Phước hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đời sống
văn hóa ở thị xã Đồng Xoài - tỉnh Bình Phước trong thời gian tới


9
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA Ở THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI - TỈNH BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ

1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá
Đời sống văn hóa là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trên các
sách, báo, tạp chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong ngành
văn hoá nước ta. Cũng giống như khái niệm văn hóa, quan niệm về ĐSVH có
nội hàm ngữ nghĩa hết sức đa dạng và phong phú.
Bàn về đời sống văn hóa, GS. Hoàng Vinh cho rằng:
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu tố
văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn hóa),
cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng hoạt
động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống văn hóa
bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các hình thức văn hóa
tâm linh [62, tr. 268].
Theo tác giả Nguyễn Hữu Thức:
Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái quát là hiện thực
sinh động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy
trì, đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo
những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác
động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng cao
chất lượng sống của chính con người [52, tr. 20].
Tác giả Lê Như Hoa giải nghĩa, đời sống văn hóa không bó hẹp vào
một số lĩnh vực cụ thể nào mà: “Đời sống văn hóa bao quát mọi mặt của đời
sống xã hội: Sản xuất, trao đổi, tiêu dùng, nhận thức, sáng tạo, lối sống… Đời
sống văn hóa không phải là bộ phận nhỏ trong đời sống tinh thần của con



10
người mà có mặt trong cả hai lĩnh vực: Đời sống vật chất và đời sống tinh
thần” [23, tr. 209].
Tập thể tác giả trường Cao đẳng Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (nay
là Đại học Văn hóa) định nghĩa:
Đời sống văn hóa là bộ phận cấu thành thích hợp và có thể coi là
“mặt cắt ngang” trong đời sống chung của con người và xã hội. Nó gồm
một tổ hợp những thành tố văn hóa tác động qua lại với đời sống cá
nhân và cộng đồng, khả dĩ để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người
và thúc đẩy sự tiến triển của đời sống xã hội [55, tr. 8].
Nghiên cứu “Đời sống văn hóa thanh niên đô thị nước ta hiện nay thực trạng và giải pháp”, các nhà khoa học Viện Văn hóa và phát triển, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm:
Đời sống văn hóa là một bức tranh hiện thực sống động các hoạt
động của con người với sự hỗ trợ của các thiết chế văn hóa và sản phẩm
văn hóa nhằm sáng tạo, hưởng thụ và lưu giữ; phát huy các giá trị văn
hóa kết tinh trong những sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể, nâng
cao chất lượng sống của con người [21, tr. 28].
Tác giả Nguyễn Văn Nhật diễn giải quan niệm về đời sống văn hoá
theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
Theo nghĩa rộng, đời sống văn hóa là toàn bộ những hoạt động
sinh sống có ý thức của con ngýời - cá nhân và cộng ðồng - trong quá
trình hấp thu và sáng tạo các giá trị vật chất và giá trị tinh thần theo
hướng chân, thiện, mỹ nhằm thích ứng nhu cầu tồn tại của xã hội, mà
trung tâm là sự tồn tại và phát triển của chính con người. Theo nghĩa
hẹp, đời sống văn hóa thường được dùng để chỉ đời sống tinh thần của
con người, phân biệt với đời sống vật chất [35, tr. 44-45].
Thực ra, quan niệm văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội đã được
Đảng ta đề cập đến trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943. Đề cương



