1
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000.
Tuy nhiên đến tận năm 2006, thị trường chứng khoán Việt Nam thật sự hoạt
động sôi động, tăng tốc và phát triển quá nóng trong thời gian những tháng gần
đây, TTCK đã được công chúng và các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, tham gia
đông đảo với tư cách nhà đầu tư, muốn kiếm tiền qua đầu tư chứng khoán. Cùng
với việc ban hành Luật Chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội
ra đời, TTGDCK TP Hồ Chí Minh nâng cấp thành SGDCK TP Hồ Chí Minh,
Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành nhiều Nghị định, Thông tư hướng dẫn có tác
động tích cực điều chỉnh hoạt động cuả thị trường chứng khoán. Năm 20062007 là năm cột mốc đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của TTCK Việt Nam
do trong năm có nhiều sự kiện lịch sử tác động mạnh đến thị trường chứng
khoán Việt Nam như việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) và chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO kể từ ngày
11/01/2007, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC14, Tổng thống Mỹ
George W. Bush đến thăm TTGDCK TP Hồ Chí Minh cũng như những lời nhận
định đầy khả quan về tốc độ phát triển vượt bậc của thị trường chứng khoán Việt
Nam trong tương lai từ các chính khách, doanh nhân và báo giới nước ngoài…
đã cộng hưởng lại tạo ra một cơn sóng đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Đây là một lợi thế cho sự tăng tốc của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang đứng trứơc những tiềm năng cơ hội và
những thách thức mới, thị trường chứng khoán Việt Nam có khả năng hoàn
thiện và phát triển nhanh trong những năm sắp tới góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế đất nước. Năm 2006 lượng vốn lưu thông qua kênh chứng khoán
là hơn 220.000 ngàn tỷ đồng, lớn hơn nhiều so với dự kiến ban đầu. Số lượng
công ty chứng khoán cũng tăng nhanh trong cuối năm 2006 lên tới hơn 50 công
ty. Tuy đạt được những con số khá ấn tượng như vậy song một vấn đề vẫn còn
2
tn ti trờn th trng chng khoỏn l cht lng cỏc cụng ty chng khoỏn - mt
ch th c bn cú nh hng trc tip n nhiu ch th khỏc cng nh tỏc ụng
n tc phỏt trin ca th trng chng khoỏn cũn nhiu iu ỏng quan tõm.
ỏnh giỏ hot ng ca cỏc cụng ty ny, c bit l hot ng mụi gii
chng khoỏn cho khỏch hng thỡ phi khng nh rng vn ny cũn quỏ nhiu
hn ch, yu kộm cn c xõy dng v hon thin. Theo tng kt doanh thu
ca cỏc cụng ty chng khoỏn thỡ doanh thu t hot ng mụi gii chng khoỏn
ch chim 3,14% tng doanh thu, õy l nghip v c bn ca cỏc cụng ty chng
khoỏn mc doanh thu ny l cha phn ỏnh c vai trũ ca cỏc cụng ty chng
khoỏn Tuy mc doanh thu t hot ng mụi gii chng khoỏn thp nh vy
song cỏc cụng ty chng khoỏn ny li b cỏc khỏch hng ca mỡnh phn ỏnh l
phõn bit i x gia cỏc nh u t, b nhiu lnh hoc thc hin sai lnh ca
khỏch hng. Vn ny c d lun c bit l cỏc nh u t quan tõm vỡ
nhiu nh õu t ó b chớnh cỏc cụng ty chng khoỏn m mỡnh l khỏch hng
gõy thit hi. Mt khỏc, Lut chng khoỏn 2006 va cú hiu lc, cỏc vn bn
hng dn thi hnh Lut ó ang trong trỡnh son tho ban hnh vi nhng
tn ti ca tỡnh hỡnh hot ng mụi gii trờn th trng chng khoỏn hin nay,
nờn vn hon thin phỏp lut v t chc cụng ty chng khoỏn cng nh hot
ng mụi gii chng khoỏn l cn thit v cp bỏch hin nay phỏt trin nhanh
v lnh mnh th trng chng khoỏn Vit Nam. Xut phỏt t lý do trờn Em ó
chn ti: Phỏp lut iu chnh hot ng mụi gii chng khoỏn Vit Nam
hin nay lm ti khoỏ lun tt nghip ca mỡnh nhm úng gúp mt phn
nh bộ ca mỡnh vo s nghip phỏt trin chung t nc. t yờu cu ca
ti t ra khoỏ lun c trỡnh by vi kt cu gm 2 chng ngoi li núi u,
kt lun v danh mc ti liu tham kho c th:
Chơng I : Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt đông môi giới chứng
khoán và pháp luật điều chỉnh hoat động môi giới chứng khoán
Chơng II: Thực trạng pháp luật và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh hoạt động môI giới chứng khoán ở việt nam hiện nay.
