Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Kinh nghiệm quản lý nợ công trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.67 KB, 14 trang )

Mục Lục
Mục Lục.............................................................................................................................................................................. 1
Chương II: Lý Thuyết.................................................................................................................................................... 2
1.1 Khái niệm nợ, nợ công..................................................................................................................................... 2
1.2 Quan điểm về nợ công và cách tính nợ công ở Việt Nam so với thế giới...................................2
1.2.1 Đối tượng...................................................................................................................................................... 2
1.2.2 Phương thức xác định............................................................................................................................. 2
1.3 Nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng................................................................................................. 3
1.3.1 Nguyên nhân gây nợ công..................................................................................................................... 3
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công................................................................................................ 4
1.4. Hậu quả của nợ công...................................................................................................................................... 4
1.4.1 Nợ công làm giảm GDP........................................................................................................................... 4
1.4.2 Nợ công làm cho sự tăng trưởng của sản phẩm tiềm năng chậm lại................................5
1.4.3 Nợ công ảnh hưởng đến xếp hạng tín nhiệm của quốc gia.....................................................5
1.4.4 Các hậu quả khác...................................................................................................................................... 5
Chương II: Thực trạng nợ công............................................................................................................................... 6
2.1. Thực trạng nợ công trên thế giới.............................................................................................................. 6
2.1.1. Thực trạng nợ công của Mỹ................................................................................................................. 6
2.1.2. Thực trạng nợ công khu vực EU:....................................................................................................... 6
2.1.3. Thực trạng nợ công của Trung Quốc:............................................................................................. 7
2.1.4. Thực trạng nợ công của Thái Lan:................................................................................................... 7
2.2 Thực trạng nợ công ở Việt Nam.................................................................................................................. 8
2.2.1. Quy mô nợ công Việt Nam gia tăng nhanh...................................................................................8
2.2.2 Việc sử dụng nợ công còn nhiều bất cập......................................................................................10
2.2.3 Rủi ro liên quan đến nợ công hiện nay.......................................................................................... 11
2.3 Dự báo tình hình nợ công của Việt Nam trong thời gian tới.......................................................11
Chương III: Kết luận................................................................................................................................................... 13

1



Chương II: Lý Thuyết
1.1 Khái niệm nợ, nợ công
* Khái niệm nợ: Nợ là một thuật ngữ thường được sử dụng trong trường hợp phải thực hiện
một nghĩa vụ hoàn trả hay đền bù về tài sản, vật chất. Tuy nhiên, nợ cũng có thể được sử dụng để
chỉ các nghĩa vụ khác. Trong trường hợp nợ tài sản thì nợ là một cách sử dụng sức mua trước khi
kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức mua đó.
* Khái niệm nợ công: Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. Việc đi vay này là
nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân
sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường
đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
- Nợ trong nước và nợ nước ngoài.
- Nợ ngắn hạn, nợ trung hạn và nợ dài hạn.

1.2 Quan điểm về nợ công và cách tính nợ công ở Việt Nam so với thế giới
1.2.1 Đối tượng
Theo Luật Quản lý nợ cộng 2009, chủ thể nợ công ở Việt Nam bao gồm các chính quyền
trung ương, chính quyền địa phương và các tổ chức khác trong trường hợp các khoản nợ được
Chính phủ bảo lãnh.
Theo các tổ chức quốc tế, ngoài thành phần chủ chốt của khu vực công là Chính phủ và
chính quyền địa phương, khu vực này còn bao gồm các công ty công (theo IMF) hoặc các tổ
chức tự chủ (theo WB) và cả cơ quan quản lý tiền tệ trung ương. Như vậy, khu vực công của các
tổ chức quốc tế (IMF, WB) có sự có mặt của Cơ quan quản lý tiền tệ (Ngân hàng Trung ương NHTW) trong khi ở Việt Nam không được tính đến trong khu vực công.

1.2.2 Phương thức xác định
Nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam dựa trên nguyên tắc: trách nhiệm thanh toán thuộc về
chủ thể đi vay; còn nợ công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: chủ sở hữu thực sự
hay pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ công theo

tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng với nợ của: Ngân hàng Nhà
nước (NHNN), các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội
(ASXH) và một số địa phương. Điều này góp phần giải thích cho những con số nợ công được
đưa ra bởi các tổ chức quốc tế và Việt Nam rất khác nhau.
2


Thực tiễn các nước cho thấy, ngoài nợ chính phủ và nợ được chính phủ bảo lãnh (hầu hết các
quốc gia đều cho vào nợ công) một số nước xác định nợ công còn gồm nợ của DNNN phi tài chính
(Thái Lan, Macedonia). Tuy nhiên, cần lưu ý ít nước có khu vực DNNN lớn như Việt Nam.