11
viết: “Văn hóa bao gồm: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật”. Đây là ba thành
tố quan trọng trong đời sống tinh thần của một cộng đồng xã hội. Và đến Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa VIII) năm 1998 thì
quan niệm trên đây được Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng thành luận
điểm: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển kinh tế xã hội”. Ông Hữu Thọ - nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, một trong những
người tham gia xây dựng Nghị quyết Trung ương 5, đã giải thích: "Văn hóa
theo nghĩa rộng nhất thì ngoài tự nhiên là văn hóa. Ở đây, theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 (khóa
IX) thì nội hàm của văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội" [49, tr. 73].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới xem ĐSVH đó chính là đời sống tinh thần của xã hội và thuộc về kiến
trúc thượng tầng. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có vị trí quan trọng như kinh tế,
chính trị, xã hội tạo thành bốn vấn đề lớn của sự phát triển đất nước và chúng
có quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau, cái này là cơ sở của cái
kia…“Văn hóa nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng
ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” [22, tr. 368-369]. Như vậy, văn
hóa phải thẩm thấu, định hướng các hoạt động kinh tế, chính trị theo các mục
tiêu: Do con người và vì con người, vì sự phát triển của con người hướng tới
Cái Chân, Cái Thiện, Cái Mỹ. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên luận
điểm phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện phát triển
văn hóa. Người tiếp tục lý giải:
Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì phải phát triển kinh tế và văn
hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu:
Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng phát
triển kinh tế để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta [21, tr. 59].



12
Trong luận văn này, đời sống văn hóa được hiểu là hệ thống những
hoạt động của con người diễn ra trong một không gian nhất định, gắn liền với
các thiết chế văn hóa và sản phẩm văn hóa. Các hoạt động này tác động lẫn
nhau nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần, hướng con người
đến các giá trị Chân - Thiện - Mỹ; nâng cao chất lượng sống của con người.
Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống xã
hội là một phức thể những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng các
nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất được đáp ứng làm cho
con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu tinh thần thì giúp con người
tồn tại như một sinh thể xã hội, tức một nhân cách văn hoá. Hai nhu cầu cơ
bản này xuất hiện ngay từ khi con người hình thành về mặt giống loài, tức là
từ buổi bình minh của xã hội loài người. Tuy vậy, khi xã hội phát triển lên
cao, đạt tới các trình độ khác nhau của nền văn minh, thì sự đáp ứng nhu cầu
cũng đạt tới trình độ phát triển tương ứng. Từ hai nhu cầu cơ bản nêu trên
hình thành nhu cầu văn hoá, thể hiện khía cạnh chất lượng của trình độ đáp
ứng nhu cầu. Có thể nêu lên vài ví dụ: Chẳng hạn, ăn là để tồn tại về mặt sinh
thể, thuộc nhóm nhu cầu vật chất. Còn cách ăn thế nào cho lịch sự, đẹp mắt,
cách nấu nướng, kỹ thuật nấu, trình bày... lại thuộc về lĩnh vực văn hoá. Cũng
như thế, uống để giải khát sinh học là thuộc nhóm nhu cầu vật chất, còn tiệc
trà, tiệc rượu nhằm “giải khát tâm lý” thì thuộc nhu cầu văn hoá. Trà đạo của
Nhật Bản, tửu đạo của Trung Hoa xưa chính là biểu hiện độc đáo về “văn hoá
ẩm thực” của hai quốc gia này.
Nhu cầu văn hoá là biểu hiện của nhu cầu tinh thần, nhưng nó không
đồng nhất với nhu cầu tinh thần. Chẳng hạn, có một số phong tục lạc hậu đã
từng tồn tại trong các xã hội truyền thống như “lễ hiến tế” để cầu được mùa,
thờ “dâm thần” để lấy khước, hoặc như các trò phù thuỷ, bắt ma, gọi hồn, giải
oan... còn khá phổ biến trong đồng bào miền núi... là xuất phát từ nhu cầu tinh
thần cư dân, nhưng không thể coi đó là nhu cầu văn hoá được.



