Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm: so sánh quy định của BLDS 2005 và 2015; phân tích, đánh giá những điểm mới trong BLDS 2015 và cho ví dụ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.5 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh
tế quốc tế thì các giao dịch dân sự, thương mại được xem như các công cụ hữu
hiệu giúp cho các chủ thể tìm kiếm được lợi ích của mình. Mỗi ngày trôi qua là
hàng ngàn giao dịch Dân sự được thiết lập trong cuộc sống, xã hội càng phát
triển thì các giao dịch được xác lập ngày càng nhiều, trong đó các biện pháp bảo
đảm luôn được sử dụng rất nhiều để bảo đảm cho việc nghĩa vụ được thực hiện
đúng, để tài sản của các bên được bảo vệ trong chính các giao dịch Dân sự đó.
Vậy thì hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm đó được pháp luật quy
định ra sao để bảo vệ được quyền lợi của bên nhận bảo đảm. sau đây e xin tìm
hiểu đề tài: “Hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm: so sánh quy
định của BLDS 2005 và 2015; phân tích, đánh giá những điểm mới trong
BLDS 2015 và cho ví dụ.” để làm rõ hơn vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
1. Khái quát chung về các biện pháp bảo đảm
a. Khái niệm:
Biện pháp bảo đảm là những biện pháp pháp lý do các bên thoả thuận hoặc
do pháp luật quy định nhằm đảm bảo cho việc thực hiện hoặc để bảo đảm
cho việc giao ết và thực hiện nghĩa vụ
b. Đặc điểm:
Là biện pháp do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Là những biện pháp có tính chất bổ sung cho nghĩa vụ chính (khi nghĩa vụ
chính không thực hiện).
Là những biện pháp được đặt ra có mục đích: tác động (lên tài sản), dự
phòng (xử lý để thanh toán), dự phạt (chế tài về tài sản).


2


Các biện pháp này được áp dụng khi nghĩa vụ cần được bảo đảm bị vi
phạm và chủ yếu mang tính chất tài sản.
c. Mục đích của việc xác lập các biện pháp bảo đảm:
Bảo vệ lợi ích của bên có quyền bằng 01 tài sản nhất định, phòng ngừa rủi
ro trong SXKD và trong đời sống.
Nâng cao trách nhiệm của chủ thể có nghĩa vụ, của người tham gia hợp
đồng, đảm bảo niềm tin của bên có quyền và bảo đảm sự tín nhiệm đối với bên
có nghĩa vụ.
Hạn chế tranh chấp, bảo đảm cho chủ nợ quyền được ưu tiên thanh toán
hơn so với các chủ nợ không dược bảo đảm.
2. Hiệu lực đối kháng của các biện pháp bảo đảm
Tuy hợp đồng là luật giữa các bên tham gia giao kết và cam kết thỏa thuận hợp
pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác tôn trọng, nhưng không có nghĩa là nó đương nhiên có giá trị
điều chỉnh đối với các tổ chức, cá nhân khác, buộc họ phải tôn trọng, nhất là khi
họ không thể biết về những cam kết, thỏa thuận đó.
Vậy, để cho hợp đồng từ ý nghĩa là luật chỉ ràng buộc các bên tham giá ký kết,
trở thành có giá trị ràng buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân khác để qua đó, bảo
vệ những quyền, lợi ích hợp pháp được xác lập thông qua hợp đồng, cần phải
công khai hóa, minh bạch hóa các quyền đối với tài sản, các giao dịch dân sự. Cụ
thể là :
a. Phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba
Phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba là đăng ký GDBD.
b. Thời điểm có hiệu lực đối kháng
Thời điểm có hiệu lực đối kháng là thời điểm đăng ký GDBĐ. Thời điểm đăng
ký GDBĐ theo quy định của pháp luật không bị thay đổi trong trường hợp :
3