Ngoài ra, các tổ chức quốc tế có tính đến nợ lương hưu trong khoản nợ Chính phủ
(UNCTAD) còn Việt Nam thì dường như quên mất. Theo nguyên tắc tính nợ của một số tổ chức
quốc tế, khi một công chức nhận lương họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một phần khác, có thể
bằng hoặc gấp đôi Chính phủ phải đóng vào quỹ này. Phần Nhà nước đóng góp phải tính vào chi
tiêu. Dựa vào hợp đồng đã ký về hưu trí, nếu đóng góp không đủ để chi trả trong tương lai thì phải
tính vào nợ. Khoản mục này trên thực tế là không nhỏ.
Tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước trong khối EU đã tính nợ
theo đúng tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc nên đều có tỷ lệ nợ/GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên
100% đối với các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát
triển khi không tính nợ lương hưu thì có lẽ 50% là ngưỡng phù hợp. Tại Việt Nam mức ngưỡng
nợ công/GDP được Quốc hội đề ra là 65% là phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng
tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.

1.3 Nguyên nhân và các nhân tố ảnh hưởng.
1.3.1 Nguyên nhân gây nợ công
Ở mỗi nước và tùy từng thời kỳ lại có các nguyên nhân khác nhau, song tình trạng nợ công
hiện nay ở nước ta do những nguyên nhân cơ bản sau:
• Thứ nhất, gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, đặc biệt là hậu quả to lớn của cuộc


khủng hoảng tài chính- kinh tế toàn cầu đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
•Thứ hai, sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm chí

bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, cùng với tệ
tham nhũng phát triển.
•Thứ ba, các nguồn thu tăng không kịp với nhu cầu chi, thậm chí một số loại thuế chịu áp
lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của
nước ta phải cắt giảm hoặc loại bỏ phù hợp với các quy định của WTO và các thỏa thuận thương
mại khác mà ta tham gia. Trong khi đó, vấn đề quản lý nguồn thu, nhất là từ thuế gặp không ít
khó khăn do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt và xử lý không
nghiêm của các cơ quan chức năng.
•Thứ tư, do bội chi ngân sách lớn và kéo dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực chính bổ
sung thâm hụt là nguyên nhân khiến tình hình nợ công ngày càng trở thành gánh nặng cho nền
kinh tế. Nguồn thu ngân sách từ thuế sụt giảm, chi phí phúc lợi gia tăng, dân số già hóa dẫn đến
thâm hụt ngân sách.
3


1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Một yêu cầu tối quan trọng đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công so với GDP là
ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân sách và làm tốt công tác dự báo,
lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô. Để làm được điều đó, ta
cần phải nắm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu,
phòng tránh và giải quyết kịp thời các tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ này.
Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ bản chất nợ công
ta có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách phản ánh giá trị tuyệt đối của nợ công chính phủ.
Điều đó đồng nghĩa với việc, khi khoảng cách thâm hụt nhỏ, nhưng khoản vay bù đắp giảm đi,
làm cho nợ công được hạn chế.
Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ, quyết định xem
các khoản nợ này sẽ đắt hơn hay rẻ đi. Mặt khác, việc lãi xuất tăng sẽ làm cho các khoản vay của

chính phủ khó khăn hơn, không đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế. Một là, nền kinh
tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả năng nợ công tăng lên. Hai là,
tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn đến việc cấp bù lạm phát cho các khoản nợ
đã đến hạn thanh toán.
Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngoài của chính phủ. Cơ chế
tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác nhau về đối tượng hưởng lãi.
Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động của tỷ giá ảnh
hưởng đến chi phí của khoản nợ công.

1.4. Hậu quả của nợ công.
1.4.1 Nợ công làm giảm GDP
Có hai quan điểm chính về việc nợ công tác động đến nền kinh tế:
Quan điểm truyền thống cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ công kích
thích tiêu dùng và làm giảm tiết kiệm quốc dân. Sự gia tăng tiêu dùng làm tăng tổng cầu và thu
nhập quốc dân trong ngắn hạn nhưng dẫn đến khối lượng tư bản ít hơn (do đầu tư giảm) và thu
nhập quốc dân thấp hơn trong dài hạn.
Quan điểm Barro-Ricardo lại cho rằng biện pháp cắt giảm thuế được bù đắp bằng nợ chính
phủ không kích thích chi tiêu ngay cả trong ngắn hạn vì không làm tăng thu nhập thường xuyên
của các cá nhân mà nó chỉ làm dịch chuyển thuế từ hiện tại sang tương lai. Các cá nhân dự tính
rằng, hiện giờ chính phủ giảm thuế và phát hành trái phiếu bù đắp thâm hụt thì đến một thời
điểm trong tương lai chính phủ sẽ lại tăng thuế để có tiền trả nợ hoặc in tiền để trả nợ (mà hậu
4


quả là lạm phát tăng tốc). Do đó, người ta tiết kiệm hiện tại để có tiền đóng thuế trong tương lai
hoặc mua hàng hóa và dịch vụ sẽ lên giá.