13
Như vậy, chỉ có bộ phận nhu cầu tinh thần hướng tới các giá trị cao cả,
và sự đáp ứng các nhu cầu này góp phần phát triển con người theo hướng
nhân bản hoá thì mới xem là nhu cầu văn hoá. Nhu cầu văn hoá không thể là
cái nhất thành bất biến, mà nó có tính chất năng động và phát triển. Vì thế, sự
đáp ứng nhu cầu cũng phải năng động và thường xuyên đổi mới chất lượng.
Các hoạt động nhằm vào sự đáp ứng nhu cầu văn hoá của con người thì gọi là
hoạt động văn hoá.
Hoạt động văn hoá là một bộ phận của hoạt động xã hội, nếu diễn đạt
bằng thuật ngữ kinh tế học thì đó là quá trình sản xuất (sáng tạo) bảo quản,
phân phối và tiêu dùng các sản phẩm văn hoá do quá khứ để lại và đương thời
tạo ra.
Khác với khối lượng sản phẩm vật chất đồng loạt, sản phẩm văn hoá
thường mang tính độc đáo, nó được sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt
động thực tiễn - lịch sử của nhân loại.
Sản phẩm văn hoá gồm hai loại: Vô hình và hữu hình.
Sản phẩm văn hoá vô hình là thuộc loại sản phẩm không có hình thể, nó
tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi nhận trong ký ức xã hội. Chẳng hạn như
các huyền thoại, truyền thuyết, các lễ hội, tín ngưỡng dân gian, các anh hùng
văn hoá, các nhân thần có công dựng nước và giữ nước, các giá trị văn hoá
tinh thần của dân tộc như: Chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái cao cả, ý thức
cộng đồng và đức tính cần cù trong lao động. Đó là sản phẩm văn hoá - lịch
sử của dân tộc, nó giống như một chất keo vô hình đã liên kết các thành viên
của cộng đồng dân tộc Việt Nam thành một khối vững chắc, như khí thiêng
sông núi bao bọc lấy giang sơn Tổ Quốc, hun đúc nên tinh thần Việt Nam và
góp phần đào luyện nên nhân cách Việt Nam.
Sản phẩm văn hoá hữu hình là thuộc loại sản phẩm hữu thể, tồn tại dưới
dạng vật thể như: Tranh, tượng, mỹ nghệ phẩm, kiến trúc, tác phẩm văn hoá,



14
di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh... và dưới dạng hành động như: Nghệ
thuật biểu diễn, trò chơi, phong tục...
Ngoài ra, còn phải kể đến con người là chủ thể sáng tạo ra thế giới sản
phẩm văn hoá. Các sản phẩm ấy phối kết với mạng lưới hoạt động văn hoá
của con người hình thành nên môi trường văn hoá. Đó là thiên nhiên thứ hai,
là cái vườn ươm tạo nên nhân cách văn hoá của con người. Ở đây, chúng ta
thấy con người vừa là chủ thể, lại vừa là sản phẩm của chính nó. Phẩm chất
văn hoá của con người thể hiện ở trình độ ứng xử của nó đối với thiên nhiên,
đối với xã hội, và đối với bản thân.
Nhờ sự xuất hiện của các phương tiện thông tin đại chúng, các sản
phẩm văn hoá do xã hội tạo ra có thể đến thẳng tới từng người. Nhưng do nhu
cầu xã hội cần có sự điều tiết cho phù hợp với từng loại đối tượng, cho nên
sản phẩm của văn hoá phải thông qua các thiết chế văn hoá - xã hội, tức là
phải qua trạm trung chuyển để đến với công chúng. Thiết chế văn hoá là các
cơ quan văn hoá, như: Trường học, trung tâm văn hoá, thư viện, nhà bảo tàng,
xưởng phim, rạp hát, nhà báo, nhà xuất bản... có nhiệm vụ chuyên chở các
loại sản phẩm văn hoá đến với mọi người trong xã hội.
Tóm lại, để các sản phẩm văn hoá nảy sinh và được vận hành trong đời
sống xã hội, phải có ba yếu tố: Sản phẩm văn hoá, thiết chế văn hoá, các dạng
hoạt động văn hoá và chủ thể văn hóa - những con người văn hoá. Ba yếu tố
đó tạo thành cấu trúc của ĐSVH.
1.1.2. Đời sống văn hóa đô thị
Đời sống văn hóa đô thị là một thuật ngữ ghép bởi hai khái niệm: Đời
sống văn hóa và đô thị. Khái niệm đời sống văn hóa đã được chúng tôi trình
bày và phân tích ở trên. Vậy đô thị là gì?
Theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ
nước ta, đô thị: Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp

quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của


15
vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước
hoặc một vùng lãnh thổ nhất định. Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải
đạt 4.000 người trở lên. Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc
điểm của từng loại đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu
phố xây dựng tập trung của thị trấn. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp được tính
trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung phải
đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động. Hệ thống công trình hạ tầng đô thị
gồm hệ thống công trình hạ tầng xã hội và hệ thống công trình hạ tầng kỹ
thuật: Đối với khu vực nội thành, nội thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ
và có mức độ hoàn chỉnh theo từng loại đô thị; đối với khu vực ngoại thành,
ngoại thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ mạng hạ tầng và bảo đảm yêu
cầu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững. Kiến trúc, cảnh quan đô
thị: Việc xây dựng phát triển đô thị phải theo quy chế quản lý kiến trúc đô thị
được duyệt, có các khu đô thị kiểu mẫu, các tuyến phố văn minh đô thị, có
các không gian công cộng phục vụ đời sống tinh thần của dân cư đô thị; có tổ
hợp kiến trúc hoặc công trình kiến trúc tiêu biểu và phù hợp với môi trường,
cảnh quan thiên nhiên [7].
Như vậy, có thể hiểu ĐSVH đô thị là hệ thống những hoạt động của
người dân đô thị diễn ra trong một không gian đô thị nhất định, gắn liền với
các thiết chế văn hóa và sản phẩm văn hóa. Các hoạt động này tác động lẫn
nhau nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu văn hóa tinh thần, hướng con người
đến các giá trị Chân - Thiện - Mỹ; nâng cao chất lượng sống của con người.
Đời sống văn hoá đô thị có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, mức độ cố kết cộng đồng, hay quan hệ cư trú, ứng xử ở đô thị
giản đơn hơn ở nông thôn. Trong khi nông thôn tính cố kết cộng đồng theo
kết cấu: Gia đình - dòng họ - làng xóm, láng giềng - xã hội, thì ở đô thị quan

hệ cư trú, ứng xử theo kết cấu: Gia đình - đường phố - xã hội. Ngoài quan hệ
gia đình, dòng tộc, hàng xóm, người dân đô thị còn có quan hệ đồng nghiệp,


16
đồng hương, đối tác...Giao tiếp ở đô thị phổ biến là giao tiếp theo nhóm sở
thích, nhóm nghề nghiệp chứ không phải theo nhóm địa bàn khu dân cư.
Thứ hai, các quan hệ xã hội giữa các cá nhân với cá nhân phổ biến là
quan hệ xã hội theo kiểu “đứt đoạn” và thực dụng trong xã hội đô thị. Có
nghĩa là con người quan tâm đến nhau nhiều hơn ở thực tại mà ít bận tâm về
quá khứ (lai lịch, tiểu sử cá nhân đó và gia đình). Và trong đời sống xã hội,
mọi hoạt động đều được xem xét, đánh giá trên cơ sở định lượng. Với cư dân
đô thị, thời gian, vật chất, tinh thần, quan hệ xã hội..., mọi cái đều được coi là
vốn và có thể phải sử dụng hiệu quả.
Thứ ba, văn hóa đô thị có mối quan hệ hữu cơ với sự phát triển chung
của kinh tế - xã hội đô thị, nó bị tác động, chi phối, ảnh hưởng của kinh tế
thành thị. Kinh tế thành thị chủ yếu tập trung theo hướng thương mại - dịch
vụ, công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ lệ áp đảo sản xuất nông nghiệp trong cơ
cấu kinh tế. Do đó, tùy thuộc vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà các
phương thức sinh hoạt văn hóa và sự biểu hiện của nó cũng có sự phát triển
tương ứng.
Thứ tư, ĐSVH đô thị có diện mạo đa dạng. Bởi vì, đô thị là khu vực thu
hút dân cư của các địa phương đến sinh sống, lao động, học tập, công tác. Với
những đô thị có tính “mở” cao như các đô thị Nam Bộ thì những yếu tố văn
hóa địa phương do người dân ở vùng đất khác mang đến đây cũng được tiếp
nhận, và hiện tượng những người di cư từ miền Bắc, miền Trung đến thường
sống tập trung quây quần với nhau thành khu vực nhỏ của các đô thị. Họ vừa
xây dựng nét văn hóa riêng của mình, vừa tiếp nhận những nét văn hóa đô thị
nơi mình sinh sống. Và cứ như thế, quá trình giao lưu, tiếp biến ở đây diễn ra
nhanh và tự nhiên, do đó người dân khắp nước thường cho rằng đây là nơi dễ

