Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Hoàng Cầm : Người gọi đò từ những bờ bến lạ !

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.68 KB, 5 trang )

HOàNG CầM : NGƯờI gọi đò từ nhũng bờ bến lạ!
Lng Minh Chung
------------------------------------------------------------------------------------------
Cú l phi núi rng, trong th Hong Cm phng pht cht men say
ngõy ngt ca th ru np thm nng c chng ct lờn t mch nc
quờ hng, bng lng õu õy nhng cõu i, cõu ch vng v ca mt
min hoi nim xa. x Kinh Bc ú cú con Sụng Cu l th nc
chy, cú con Sụng Thng ụi dũng trong dũng c, bờn l, bờn bi v
cú nhng sc mu huyn thoi Lỏ Diờu Bụng. quờ hng ú cú nhng
hi hố, ỡnh ỏm, nhng linh hn thụn n ngy xa ym thm la o v
vn vng cht la dt t sc mu c tớch.
éc nhng thi phm nh: Bờn kia sụng ung, Cõy Tam Cỳc, Lỏ
Diờu Bụng khụng hiu vỡ sao trong lũng ta c vng vng õu ú nh mt
ni ngn ng, nh mt o nh chp chn khụng sao dt ra c (
1
). V
hỡnh nh con Sụng ung c trụi i mt dũng lp lỏnh nm nghiờng
nghiờng nh mt sinh th cú hn gi u lờn nhng bói cỏt phự sa, trm
tớch ca ngy xa, ngy xa, ca ni nh, nim thng c ro rc, thit
tha mang hn t, hn ngi min Kinh Bc. min t y, nhng lp sc
mu vn hoỏ c c phự sa dy lờn v ng li trong th Hong Cm
thnh th hng v tru cay mỏ , v c bit l õm hng nhng khỳc
dõn ca tr tỡnh m sõu lng ngi i ngi ... ng v ca nhng lin
ch, lin anh khi tan hi ri khụng buụng vt ỏo. Mt Kinh Bc u hoi n
sõu trong th ụng to thnh ni nim nh - tic, c nc lờn tng nhp,
c day dt trong lũng mt mi tỡnh nghn ngo, khú núi. Nhng mi tỡnh
nghn y c cht lc v dt lờn t t m quờ hng v bn tay ca
ngi ho s ngụn t. Cng cú khi ging mc, vn vng t tõm tỡnh ca
tui mi ln, sỏng lm, trong lm. Nhng mi tỡnh ú c tinh cht lờn t
mt ngun sng tr, t v tru cay ca nhng git tõm hn ri ri theo
ln Ma Thun Thnh v kộo di dai dng nh chuyn tỡnh Chc -


1
Nguyn ng Mnh, Con ng i vo th gii ngh thut ca nh vn, NXB
Giỏo dc, H Ni, 1996. (tr.231)
1
chàng Ngưu đời đời thầm thương, trộm nhớ. Ta thấy sau “không gian mưa”
ấy, có một thứ nước mắt của trời, của đời và của thời gian góp phần thanh
lọc tâm hồn con người, giúp ta sống tốt đẹp hơn. Những giọt nước mắt
trong truyền thuyết Trương Chi cứ đọng lại trong tận đáy tâm hồn của
người con tha phương một tình yêu quê hương đến cháy lòng, bỏng rát làm
thành quy luật của nỗi nhớ. Nó ngấm vào lòng cái “Tôi” trữ tình, nó thường
trực, thúc ép, dồn đẩy cảm xúc nhà thơ đến tận độ “vỡ bờ” và đó là căn
nguyên vỡ oà ra những thi tứ, thi phẩm mới.
Nhớ về “Bên kia Sông Đuống” - miền quê Kinh Bắc là một nỗi nhớ dài
dường như vô tận. Nỗi nhớ quê hương được “dệt” lên từ tổng hoà nỗi nhớ:
là những hội hè, đình đám, là mẹ hiền, em nhỏ, là bãi mía, bờ dâu “xanh
xanh”, ngô khoai “biêng biếc”... Tất cả những sắc màu Quan Họ đã tự
nhiên di thực vào trong thơ Hoàng Cầm tạo thành những nét vẽ tài hoa của
người hoạ sĩ Đông Hồ. Chính những sắc màu văn hoá, sắc màu tâm tưởng
ám ảnh, nối dài bao nhiêu thì hình ảnh thực tại xót xa của một thời máu
lửa càng dội về như xát muối trong lòng cái “Tôi” trữ tình bấy nhiêu. Các
hình ảnh “ruộng ta khô”, “nhà ta cháy” có giá trị hiện thực rất lớn, cứ hừng
hực như lửa hận, cứ vạch trời xanh mà kêu to, kết tội quân thù và làm
người đọc phải “chảy nước mắt”. Tất cả những tình cảm yêu thương, xót
xa, căm hờn “tận độ”, tố cáo mãnh liệt đến “tận đáy” xuyên thấm đến tận
cùng, bặm môi đến ứa máu và tiếc nuối đến khôn nguôi làm bật lên thành
tiếng gọi cội nguồn. Tiếng gọi ấy vọng về Kinh Bắc, vọng về từ một vùng
quê của ngày xửa “ngày xưa cát trắng phẳng lì” và lan toả trong không
gian huyền thoại, nguyên sơ, “lấp lánh” ánh vàng của dòng Sông Đuống,
và trôi chảy đi một nỗi niềm nằng nặng giữa dòng chảy cuộc đời. Con Sông
Đuống không “đỏ nặng phù sa” như Sông Hồng, không bất chợt như “Sông