1.4.2 Nợ công làm cho sự tăng trưởng của sản phẩm tiềm năng chậm lại
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ

công lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại
vì những lý do sau:
Thứ nhất, nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất
khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
Thứ hai, Một khoản nợ công lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu cổ
phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều này làm
cho cung về vồn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất
tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
Thứ ba, Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một tổng
thể thì chính phủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước lớn thì chính
phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích
về phúc lợi xã hội.

1.4.3 Nợ công ảnh hưởng đến xếp hạng tín nhiệm của quốc gia
Nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức
chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư
bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của nền kinh tế có
nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một “cú huých”, đẩy nền
kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.

1.4.4 Các hậu quả khác
Một quốc gia lâm vào khủng hoảng nợ công trầm trọng rất dễ bị cuốn vào tâm xoáy của
vòng luẩn quẩn: khủng hoảng - nợ cắt giảm, siết chặt chi tiêu ngân sách - giảm tăng trưởng - thất
nghiệp - giảm phát - gia tăng nợ công - vỡ nợ.

5


Chương II: Thực trạng nợ công

2.1. Thực trạng nợ công trên thế giới
2.1.1. Thực trạng nợ công của Mỹ
Nợ công Hoa Kỳ là tổng số nợ của chính phủ liên bang Hoa Kỳ. Số nợ này từ thập niên 1980,
ngoại trừ một thời gian ngắn, gia tăng đều đặn, đặc biệt là vào thập niên 2000, phần lớn vì chiến
tranh ở Afghanistanvà Iraq cũng như vì ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chánh từ năm 2007.
Tính tới ngày 29 tháng 11 2011 số nợ công tổng cộng là 14,46 ngàn tỷ USD tương đương với
98,6 % Tổng sản phẩm nội địa. Tính tới ngày 2 tháng 12 2013 là 17,226 ngàn tỷ USD hay trên
100% GDP. 47% số tiền cho vay là từ các nhà đầu tư ngoại quốc, từ Nhật Bản và Trung Quốc
mỗi nước trên 1,1 ngàn tỷ.
Nợ công của Mỹ hiện tại là $17 ngàn tỷ USD. Đó là một con số nằm ngoài sức tưởng tượng.
Đa số người sẽ không bao giờ kiếm tới $1 triệu USD trong một năm.

2.1.2. Thực trạng nợ công khu vực EU:
Vấn đề nợ không chỉ của riêng Hy Lạp
Hy Lạp không phải nước duy nhất đương đầu với khủng hoảng tín dụng và nợ.
Liên minh châu Âu bao gồm 27 nước, liên minh đặt mục tiêu lón để tạo ra một thị trường chung
và tích hợp các nền kinh tế thông qua thể chế chung. Ủy ban châu Âu có trụ sở tại Brussels chịu
trách nhiệm giám sát Liên minh châu Âu. Trong Liên minh châu Âu có 17 nước sử dụng đồng
euro làm đồng tiền chung
14/27 nước thuộc Liên minh châu Âu có tỷ lệ nợ tương đương hơn 60% GDP, mức giới hạn
mà Liên minh châu Âu đưa ra. Trong nhóm này có cả một số nền kinh tế lớn của khu vực như
Anh hay Pháp. Chi tiêu vào phúc lợi xã hội và một số chương trình khác của chính phủ đã tăng
nhanh trong thập kỷ qua, đẩy tỷ lệ nợ công của khắp các nước trong khu vực lên cao.
Vấn đề nợ của Hy Lạp cũng không phải mới. Từ khi chuẩn bị gia nhập khu vực đồng tiền chung
châu Âu vào năm 2000, Hy Lạp đã có tỷ lệ nợ cao. Ý và Bỉ cũng khốn khổ với các khoản nợ lớn.

Quy mô các nền kinh tế được thể hiện qua mức độ to nhỏ của hình. Trong bảng là so sánh
GDP năm 2010 của các nền kinh tế thuộc Liên minh châu Âu. Kinh tế Hy Lạp có quy mô nhỏ
thế nhưng nỗi sợ của khả năng Hy Lạp vỡ nợ đã làm xói mòn niềm tin vào đồng euro và khiến
nhà đầu tư khắp thế giới sợ hãi.