sống cả về kinh tế lẫn sự hòa hợp của thị dân khu vực Nam Bộ. Ngoài ra, do
khung cảnh hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay, đô thị là nơi dễ tiếp nhận các giá


17
trị văn hóa từ bên ngoài vào, từ đó tạo nên diện mạo đời sống văn hóa đa dạng
và phong phú.
Thứ năm, hệ thống thiết chế văn hóa được xây dựng hiện đại, thuận lợi,
các dịch vụ văn hóa tiện ích hơn cho các hoạt động văn hóa ở đô thị của cư
dân đô thị. Cư dân đô thị có trình đô dân trí cao do đây là nơi tập trung với
mật độ cao những tổ chức văn hóa, khoa học, giáo dục, họ là các doanh nhân,
đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, học sinh sinh viên...
Thứ sáu, ĐSVH đô thị đề cao tính kỷ cương, thể chế và theo khuôn
khổ: Đô thị vốn là nơi tập trung một lượng đông người trên một lãnh thổ hạn
chế với mật độ cao, sự đa dạng về nghề nghiệp, xuất thân, sắc tộc, trình độ,
đẳng cấp xã hội... cho nên cư dân đô thị phải buộc sống theo trật tự và theo
khuôn khổ (khác với sống theo sở thích cá nhân và sự tự do trong bản năng
của xã hội nông nghiệp) nếu không muốn tự hủy diệt mình, và phải chịu sự
quản lý của nhà nước và các thiết chế xã hội khác. Mặt khác, đô thị còn là nơi
tập trung rất cao các khối lượng vật chất, các hoạt động kỹ thuật, do đó môi
trường có độ rủi ro cao, chính vì thế đời sống đô thị phải được vận hành theo
các quy tắc cứng (sử dụng điện, nước, xăng dầu, cháy nổ...), mỗi sơ suất của
ai đó đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người khác.
Thứ bảy, ĐSVH đô thị thể hiện tính văn minh. Văn minh được dùng để
chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của nhân loại ở một thời kỳ lịch
sử nào đó. Có người lại cho rằng, văn minh là sự thể hiện những hình thức cụ
thể của văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như lao
động, sản xuất, lối sống, hệ chuẩn mực ứng xử và khuôn mẫu hành vi..., nó
còn là những cái độc đáo, sáng tạo, có giá trị, vượt trước, mẫu mực...Như vậy,
ĐSVH đô thị là nơi thể hiện những gì hiện đại, mới mẻ, tiêu biểu, mẫu mực.

Đó là bảy đặc điểm cơ bản của ĐSVH đô thị, nếu so sánh với ĐSVH
nông thôn nó có nhiều điểm khác biệt. Tuy nhiên, việc phân chia một cách
rành mạch giữa văn hóa đô thị và văn hóa nông thôn trong bối cảnh nước ta