Lô chiều cuối năm”, không ầm vang như Sông Mã, không xanh biếc như
Sông Hương, không cuộn sóng như Cửu Long vào mùa nước nổi… Bởi Sông
Đuống là một dòng sông trữ tình - lịch sử mang bao hoài niệm, gắn với
tiếng “gọi đò”, tiếng gọi “Em ơi!”. Tiếng gọi đó miên man dẫu gần trong
tâm tưởng nhưng cũng rất đỗi xa vời. Em là ai? Chắc chúng ta cũng không
cần phải tranh luận nhiều. Phải chăng, em là một người em không có tuổi
2
và rất mơ hồ, khó minh định. Em có thể là hình bóng của một người con
gái thuở nào, một người yêu hay những em nhỏ đáng thương đêm đêm
chui xuống gầm giường tránh đạn “Lấy mẹt quây tròn tưởng làm tổ ấm” và
cao hơn khi “Kinh Bắc hoá thành em”. Em là những giá trị văn hoá cổ
truyền, là những câu ca Quan Họ, cái áo tứ thân của những cô Tấm mà mỗi
khi bất trắc, muốn kêu lên thì thường thấy hình bóng ông Bụt hiện lên để
vỗ về, an ủi cái “Tôi” trữ tình tủi buồn trước cảnh quê hương ta “ngụt lửa
hung tàn”. Dường như hệ thống hình ảnh trong bài “Bên kia Sông Đuống”
có sức nặng ám gợi và biểu trưng cao mà tác giả đã mượn những giá trị
của nó để gieo vào lòng người đọc những tình cảm yêu thương, cảm mến.
Trong số những hình ảnh đó, chúng tôi thấy hình tượng “Mẹ già nua còm
cõi gánh hành rong” có sức ám ảnh và gây xúc động rất lớn. Cũng như hình
tượng Em nhưng hình ảnh Mẹ hiền có sức khái quát rất cao. Mẹ là ai? Khi
bàn về đề tài văn học chiến tranh cách mạng, người ta thường đặt hình
tượng Mẹ hiền bên cạnh hình tượng Tổ quốc. Phải chăng Mẹ là hình bóng
quê hương, là sắc màu văn hoá Âu Cơ đang nặng gánh trầu cau, gánh
những câu chuyện tình duyên xưa đến tận bây giờ. Hình ảnh Mẹ hiền bước
cao thấp trên con đường trơn lạnh ngắt trước thực tại nghiệt ngã của chiến
tranh chia đàn sẻ nghé, gánh hàng rong và những sợi tơ hồng vẫn còn bỏ
ngỏ, biết buộc cho ai. Ta không thấy trong hiện tại bài thơ hình ảnh của
những liền chị, liền anh mà là hình bóng Mẹ già, em nhỏ, những sinh linh
tội nghiệp có tội tình gì mà lũ “quỷ mắt xanh” chà đạp, đoạ đày.
Nếu khi nghiên cứu thi pháp thơ Nguyễn Bính, người ta thường nói về

cái “Tôi” trữ tình lỡ nhịp, lỡ bước thì đến với thơ Hoàng Cầm ta có thể ví là
cái “Tôi” lỡ yêu, lỡ thương, lỡ nhớ và thường bị lẽ đời cay nghiệt chà đạp
lên những tình cảm tươi mới, trinh nguyên. Bài thơ “Cây Tam Cúc” là một
hình ảnh biểu trưng mang mãnh lực lớn trong cấu tứ “cỗ bài tam cúc mép
cong cong”, một nét cong rất Việt Nam, một nét “cong cong” của mái đình
Đình Bảng ba gian hay nét cong của bảy sắc cầu vồng nối Trời - Đất và
Người theo thuyết âm dương ngũ hành và quy luật tương sinh, thì trong
mối tình “Chị - Em” luôn bị ám ảnh bởi nhân vật thứ ba. Trong hai bài thơ
“Cây Tam Cúc”, “Lá Diêu Bông” có nhân vật thứ ba bất ngờ đổ ào xuống
3
đời thi sĩ bẻ mối tình “cong” đến oằn mình đớn đau và tương khắc. Còn đâu
hương vị tình yêu “trầu cay má đỏ” son sắt, nồng nàn, còn đâu tiếng gọi
“đôi cây”. Bài thơ kết thúc với hình ảnh cái “Tôi” trữ tình hoá đá, thất
thanh, thảng thốt đến giật mình “Em đứng nhìn theo Em gọi đôi”. Tiếng gọi
“đôi” là tiếng gọi bật ra từ đáy lòng, gọi đò, đò đã sang sông như tiếng
chim “bắt cô trói cột” ngày xửa, ngày xưa.
Khi ta đọc xong thi phẩm “Lá Diêu Bông”, tác phẩm khép lại mà cảm
giác trong lòng người đọc dường như mất mát đi một cái gì tiêng tiếc. Âm
hưởng của tiếng kêu cứ “văng vẳng như tiếng gọi”, “tiếng khẩn cầu”. Một
tiếng gọi vào không gian xa xăm, thăm thẳm, gọi đến tuyệt vọng, thất
thanh như gọi vào gữa đại ngàn. Tuy nhiên chiều sâu của tiếng gọi ấy vẫn
giữ được chút bình tĩnh, tiếc nuối, vừa giận lại vừa thương như âm điệu của
những làn dân ca Quan Họ, của những liền chị, liền anh thường gọi nhau
vào mùa hoa đào nở rằng : “Người ơi, người ở ... đừng về” — Một tiếng gọi
đò từ những bờ bến lạ!
§/c: Lương Minh Chung
Gi¸o viªn Trêng PT. D©n téc néi tró
TØnh Bµ RÞa – Vòng Tµu
TL: 0983. 982066
4

5

×