Dù các nước quanh Hy Lạp nợ không ít, tuy nhiên vấn đề của Hy Lạp nổi cộm lên. Hy Lap có
tỷ lệ ngân sách cao nhất tại châu Âu, lên tới 15,4% GDP năm 2009, cao hơn rất nhiều so với mức
trần 3% theo giới hạn của Liên minh châu Âu.
6


Khủng hoảng nợ công châu Âu ngày một xấu hơn.
Giới đầu tư trong khu vực đồng tiền chung euro ngày càng hoang mang về cuộc khủng hoảng
nợ công sẽ lan rộng hơn nữa tại các thị trường tài chính từ Ireland cho đến Tây Ban Nha
Họ lo ngại rằng trong trường hợp tồi tệ nhất, khủng hoảng nợ tại Hy Lạp sẽ gây ra thiệt hại
lớn cho các ngân hàng châu Âu và từ đó sẽ lan ra toàn cầu, tái diễn kịch bản của cuộc khủng
hoảng tài chính hồi tháng 9/2008.

2.1.3. Thực trạng nợ công của Trung Quốc:
Theo Financial Times, nợ công Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục là 237% GDP trong quý I
năm nay, vượt xa tỷ lệ nợ của các nước đang phát triển khác. Các chuyên gia cảnh báo điều này
có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính hoặc tăng trưởng trì trệ kéo dài ở Trung Quốc.
Trước đó, Bắc Kinh đã phải bơm tiền vào hệ thống tín dụng để duy trì tăng trưởng kinh tế,
nâng tổng số nợ công lên 163 nghìn tỷ nhân dân tệ (25 nghìn tỷ USD).
Tỷ lệ nợ trên GDP của Trung Quốc đang cao hơn nhiều so với các nước đang phát triển khác,
và tương đương với ở Mỹ và khu vực eurozone. Mặc dù quy mô nợ công Trung Quốc là một
nguy cơ lớn, điều đáng lo hơn là tốc độ phình to của khối nợ này. Nợ công Trung Quốc mới chỉ
chiếm 148% GDP tính đến cuối năm 2007.
“Những nước lớn có tốc độ nợ công gia tăng nhanh đều gặp phải khủng hoảng tài chính hoặc
nền kinh tế trong thời gian kéo dài”, Ha Jiming, trưởng bộ phận chiến lược đầu tư của Goldman
Sachs nhận định.
Theo dữ liệu năm ngoái của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), các nước mới nổi có tỷ lệ
nợ công trên GDP trung bình là 175%. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Trung Quốc là 249%, tương
đương với mức 270% ở eurozone và 248% ở Mỹ.
Bắc Kinh đã cố xoay xở để thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn và giảm nợ nhằm ngăn chặn

các rủi ro tài chính trong dài hạn. Tuy nhiên, trước nguy cơ hạ cánh cứng, nước này đã buộc phải
bổ sung các gói kích thích kinh tế mới.
Các khoản tín dụng mới đã tăng thêm 6,2 tỷ nhân dân tệ trong ba tháng đầu năm 2016, tăng
hơn 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức tăng theo quý cao nhất từ trước đến nay.
Nền kinh tế Trung Quốc khó mà hấp thụ số tín dụng lớn như vậy trong một thời gian ngắn.
Với việc khả năng sinh lời của các dự án mới ngày càng giảm, số vụ vỡ nợ ở Trung Quốc sẽ
ngày càng tăng trong thời gian tới.

2.1.4. Thực trạng nợ công của Thái Lan:
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Thái Lan không nói quá: nợ nước ngoài của Thái Lan tính đến
cuối năm ngoái, theo Ngân hàng Nhà nước Thái, là hơn 129 tỉ USD, tương đương 32% GDP (thấp

7


hơn nhiều so với Việt Nam), trong đó nợ ngắn hạn là 51,3 tỉ USD, còn nợ dài hạn 78,1 tỉ USD.

Dò trên cơ sở dữ liệu của Ngân hàng Thế giới sẽ thấy phần nợ của Chính phủ Thái cộng các
khoản vay được nhà nước bảo lãnh cũng chỉ mới 33,4 tỉ USD trên tổng số hơn 129 tỉ USD nợ
nước ngoài, tức chưa đầy 1/4.
Mặt khác, Thái Lan không còn thói quen vay viện trợ phát triển chính thức (ODA) để chi tiêu
ngân sách: năm 2014 chỉ nhận ODA có 351 triệu USD, trong khi Việt Nam nhận 4,2 tỉ USD.
Tất nhiên, ở Thái cũng có một số tập đoàn nhà nước như điện, hàng không, thuốc lá, rượu,
cảng hàng không và hàng hải, ngân hàng... nhưng không tràn lan đến tận từng bộ cũng như đã
được cổ phần hóa, nên ít rơi vào tình trạng “con thuyền không đáy”.
Kết quả là việc kiểm soát ngân sách ở Thái Lan được đánh giá là “tuyệt vời”: nợ công của
Thái Lan là thấp so với các chuẩn của thế giới. Mặt khác, ngân sách ở Thái Lan không phải gánh
vác những chi tiêu đoàn thể, hội đoàn, cũng như những khoản chi lễ lạt địa phương, cục bộ vô
bổ, ngoại trừ các lễ lạt hoàng gia...
Việc xây dựng kế hoạch thu chi ngân sách hằng năm được tính toán bởi bốn cơ quan là Ngân

hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Hội đồng Kinh tế và phát triển xã hội quốc gia cùng Tổng cục
Ngân sách, dựa trên Kế hoạch phát triển quốc gia, sau đó khung ngân sách phải được quốc hội
phê duyệt, rồi được dùng làm văn kiện hướng dẫn việc chi tiêu của chính phủ.

Các bộ trưởng không những không thể chi vượt trần đã được thỏa thuận, mà còn phải
thương thuyết với các đảng cùng liên minh cầm quyền xem chi ngân sách đã được quốc hội
duyệt như thế nào.
Đó chính là lý do Thái Lan không sợ vỡ nợ nước ngoài. Và đó cũng là lý do tại sao thống
đốc Ngân hàng Nhà nước, vốn có chân trong bộ máy thiết kế ngân sách, đứng ra trấn an thị
trường tài chính.

2.2 Thực trạng nợ công ở Việt Nam
2.2.1. Quy mô nợ công Việt Nam gia tăng nhanh
Nợ công của Việt Nam bắt đầu tham gia vào bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia từ năm
2005. Chỉ số xếp hạng quốc gia đánh giá thực trạng khả năng trả nợ quốc gia và đánh giá mức
độ uy tín quốc gia. Nếu được xếp hạng cao, chúng ta sẽ đi vay trên thị trường quốc tế với lãi suất
và chi phí thấp hơn.
Nợ công có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Đây là nguồn tài trợ hàng đầu cho
đầu tư phát triển trong nền kinh tế thông quan ngân sách nhà nước và là nguồn cung cấp vốn lớn thứ
hai trong nền kinh tế với tỷ trọng 16-17%/ tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đa phần vốn vay nợ công

8


chiếm một tỷ lệ rất quan trọng trong vốn vay đầu tư phát triển.Về phân bổ, sử dụng vốn vay: Thứ
nhất, chúng ta vay để bù đắp bội chi ngân sách; Thứ hai, vay để đầu tư từ TPCP cho y tế, giáo dục,
giao thông, thủy lợi... ; Thứ ba, vay để cho vay lại, chủ yếu đối với các công trình trọng điểm quốc
gia đang cần huy động vốn; trong đó nguồn vay này chủ yếu từ nguồn vốn ODA.

CÁC CHỈ TIÊU NỢ CÔNG VÀ NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA QUỐC GIA

(Giai đoạn 2008-2014)
Chỉ tiêu
Nợ công so với tổng sản phẩm quốc
dân (GDP) (%)
Nợ nước ngoài của quốc gia so với
GDP (%)
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung,

2008

29,8

2009

39,0

dài hạn của quốc gia so với tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ (%)
Dư nợ của chính phủ so với GDP
Dư nợ của chính phủ so với thu
ngân sách (%)
Nghĩa vụ trả nợ của chính phủ so
với thu NSNS (%)
Nghĩa vụ nợ dự phòng so với thu
ngân sách (%)
Hạn mức vay thương mại nước
ngoài và bảo lãnh nước ngoài của

2010


2011

2012

2013

2014

56,3

54,9

50,8

54,5

58,0

42,2

41,5

37,4

37,3

38,3

3,4


3,5

3,5

4,3

4,1

44,6

43,2

39,4

42,6

46,4

157,9

162,0

172,0

184,4

211,5

3,5


5,1

17,6

15,6

14,6

12,6

13,8

4,7

4,3

5,5

6,7

9,8

9,7

8,5

2.000

3.500


3.500

1.800

2.800

chính phủ (Triệu USD)
(Nguồn: Bộ tài chính)
Quy mô nợ công hiện nay đang áp sát ngưỡng kiểm soát do quốc hội đề ra. Nợ công tăng
nhanh như vậy là do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu làm kinh
tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, thu ngân sách bị ảnh hưởng lớn trong khi nhu cầu chi tăng
mạnh. Thu NSNN gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn phải giảm thu để hỗ trợ doanh nghiệp; đầu tư
phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng; thực hiện các chính sách xã hội và tiền lương. Vì vậy, giai
đoạn 2011 - 2015, Việt Nam đã phát hành 335 nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP), gấp
hơn 2,5 lần giai đoạn 2006 - 2010 (giai đoạn 2011 - 2014 đã phát hành 250 nghìn tỷ đồng, năm
2015 theo kế hoạch phát hành thêm 85 nghìn tỷ đồng), đồng thời đã đẩy mạnh giải ngân vốn
9