18
hiện nay chỉ mang tính quy ước (Trừ những thành phố lớn như Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh... mà ngay như thành phố Hà Nội sau mở rộng cũng có rất
nhiều làng xã nông nghiệp, nông thôn). Thực tiễn cũng cho thấy, hoạt động
văn hóa ở đô thị và hoạt động văn hóa ở nông thôn vừa có những điểm giống
nhau, vừa có những điểm khác nhau. Đồng hóa một cách máy móc giữa hoạt
động văn hóa ở khu vực này cũng như tuyệt đối hóa sự khác nhau giữa hai
khu vực đều dẫn đến sai lầm trong chỉ đạo, định hướng và trong quản lý và
xây dựng ĐSVH. Đặc biệt là các đô thị vừa có khu vực đô thị, vừa có khu vực
nông thôn.
1.1.3. Cấu trúc của đời sống văn hóa
Có ba yếu tố cơ bản tạo thành cấu trúc đời sống văn hóa, đó là:
1.1.3.1. Chủ thể hoạt động văn hóa (Con người văn hóa)
Đây là yếu tố giữ vị trí, vai trò quan trọng và quyết định, vì nói tới văn
hóa là nói tới con người, văn hóa do con người gieo trồng lên, chỉ có con
người mới có hoạt động văn hóa, con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là
chủ thể lựa chọn hướng đi tốt nhất cho cuộc đời mình, đồng thời con người
cũng là sản phẩm, đối tượng của đời sống văn hóa. Con người - với tư cách là
chủ thể của lịch sử và tiến bộ toàn nhân loại; chính bản thân con người là giá
trị cao nhất của tự nhiên và xã hội. Họ trực tiếp tham gia vào quá trình hoạt
động, sáng tạo, hưởng thụ và bảo quản các giá trị văn hóa, đồng thời hệ thống
giá trị văn hóa lại góp phần vào giáo dục và tự giáo dục con người. Chính
trong đời sống, những năng lực văn hóa, đặc điểm cá nhân của con người
được nuôi dưỡng và bộc lộ, đó là những đặc điểm về: Độ tuổi, giới tính, trình
độ học vấn, nguồn gốc xuất thân, môi trường làm việc, môi trường sinh

sống…của họ.
Trong ĐSVH nói chung, có đời sống văn hóa của cá nhân, của cộng
đồng và của cả xã hội. Chúng tương tác qua lại với nhau trong sự vận hành
của hệ giá trị văn hóa. Theo GS. Hoàng Vinh, khi kể đến chủ thể hoạt động


19
văn hóa ta phải kể đến trình độ văn hóa của cộng đồng thể hiện ở một số khía
cạnh như: “Học vấn, tuổi thọ, sức khỏe, những cá nhân có năng khiếu sáng
tạo đặc biệt, ứng xử văn hóa của các cá nhân trước nghĩa vụ xã hội đối với lao
động và ở nơi công cộng”…, đây là những yếu tố chủ quan quyết định đời
sống văn hóa của chủ thể đó” [62, tr. 268].
1.1.3.2. Sản phẩm văn hoá và hệ thống thiết chế văn hoá
Nhân loại tồn tại như một giống loài, không phải là tồn tại cô lập, là
bản chất tự nhiên của sự sống con người. Chính vì vậy, ngay trong cộng đồng
của xã hội truyền thống đã xuất hiện những trụ sở, những ngôi nhà chung, ở
đó người ta tiếp xúc, các sinh hoạt văn hóa chung: Nhà Rông của các dân tộc
Tây Nguyên, đình làng của người Việt... là những ngôi nhà văn hóa của xã
hội truyền thống. Ngày nay, ta có thể kể đến một số thiết chế văn hóa như:
Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, thư viện, bảo tàng, cơ quan thông tin đại
chúng, nhà truyền thống, câu lạc bộ…. Thời đại nào cũng cần đến những thiết
chế văn hóa để chuyển tải văn hóa chính thống của nhà nước đến với mỗi
thành viên, đồng thời tổ chức đời sống văn hóa tại cộng đồng của họ.
Thiết chế văn hóa với vai trò là là nơi lưu giữ và chuyển tải các giá trị
văn hóa của cộng đồng đến từng cá nhân, đây là môi trường vật chất, môi
trường pháp lý để đảm bảo cho các hoạt động văn hóa được diễn ra trong đời
sống xã hội. Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam:
Thuật ngữ Thiết chế văn hóa là một thuật ngữ chuyên môn được
sử dụng rộng rãi trong ngành văn hóa - thông tin nước ta từ những năm
70 của thế kỷ XX. Thiết chế văn hóa là chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ

các yếu tố cơ sở vật chất, bộ máy tổ chức, hệ thống, biện pháp hoạt
động và kinh phí hoạt động cho thiết chế đó. Ví dụ, thiết chế nhà văn
hóa bao gồm ngôi nhà, bộ máy tổ chức, nhân sự, quy chế hoạt động,
nguồn kinh phí; chỉ riêng ngôi nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ để
gọi là thiết chế văn hóa [56, tr. 230].


20
Đồng nhất với quan điểm nêu trên, GS. Hoàng Vinh chỉ ra những yếu
tố hình thành nên một thiết chế văn hóa, đó là:
Có bộ máy điều hành bao gồm cán bộ quản lý và cán bộ chuyên
môn; có thể chế vận hành tức là một số quy chế, điều lệ cho các hoạt
động văn hóa, chế độ đãi ngộ về tài chính cho cán bộ và mạng lưới
cộng tác viên, và có chế độ thưởng phạt để khích lệ; cơ sở vật chất
(phòng ốc, hội trường, sân khấu) và trang thiết bị chuyên dùng (các
phương tiện âm thanh, ánh sáng phục vụ cho biểu diễn văn nghệ. Ba
yếu tố trên đây quy tụ vào một cơ quan văn hóa như nhà văn hóa, trung
tâm văn hóa, thư viện, nhà bảo tàng…thì gọi là thiết chế văn hóa [62, tr.
286-287].
Hiện nay, hệ thống thiết chế văn hóa của nước ta được tổ chức thành 03
hệ thống: Hệ thống thiết chế văn hóa do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quản lý; thiết chế thuộc lực lượng vũ trang và hệ thống thiết chế văn hóa của
các đoàn thể ( công đoàn, phụ nữ, thanh niên...). Riêng hệ thống thiết chế văn
hóa do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý lại chia thành 05 cấp: Thiết
chế văn hóa cấp Trung ương, cấp tỉnh - thành phố, cấp quận - huyện - thị xã,
cấp phường - xã và cấp cuối cùng là thôn, bản, khu phố, ấp.
Bên cạnh các thiết chế văn hóa, ta phải kể đến những cảnh quan văn
hóa.. Cảnh quan văn hóa là sản phẩm tồn tại trong quan hệ tương tác giữa con
người và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội bao gồm: Các thắng cảnh tự
nhiên, các kiến trúc, công trình xây dựng, quy hoạch đô thị, đường phố, các

tượng đài, công viên, khu điểm du lịch…Cảnh quan văn hóa là môi trường vật
chất - văn hóa mà trong đó con người sinh sống, là biểu hiện bề mặt trực tiếp
của đời sống văn hóa. Qua kiến trúc, cảnh quan môi trường, trật tự, … ít
nhiều có thể khái quát được đời sống văn hóa của khu dân cư. Tuy nó chỉ là
không gian vật chất do con người tạo ra nhưng các cảnh quan văn hóa nó lại
tác động nâng đỡ, điều chỉnh, giám sát hành vi con người. Bên trong những