CHNG I
3
NHNG VN Lí LUN C BN V HOT NG
MễI GII CHNG KHON V PHP LUT IU CHNH
HOT NG MễI GII CHNG KHON.
1.1.Khỏi quỏt chung v hot ng mụi gii chng khoỏn.
1.1.1. Khỏi nim, c im ca hot ng mụi gii chng khoỏn.
1.1.1.1. S cn thit khỏch quan ca hot ng mụi gii chng khoỏn
trờn th trng chng khoỏn.
Nn kinh t th trng phỏt trin, tt yu n n s hỡnh thnh v phỏt
trin ca th trng ti chớnh m nh cao l th trng chng khoỏn. Trờn th
trng ny ngi ta mua bỏn nhng ti sn ti chớnh. Ti sn ti chớnh l mt
cụng c giỳp cho ngi cn vn cú th huy ng c vn cho sn xut kinh
doanh. Ti sn ti chớnh l phng tin u t cho ngi cú vn nhn ri cú
c c hi cú li nhun. Quỏ trỡnh phỏt trin khụng ngng ca th trng ó
dn n s ra i ca nhng ti sn ti chớnh mi. Nhng cụng c ngy cho
phộp m rng th trng, chia s ri ro, ti a hoỏ li nhun. Cựng vi s xut
hin ca th trng chng khoỏn, hot ng mụi gii chng khoỏn cng xut
hin nh l mt tt yu khỏch quan i vi hot ng mua bỏn trờn th trng
chng khoỏn 1. Bi vỡ:
Th trng chng khoỏn l ni din ra s lu thụng ca nhiu sn phm
chng khoỏn ca cỏc ngnh kinh t a dng m chng khoỏn l loi hng hoỏ
c bit nú khỏc vi cỏc hng hoỏ thụng thng im ch: Giỏ tr ca chng
khoỏn khụng c kt tinh vo kt cu lý hoỏ ca bn thõn nú m nú ph thuc
vo tỡnh hỡnh hot ng ca t chc phỏt hnh. ỏnh giỏ chớnh xỏc giỏ tr
thc ca nú thỡ ngi u t phi cú thụng tin ỏng tin cy v phi cp nht
1
Hoạt động môi giới chứng khoán đã xuất hiện khá sớm (khoảng cuối thế kỉ 18). Lịch sử hình thành và phát
triển thị trờng chứng khoán ghi nhận rằng thời tiền sử của TTCK đã có những tổ chức môi giới chứng khoán hoạt
động đơn độc. Không có TTCK tập trung họ vẫn làm đợc vai trò trung gian mua bán cho những ngời cần mua và
những ngời cần bán. Vào những năm 1790 các nhà môi giới, thơng nhân, những ngời bán đấu giá mua và bán
các cổ phần trái phiếu tại chính các văn phòng của họ, tại các quán cafe, tại chợ hay các vị trí khác xung quanh
khu phố Uôn. ngời mua kẻ bán phải tự tìm đến nhau, họ đi dọc lội ngang suốt khu phố đó, chẳng có địa điểm
nào là cố định. Thời gian cũng thoải mái, chẳng ai qui định phiên hay giờ mở cửa và đóng cửa. Chứng khoán
thời kì này không có mấy tính thanh khoản vì ngời mua và ngời bán không dễ dàng tìm đợc nhau.