ODA, vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư các dự án hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, y
tế, giáo dục, xây dựng nông thôn mới… theo nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Trong giai đoạn 2011-2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm. Cuối năm
2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011
(1.393 nghìn tỷ đồng). Về số tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát
ngưỡng kiểm soát 65% của quốc hội.
Trước đây nợ công hầu hết là nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi suất từ 1% đến dưới
3%. Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên nợ nước ngoài có
mức ưu đãi giảm dần. Vì vậy nợ công dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm
2011 lên 57% năm 2015.Cụ thể:

Về nợ nước ngoài: Đạt bình quân 3 tỷ USD/năm, tương đương 11% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội hiện nay 17% tổng vốn từ đầu tư NSNN
Về nợ công trong nước: Thực hiên chủ yếu qua phát hành trái phiếu chính phủ. Về quy mô,
số lượng phát hành giai đoanh 2011-2015 đã tăng gấp 2,5 lần giai đoạn 2006-2010. Về kỳ hạn từ
năm 2011-2013 TPCP ngắn hạn (1-3 năm) chiếm khoảng 77% khối lượng phát hành hàng năm
(năm 2012, kỳ hạn phát hành bình quân là 2,9 năm, lãi suất bình quân 10%/năm; năm 2013 là 3,4
năm và 7,96%/năm; 10 tháng đầu năm 2014 là 4,84 năm và 6,81%/năm) dẫn đến nghĩa vụ trả nợ
trực tiếp của Chính phủ tăng nhanh trong ngắn hạn. Hệ quả năm 2014 một lượng lớn TPCP đến
hạn thanh toán và chính phủ phải liên tục phát hành TPCP do không thể đáp ứng. Vì vậy để tránh
rủi ro, Quốc hội đưa ra quy định về kỳ hạn TPCP là trên 5 năm vào năm 2015, theo đó tỷ trọng
TPCP kỳ hạn dài đã tăng lên 46%.

2.2.2 Việc sử dụng nợ công còn nhiều bất cập
Hiệu quả sử dụng không cao: Nền kinh tế có mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, việc đầu tư
dàn trải dẫn đến hiệu quả không cao, nhất là đầu tư công và DNNN. Theo WB, ICOR của Việt Nam
trong giai đoạn 2001-2005 là 4,88; giai đoạn 2006-2010 lên đến 6,96, giai đoạn 2011-2014 là 6,92.

Một phần đáng kể nợ công được dùng để trả nợ thay cho việc đầy tư phát triển: Tỷ lệ trả nợ
trong kỳ/dư nợ vay của Chính phủ và khoản vay được chính phủ bảo lãnh ở mức 14,2% năm
2014 và lên đến 16% vào năm 2015. Việc dùng 14%- 16% dư nợ công trong kỳ để trả nợ gây
hạn chế đến đầu tư phát triển và chi để tăng năng suất lao động, giáo dục, y tế và các lĩnh vực
thiết yếu khác.
Cơ cấu chi ngân sách không bền vững ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nợ công. Trong giai
đoạn 2011-2015 chi ngân sách chủ yếu là chi thường xuyên và mức tăng trưởng là 18,44%, chi
đầu tư có xu hướng giảm, nhất là từ 2013 đến nay chỉ ở mức 4,8% năm.
10


Công tác quản lý nợ công vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế: việc phân bổ mang tính chủ
quan, dàn trải, hiệu quả thấp, dố liệu thống kê chưa kịp thời, chưa thống nhất, việc quản lý

ODA còn khá phức tạp.

2.2.3 Rủi ro liên quan đến nợ công hiện nay
Thứ nhất: Chi tiêu nợ phải trả (nợ gốc và lãi) có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo.
Theo bộ tài chính, trong giai đoạn 2011 đến 2015 nghĩa vụ trả nơi nước ngoài trung và dài
hạn/thu NSNN đã tăng lên 22,3% (ngưỡng an toàn 25%)
Thứ hai: Nghĩa vụ trả nợ tăng trong khi nguồn trả nợ công không bền vững) Theo bộ Kế
hoạch và đầu tư, nghĩa vụ trả nợ/thu NSNN tăng lên 38% vào năm 2014 và 45% vào năm 2015.
Hệ quả là tình trạng vay để trả nợ gốc ngày càng tăng lên, lên đến 80.000 tỷ vào năm 2014 và
150.000 tỷ đồng năm 2015. Tuy nhiên khả năng gia tăng thu ngân sách/GDP giảm mạnh, cụ thể là
2011 là 25,9% xuống 22,1% năm 2015 và dự báo tiếp tục giảm.
Thứ ba: Tác động tiêu cực của nợ công với nền kinh tế: Các khoản lãi và một phần nợ gốc
phải trả trong ngắn hạn đang ngày càng cao, gây sức ép lên cân bằng NSNN. Do đó chính phủ
phải liên tục phát hành TPCP để bù đắp thâm hụt NSNN. Hệ quả là quy mô nợ công tăng theo
tần suất và quy mô phát hành TPCP. Ngoài ra lãi suất bị đẩy đi lên cao, gây khó khăn cho doanh
nghiệp từ đó làm giảm nguồn thu NSNN để thanh toán các khoản vay.