21
cảnh quan chứa đựng những chuẩn mực của cộng đồng, cũng như thấm đượm
sự lan tỏa của các giá trị văn hóa.
Ngoài thiết chế văn hóa, cảnh quan văn hóa thì sản phẩm văn hóa là
yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc của đời sống văn hóa. Đương nhiên các
sản phẩm văn hóa này là các sản phẩm văn hóa vật thể (hữu hình) và các sản
phẩm văn hóa phi vật thể (vô hình). Các sản phẩm văn hóa phi vật thể như:
Các huyền thoại, truyền thuyết, lễ hội, tín ngưỡng dân gian, các nhân thần có
công dựng nước và giữ nước, các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ... Các
sản phẩm văn hóa vật thể như: Sách, báo, tạp chí, phim, ảnh, internet, băng
đĩa nhạc, ca khúc…Sự phong phú, đa dạng của các sản phẩm văn hóa thể hiện
nhu cầu đa dạng của các chủ thể văn hóa.
1.1.3.3. Các dạng hoạt động văn hoá
Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VI về lãnh đạo văn hóa văn nghệ có đoạn viết:
Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội,
thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là
lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công
trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp
thêm cho cuộc sống của con người [32, tr. 260].
Chúng ta biết rằng, nếu sản xuất vật chất tạo ra những sản phẩm vật
chất làm cho con người tồn tại như một sinh thể, thì sản xuất tinh thần tạo

ra những giá trị hay còn gọi là biểu tượng, ý thức thể hiện dưới dạng các
sản phẩm văn hóa tinh thần, làm cho con người tồn tại như một sinh thể xã
hội, tức là một nhân cách văn hóa. Quá trình sản xuất nào cũng thường bao
gồm các khâu chủ yếu gắn với nó là bảo quản, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng.
Như thế, hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động xã hội, nếu
diễn đạt bằng thuật ngữ kinh tế học thì hoạt động văn hóa là quá trình sản


22
xuất (sáng tạo), bảo quản, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm văn
hóa. Thông qua hoạt động này, giá trị sẽ được sản sinh (cả giá trị sử dụng và
giá trị trao đổi), vận động và lan tỏa trong cuộc sống, mục đích và nội dung
trực tiếp của nó là các giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
Với tư cách là hoạt động mang tính sáng tạo, thể hiện một cách tập
trung nhất năng lực văn hóa, khả năng sáng tạo theo quy luật của cái đẹp của
cá nhân và cộng đồng. Hoạt động sáng tạo, bảo quản, truyền bá... có thể là
hoạt động của cá nhân (mang cá tính của người sáng tạo) nhưng nó luôn có
mối liên hệ với cộng đồng, hay nó luôn mang tính xã hội. Các hoạt động
nhằm vào việc đáp ứng nhu cầu văn hóa của con người thì gọi là hoạt động
văn hóa, hay nói cách khác các hoạt động sáng tạo, bảo quản hay phân phối
luôn lấy công chúng làm đối tượng hướng tới và công chúng cũng chính là
những người tiêu dùng, từ đó họ có vai trò định hướng cho các hoạt động nói trên.
Nhu cầu văn hóa của công chúng, của nhân dân thì vô cùng đa dạng, do
đó các hoạt động văn hóa cũng phải được tổ chức một cách phong phú để phù
hợp với tính đa dạng ấy. Ở nước ta hiện nay, có thể khái quát một số dạng
hoạt động văn hóa chủ yếu như:
Hoạt động tuyên truyền cổ động; hoạt động thông tin truyền thông; hoạt
động câu lạc bộ - sáng tác văn chương nghệ thuật; hoạt động thư viện, đọc
sách báo; hoạt động văn nghệ quần chúng; hoạt động lưu giữ các sản phẩm

văn hóa và giáo dục truyền thống; hoạt động tiêu dùng các sản phẩm văn hóa:
đọc sách, báo, tranh, ảnh, xem nghệ thuật, xem phim; hoạt động lễ hội, tín
ngưỡng; hoạt động vui chơi giải trí; hoạt động thể dục thể thao; hoạt động xây
dựng gia đình - khu dân cư văn hóa; hoạt động xây dựng nếp sống văn minh
đô thị; hoạt động khai trí - giáo dục trình độ; hoạt động của các thiết chế văn
hóa và cảnh quan văn hóa.
Trên đây là ba yếu tố cấu thành cấu trúc của ĐSVH nói chung, cũng là
những mặt cơ bản hình thành nên diện mạo của ĐSVH ở một đơn vị cơ sở, sự


×