Thay đổi các bên tham gia GDBĐ;
c. Thay đổi hình thức của GDBĐ;
Thay đổi TSBĐ bằng các khoản tiền thu được, quyền yêu cầu thanh toán hoặc tài
sản khác có được từ việc mua bán, trao đổi TSBĐ.
d. Ý nghĩa của việc xác lập hiệu lực đối kháng
GDBĐ đã có giá trị pháp lý đối với người thứ ba (thông qua đăng ký
GDBĐ) thì TSBĐ trong giao dịch đó sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ
khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp ngoại lệ do pháp luật quy định (Pháp lệnh
thi hành án). Do vậy, đòi hỏi bên nhận bảo đảm cần có ý thức trong việc đăng ký
GDBĐ trong thời gian sớm nhất để bảo vệ một cách hiệu quả quyền lợi của
mình.
Xác định thứ tự ưu tiên với các chủ nợ có bảo đảm khác;
Xác lập quyền ưu tiên với người mua, người thuê, người nhận chuyển giao
TSBĐ;
Có thể được ưu tiên đối với người bán trả chậm, trả dần, cho thuê tài sản
mà bên bảo đảm đem đi cầm cố, thế chấp;
Ý nghĩa trong việc xác định thứ tự ưu tiên đối với các đối tượng sau :
Đối với chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm luôn được ưu tiên thanh
toán;
Đối với người có quyền cầm giữ, chủ nợ có bảo đảm luôn có thứ tự ưu tiên thanh
toán sau;
Đối với người mua TSBĐ là hàng hóa luân chuyển trong quá trình SXKD, người
mua phương tiện giao thông cơ giới đã đăng ký GDBĐ nhưng không mô tả chi
tiết số khung, số máy thì luôn trở thành chủ sở hữu tài sản đó;
Người bán trả chậm, trả dần, người cho thuê tài sản đã đăng ký giao dịch đó
trong thời hạn mười lăm (15) ngày kể từ ngày giao kết hợp đồng luôn được ưu
tiên cao hơn so với bên nhận bảo đảm ngay tình.
4



II. Quy định của pháp luật
1. Quy định của pháp luật
Điều 323 BLDS năn 2005 quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm:
“1. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp
luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1
Điều 318 của Bộ luật này.
2. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật
về đăng ký giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm
có hiệu lực chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định.
3. Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì
giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm
đăng ký.”
Theo đó thì việc đăng kí giao dịch bảo đảm (GDBĐ) được thực hiện trên cơ sở
sau:
Theo quy định của pháp luật về đăng kí GDBĐ: đây là những trường hợp mà
pháp luật quy định phải đăng kí GDBĐ. Về nguyên tắc, các biện pháp bảo đảm
và các đối tượng của biện pháp bảo đảm không phải đăng kí GDBĐ, trừ khi các
bên có yêu cầu. Nhưng theo quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về đưng
kí GDBĐ các giao dịch sau đây phải đăng kí: thế chấp rừng sản xuất là rừng
trồng, cầm cố tàu bay, thế chấp tàu bay, thế chấp tàu biển, các trường hợp khác,
nếu pháp luật có quy định.
Việc đăng kí GDBĐ là điều kiện để GDBĐ có hiệu lực chỉ trong trường hợp
pháp luật có quy định. Khi pháp luật đặt ra điều kiện yêu cầu các chủ thể của
GDBĐ phải đăng kí mới ghi nhận hiệu lực của biện pháp đó thì buộc phải tuân
theo.

5



Theo BLDS 2015:
“Điều 297. Hiệu lực đối kháng với người thứ ba
1. Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng
ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản
bảo đảm.
2. Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên
nhận bảo đảm được quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán
theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
Điều 298. Đăng ký biện pháp bảo đảm
1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thoả thuận hoặc theo quy định của
luật. Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
trường hợp luật có quy định.
2. Trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.
3. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật
về đăng ký biện pháp bảo đảm.”
Theo quy định này, khi bên bảo đảm không thực nghĩa vụ, thì bên nhận đảm bảo
có quyền yêu cầu người thứ ba đang giữ tài sản bảo đảm (thuê, mươn…) giao tài
sản đó cho mình để xử lý theo biện pháp bảo đảm. Trường hợp tài sản bảo đảm
đem bán đấu giá, thì bên nhận bảo đảm có quyền ưu tiên thanh toán hoặc bên
nhận bảo đảm sẽ nhận tài sản bảo đảm theo thỏa thuận của các bên….
2. Những điểm khác
Nếu BLDS 2005 chỉ gộp vấn đề hiệu lực đối kháng vào phần đăng kí GDBĐ và
quy định chưa cụ thể về quyền của bên nhận bảo đảm thì BLDS 2015 đã có thêm
6


một điều luật quy định về vấn đề hiệu lực đối kháng và quy định rõ ràng hơn về
vấn đề này đó là bổ sung thêm quyền của bên nhận bảo đảm.