4
về tình hình kinh doanh của tổ chức phát hành. Nếu không thì người đầu tư sẽ
đánh giá sai lệch giá trị chứng khoán để rồi không dám mua hoặc mua hớ.
Những nhà đầu tư khó có thể xét đoán một cách chính xác giá trị thực của từng
loại chứng khoán cũng như dự đoán được một cách chính xác giá trị trong tương
lai của nó để đưa ra một quyết định đầu tư hợp lý. Nếu người đầu tư tự mình cặp
nhật và xử lý thông tin để biết được giá trị chứng khoán lên xuống làm cơ sở để
ra quyết định mua hay bán thì sẽ mất quá nhiều thời gian công sức. Điều này
vượt quá khả năng của những nhà đầu tư bình thường. Trong khi đó có tổ chức
chuyên cặp nhật, lưu trữ và xử lý các thông tin về tổ chức phát hành để cung cấp
cho người đầu tư bất cứ lúc nào người ấy cần. Nếu không có sự giúp đỡ của
những người môi giới giàu kinh nghiệm và có khả năng phân tích, xử lý thông
tin về chứng khoán dựa trên những căn cứ xác đáng thì người đầu tư có thể bị
nhầm lẫn hoặc lưà gạt, dẫn đến rủi ro trong hoạt động đầu tư. Vì vậy một trong
các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung
gian. Theo nguyên tắc này, những người muốn mua hay bán chứng khoán không
tiến hành giao dịch trực tiếp với nhau trên thị trường chứng khoán mà phải
thông qua người môi giới. Người môi giới: là người trung gian mua, bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Những người môi giới chứng khoán
không hoạt động với tư cách cá nhân mà họ thường tập hợp thành các công ty để
hoạt động trong thị trường chứng khoán gọi là công ty môi giơí chứng khoán
hay công ty chứng khoán.
Trong thị trường chứng khoán bao giờ cũng có người cần mua, người cần
bán chứng khoán nhưng họ không biết nhau. Nếu họ tự đi tìm đối tác thì rất mất
thời gian có khi còn bị ép giá. Cách tốt nhất họ uỷ quyền cho những người
chuyên thu thập các nguyện vọng kiểu này đó chính là các nhà môi giới chứng
khoán. Theo cách này cơ hội gặp nhau của người mua, người bán lại chứng
khoán dễ gặp nhau mà thời gian và chi phí cho những giao dịch này lại thấp. Để
thu thập được nhiều nguyện vọng của người mua, người bán giúp cho nhiều giao
dịch được thực hiện có nhiều nhà môi giới chứng khoán làm việc này, các nhà
5
môi giới liên kết nhau lại để thành lập công ty gọi là công ty môi giới chứng
khoán. Tuy nhiên có hiện tượng người bán lại uỷ quyền cho công ty này, người
mua uỷ quyền cho công ty khác dẫn đến việc mua bán không thực hiện được.
Giải pháp để khắc phục tình trạng này là các công ty môi giới cử ra một đại
diện, những người đại diện đó tập trung lại với nhau ở một địa điểm 2. Những
nhân viên của từng công ty đi liên hệ nhận các lệnh mua, bán của khách hàng rồi
chuyển các lệnh này về trụ sở công ty. Từ trụ sở của công ty lệnh được truyền
đến người đại diện của công ty tại điểm tập trung, tại đây sẽ thực hiện việc ghép
lệnh trên nguyên tắc: ưu tiên về giá, ưu tiên về thời gian, ưu tiên về số lượng.
Nhờ việc khớp lệnh theo nguyên tắc trên mà giá cả mua bán được công bằng.
Nơi tập trung của người đại diện các công ty môi giới chính là Trung tâm giao
dịch chứng khoán hoặc Sở giao dịch chứng khoán3.
Nói chung công ty chứng khoán không tham gia việc tạo ra giá trị của
chứng khoán cũng không trực tiếp quyết định giá chứng khoán thay cho khách
hàng, song sự xuất hiện của họ đã giúp cho việc định giá chứng khoán được diễn
ra nhanh chóng với chi phí thấp, cùng với thời gian chính họ đã sáng tạo ra các
hình thức giao dịch mua bán chứng khoán và các hình thức tổ chức thị trường
chứng khoán như sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC.