2.3 Dự báo tình hình nợ công của Việt Nam trong thời gian tới
Mặc dù nợ công hiện nay của Việt Nam được đánh giá là vẫn trong ngưỡng an toàn, song
với việc NSNN liên tục thâm hụt ở mức cao và nhu cầu vay vốn cho các dự án đấu tư vẫn tiếp
tục tăng, thực trạng này đặt ra yêu cầu cần phải xem xét và dự báo kịch bản rủi ro mà Việt Nam
có thể sẽ gặp trong thời gian tới, cụ thể:
Thứ nhất: Rủi ro về khả năng trả nợ
Sở dĩ tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam hiện này vẫn nằm trong giới hạn cho phép của Quốc Hội
là do vào năm 2013, Tổng cục Thống kê đã điều chỉnh phương pháp tính GDP, bổ sung thêm giá trị
kinh doan của ngành Ngân hàng và dịch vụ nhà tự có, tự ở của dân cư cho GDP của các các năm
trước đó. Chưa kể, cơ sở để Quốc Hội/Chính phủ đặt ra mục tiêu hay trần nợ công lại ở thời điểm
đầu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2015 là dựa vào GDP theo phương pháp cũ thì
tỷ lệ nợ công/GDP và nợ chính phủ/GDP của Việt Nam đã lần lượt xấp xỉ 59,6% và 46,5% vào năm
2013 và ước tính sẽ vượt các ngưỡng cho phép 65% và 50% vào cuối năm 2014.


Việc tăng nhanh của quy mô nợ công khiến nghĩa vụ chi trả nợ gốc và nợ lãi ngày càng
nặng hơn. Nghĩa vụ nợ Chính phủ (bao gồm chi trả nợ gốc và nợ lãi) đã tăng gần gấp đôi trong
giai đoạn 2010-2014, từ 87,1 nghìn tỷ đồng trong năm 2010 lên 185,8 nghìn tỷ đồng trong năm
11


2013 và khoảng 208,9 nghìn tỷ đồng trong năm 2014.
Thứ hai: Rủi ro tăng nợ công do kỷ luật tài khóa chưa được triển khai quyết liệt, nhất
là kỷ luật về chi ngân sách và cân đối ngân sách.
Trong thực tế tình hình tuân thủ kỷ luật về thâm hụt ngân sách của Việt nam trong những
năm gần đây chưa đạt hiệu quả. Trong giai đoạn 2006-2010, mức thâm hụt ngân sahcs mục tiêu
cho cả giai đoạn là 5,0% GDP. Tuy nhiên, ngoại trừ các năm 2006 và 2008, mức thâm hụt ngân
sách trong giai đoạn này luôn vượt xa mục tiêu đề ra.
Tình trạng bội chi lớn hơn chi NSNN cho đầu tư phát triển đã làm giảm tính bền vững nợ
công và tạo ra rủi ro lớn cho NSNN. Ngoài ra, việc cho phép điều chỉnh theo hướng tăng lên của
TPCP được phát hành cũng gây nên áp lực không nhỏ cho nợ công.
Kỷ luật tài khóa lỏng lẻo được thể hiện rõ nhất ở chi NSNN, trong những năm qua, chi ngân
sách liên tục gia tăng với tốc độc cao và vượt xa con số dự toán.
Việc phân cấp mạnh mẽ nhưng quy trình NSNN chỉ mang tính lồng ghép lớn và thời gian
thực hiện tương đối ngắn làm cho việc lập tự toán, quyết toán ở các cấp mang tính hình thức.
Thứ ba: rủi ro trong hiệu quả sử dụng nợ công.
Theo tính chất quy luật của phát triển sau giai đoạn đầu bùng nổ thì khi trở thành nước có thu
nhập trung bình, tốc độ tăng trưởng kinh tế khó có thể duy trì ở mức cao. Tuy nhiên Việt Nam vẫn
chỉ là nước có thu nhập trung bình thấp với dân số đang già hóa nhanh, năng suất lao động bình quân
thấp và giảm dần, áp lực lớn tăng quy mô nợ công nhanh hơn mức tăng trưởng kinh tế.