3.. Lí do thay đổi
Luật 2005 quy định đăng kí GDBĐ theo sự tự nguyện của các bên tham gia giao
dịch. Trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải đăng ký thì việc đăng ký đó
là điều kiện có hiệu lực đối với giao dịch bảo đảm và có giá trị đối kháng với
người thứ ba. Tuy nhiên, Điều luật này chưa quy định cụ thể bên nhận bảo đảm
có những quyền nào. Để làm rõ về hiệu lực đối kháng với người thứ ba, BLDS
2015 đã sửa đổi để hoàn thiện hơn vấn đề này.
III. Đánh giá và đưa ra giải pháp
Tuy đã đưa thêm một điều luật để quy định về hiệu lực đối kháng nhưng
theo ý kiến cá nhân em thấy BLDS 2015 vẫn còn một số thiếu sót như sau:
Thứ nhất, Bộ luật chưa làm rõ nội hàm khái niệm “hiệu lực đối kháng với
người thứ ba” và mới chỉ đặt ra hai phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với
bên thứ ba, bao gồm: đăng ký biện pháp bảo đảm và bên nhận bảo đảm hoặc
người thứ ba được bên nhận bảo đảm ủy quyền chiếm hữu tài sản bảo đảm. Dự
thảo chưa ghi nhận phương thức kiểm soát chi phối là một phương thức xác lập
hiệu lực đối kháng với người thứ ba đối với tài sản bảo đảm là chứng khoán, tài
khoản tiền gửi và quyền được thanh toán theo thư tín dụng. Đây là phương thức
đã được thừa nhận rộng rãi trong thực tiễn tài trợ vốn có bảo đảm trên thế giới,
và trên thực tế, các loại tài sản này cũng đã được sử dụng làm tài sản bảo đảm ở
Việt Nam.
Thứ hai, quy định của Dự thảo về phương thức bên nhận bảo đảm chiếm
hữu tài sản bảo đảm chưa đầy đủ và chưa phù hợp với thực tế. Bộ luật quy định
“Cầm cố tài sản được xác lập và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ
7


thời điểm bên cầm cố chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố” (Điều 319),
nhưng không làm rõ khái niệm “chuyển giao tài sản”. Trong thông lệ quốc tế về
giao dịch bảo đảm không dùng khái niệm “chuyển giao tài sản” mà là bên nhận
bảo đảm “nắm quyền chiếm hữu tài sản bảo đảm”, vì không phải trong mọi

trường hợp đều có sự di chuyển tài sản bảo đảm từ bên bảo đảm sang bên nhận
bảo đảm. Có thể xảy ra một số trường hợp sau đây:
Bên nhận bảo đảm trước đó đã giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm là hàng hóa
vẫn ở trong kho của bên bảo đảm, nhưng bên bảo đảm bị hạn chế tiếp cận hàng
hóa và bên nhận bảo đảm thuê một bên thứ ba trông giữ, quản lý hàng hóa, hàng
hóa được chuyển đến kho của một bên thứ ba, và bên thứ ba có văn bản xác nhận
rằng mình giữ tài sản bảo đảm vì lợi ích của bên nhận bảo đảm.
Hình thức chiếm hữu tài sản bảo đảm thông qua bên thứ ba khá phổ biến
trong thực tiễn cho vay có bảo đảm ở Việt Nam, nhưng Bộ luật chưa quy định rõ
đây có được coi là một phương thức xác lập hiệu lực đối kháng của biện pháp
cầm cố tài sản với bên thứ ba hay không và có phải là căn cứ để xác định thứ tự
ưu tiên hay không.
Đưa ra giải pháp:
Quy định rõ khi giao dịch bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với bên
thứ ba thì bên nhận bảo đảm có quyền theo đuổi tài sản và quyền ưu tiên thanh
toán từ việc xử lý tài sản bảo đảm trước bên thứ ba, trừ trường hợp Bộ luật này
có quy định khác.
Bổ sung một phương thức xác lập hiệu lực đối kháng với bên thứ ba là bên
nhận bảo đảm kiểm soát chi phối tài sản bảo đảm (đối với tài sản bảo đảm là
chứng khoán, tài khoản tiền gửi và thư tín dụng). Đồng thời quy định rõ khái
niệm “chuyển giao tài sản cầm cố” bao gồm bên nhận bảo đảm trực tiếp chiếm
hữu tài sản hoặc chiếm hữu thông qua người thứ ba và khái niệm “kiểm soát chi
phối” (có thể quy định trong BLDS hoặc quy định trong Nghị định hướng dẫn).
8


IV. Ví dụ cụ thể
Anh A vay ngân hàng X một khoản tiền, hai bên có áp dụng biện pháp bảo đảm
thế chấp quyền sử dụng đất của anh A đối với ngân hàng X. Hợp đồng vay không
quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực. Tuy nhiên nếu các bên thỏa thuận

thế chấp quyền sử dụng đất và đưa ngay vào hợp đồngvay hoặc thành lập một
hợp đồng riêng thì hình thức buộc phải được công chứng chứng thực và đăng kí.
Khi đó hợp đồng có hiệu lực.
Trong ví dụ này, khi đem ra đối chiếu với quy định của BLDS 2005 thì giao dịch
bảo đảm này có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký.
Tức là bên nhận bảo đảm là ngân hàng X khi đăng kí song GDBĐ thì việc đăng
kí này sẽ giúp cho ngân hàng X đảm bảo được quyền lợi của mình. Nếu anh A có
thế chấp quyền sử dụng đất với bên thứ ba thì bên thứ ba cũng sẽ biết được rằng
quyền sử dụng đất của anh A đã được thế chấp cho ngân hàng X và sẽ quyết định
có cho anh A thế chấp hay không. Vì khi anh A không trả được nợ thì ngân hàng
X sẽ được quyền ưu tiên thanh toán trước, điều này sẽ dẫn đến rủi ro cho bên thứ
ba. Tuy nhiên thì luật chưa quy định rõ là đến thời hạn bảo đảm, anh A không trả
được nợ đồng thời cũng không có ý định chuyển quyền sử dụng đất cho ngân
hàng X thì ngân hàng sẽ có những quyền lợi gì trong tình huống này. Khi đối
chiếu tình huống này trong BLDS năm 2015 thì ngân hàng X ngoài quyền được
ưu tiên thanh toán theo như quy định tại BLDS 2005 sẽ có thêm quyền truy đòi
lại tài sản bảo đảm nếu anh A không giao quyền sử dụng đất cho ngân hàng X.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích đã nêu trên, có thể nói rằng hiệu lực đối kháng với người thứ
ba thông qua đăng kí GDBĐ là rất cần thiết trong các giao dịch dân sự. Nó giúp
đảm bảo sự an toàn pháp lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền
khi bên kia không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng (vi
9


phạm hợp đồng). Hơn nữa, nó giúp cho sẽ giúp cho bên có nghĩa vụ nâng cao
hơn nữa trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các nghĩa vụ của hợp
đồng. Vì vậy mà pháp luật dân sự cần có thêm những quy định để hoàn thiện hơn
về vấn đề này, tránh những rủi ro không đáng có khi các bên tham gia các giao
dịch dân sự.


10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, tập 1 - 2, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Nghị định của Chính phủ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về GDBĐ.
5. Nghị định của Chính phủ số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng kí
GDBĐ.
6.nguoibaovequyenloi.com/User/ThongTin_ChiTiet.aspx?
MaTT=4122015141723897712&MaMT=23
7. duthaoonline.quochoi.vn

11



×