Thứ tư: Rủi ro liên quan đến hoạt động quản lý nợ công.
Đó là các rủi ro thông thường của bất kỳ người vay vốn nào mà chính phủ cũng không là
ngoại lệ như rủi ro kỳ hạn, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất… Rủi ro quản lý và sử dụng vốn vay kém

hiệu quả đã dẫn đến khả năng trả nợ khó khăn.
Thứ năm: Rủi ro từ các khoản nợ tiềm ẩn cũng như sự bền vững của nợ công.
Những rủi ro này bao gồm: rủi ro không trả được nợ từ các khoản nợ được Chính phủ bảo
lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn đầu tư từ các dự án trọng điểm, tái cơ cấu nợ Vinashin và
phát hành trái phiếu cho ngân hàng phát triển. Rủi ro lớn từ nợ xấu có khả năng mất vốn của
DNNN và doanh nghiệp tư nhân vay vốn ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ chuyển thành nợ
công. Rủi ro hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tác động tiêu cực đến nợ công và
ngược lại. Rủi ro nợ đọng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của các doanh nghiệp chuyển thành nợ
công. Rủi ro tăng trưởng kinh tế giảm sút và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam thấp
ảnh hưởng đến sự bền vững của nợ công. Các khoản vay nợ của chính quyền địa phương chưa
được thống kê đầy đủ cũng là nhân tố có thể làm tăng gánh nặng nợ công trong tương lai

12


Chương III: Kết luận
Nợ công đã, đang và sẽ luôn là một vấn đề đáng lưu tâm cho các nhà hoạch định, quản lý
nền kinh tế vĩ mô của một đất nước. Nếu coi một đất nước là một doanh nghiệp, nợ công sẽ là nợ
phải trả, là phần vốn chiếm dụng doanh nghiệp có thể sử dụng và phải trả trong tương lai. Cũng
như đòn bẩy tài chính đối với tình hình tài chính doanh nghiệp, nợ công sẽ là một con dao hai
lưỡi đối với kinh tế vĩ mô và sự phát triển của một đất nước. Nếu đầu tư mang lại hiệu suất sinh
13


lời cao thì đòn bẩy tài chính sẽ làm tăng hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, đồng nghĩa với
việc ta sử dụng ít vốn hơn và thu được lợi nhuận nhiều hơn. Tuy nhiên nếu hiệu suất sinh lời
thấp thì với đòn bẩy tài chính cao, áp lực trả nợ lớn sẽ là một nguy cơ tiềm ẩn gây ra các tác hại
rất lớn. Vậy bài toán đối với nợ công chính là bài toán về thực hiện và kiểm soát đầu tư, chi tiêu
công một cách hiệu quả, mang lại nguồn lợi cho đất nước. Nợ công bền vững là nợ công được tài
trợ bằng thặng dư ngân sách trong tương lai. Tỷ lệ nợ công sẽ không phải là vấn đề lớn nếu kiêm

soát chặt chẽ được thu – chi ngân sách hiệu quả và đầu tư công có hiệu suất sinh lời cao. Ngược
lại, nếu việc đầu tư và chi tiêu của chính phủ không tạo nên nguồn thu hiệu quả trong tương lai
thì thế hệ tương lai gần sẽ phải chịu gánh nặng nợ rất lớn và áp lực trả nợ lớn có thể từ từ làm
sụp đổ hoàn toàn nền kinh tế của một đất nước.
Thông qua thực trạng nợ công tại một số nước trên thế giới và đặc biệt là tại Việt Nam, về cơ
bản nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn. Tuy nhiên cơ cấu nợ nước ngoài trong
tổng nợ công của Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn và vẫn đang tiếp tục tăng trong khi hiệu quả đầu tư
của các dự án sử dụng vốn từ các khoản nợ lại không cao. Trong tương lai gần, các khoản vay ưu đãi
dành cho Việt Nam sẽ giảm dần do Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình, thay vào đó sẽ
là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian trả nợ ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử
dụng vốn từ các khoản nợ phải hiệu quả hơn nữa, nếu không nợ công tiến dần đến ngưỡng an toàn,
áp lực trả nợ ngày càng lớn sẽ gây tác động xấu đến nền kinh tế vĩ mô của đất nước.

Để đảm bảo nợ công là một đòn bẩy giúp đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế nói riêng và
đất nước nói chung, sẽ cần có: một nền kinh tế có nội lực; một môi trường tài chính công khai,
minh bạch, hiệu quả; quy mô, tỷ lệ, cơ cấu và hiệu quả sử dụng nợ công ở mức hợp lý. Đây là
nhiệm vụ quan trọng và không hề đơn giản đối với các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp nhà
nước và các bộ, ban, ngành liên quan, đặc biệt là trong quá trình phát triển, hội nhập nền kinh tế
quốc tế không chỉ của Việt Nam mà còn của các nước trên thế giới.

14



×