Thị trường càng phát triển ở trình độ cao sản phẩm dịch vụ càng dồi dào
về số lượng, đa dạng phong phú về chủng loại. Bởi vậy đòi hỏi cần cung cấp cho
người đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư những lời khuyên
mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược và giúp người đầu tư thực hiện
các giao dịch theo cách có lợi nhất. Vì thế xã hội đòi hỏi phải có hoạt động môi
giới chứng khoán phát triển mang tính chuyên nghiệp cao, môi giới chứng
khoán phải là một nghề
2
Ban đầu là các giao dịch bằng tay và có các thư ký nhận lệnh của khách hàng. Ngày nay khi khoa học kĩ thuật
phát triển, các sở GDCK sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng từ những người môi giới, thay thế hoàn
toàn cho các giao dịch thủ công trước kia.
3
Lịch sử TTCK cũng ghi nhận chính những công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán đã lập ra TTCK tập
trung. Ngày 17/2/1792, có 24 nhà môi giới tại khu phố Uôn đã ngồi lại với nhau và nhất trí rằng những người
giao dịch sẽ cùng kết hợp lại và tất cả các giao dịch của các thành viên kết ứơc sẽ chỉ diễn ra giữa họ với nhau
mà thôi. Sở GDCK lớn nhất thế giới WallStreet ra đời.
6
Ngày nay, thị trường chứng khoán của hầu hết các nước đều bao gồm thị
trường tập trung và thị trường OTC. Song ở cả 2 thị trường này, hoạt động môi
giới chứng khoán đều nắm giữ vai trò quan trọng. Sự phát triển của thị trường
chứng khoán phụ thuộc nhiều vào mức độ hoạt động và chất lượng của lực
lượng môi giới chứng khoán. Hoạt động môi giới chứng khoán có vai trò đặc
biệt quan trọng với sự lưu chuyển vốn qua kênh chứng khoán, có thể ví nó như
chất xúc tác trong một phản ứng hoá học. Không phải là một yếu tố chính nhưng
để phản ứng có thể xảy ra hoặc với hiệu suất thì chất xúc tác lại không thể thiếu.
GS TS Lê Văn Tư đã viết: “ Nhờ có sự hoạt động của công ty chứng khoán mà
chứng khoán được lưu thông buôn bán tấp nập, qua đó một lượng vốn khổng lồ
được tập hợp từ những nguồn vốn lẻ của các nhà đầu tư đưa vào sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế4”
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động điển hình của các tổ chức kinh doanh
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Hoạt động môi giới chứng khoán có ảnh
hưởng khá lớn đến xu hướng đầu tư, nó có vai trò thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển hoặc cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán Chính vì
vậy, hầu hết các nước đều qui định chỉ có một số tổ chức kinh doanh (thông
thường là công ty chứng khoán) được phép thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng
khoán.
Hoạt động môi giới chứng khoán được định nghĩa: Là hoạt động kinh
doanh chứng khoán trong đó công ty chứng khoán làm trung gian đại diện cho
khách hàng, tiến hành mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng và được
hưởng hoa hồng từ hoạt động đó.
Theo qui định của Luật chứng khoán 2006 thì “môi giới chứng khoán là
việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho
khách hàng”.
4
Thị trường chứng khoán – GSTS Lê Văn Tư – Nxb Thống Kê/2005. Trang 181
7
Môi giới chứng khoán cũng giống với các hình thức môi giới nói chung là
chủ thể môi giới đóng vai trò làm trung gian trong quan hệ giữa người mua với
người bán và không bị đặt trước rủi ro thua lỗ hay mất vốn. Khi giao dịch mua
bán đó được thực hiện chủ thể môi giới sẽ được hưỏng phí môi giới trên giá trị
giao dịch mà họ môi giới. Hoạt động môi giới nói chung đều có tác dụng rút
ngắn thời gian tìm kiếm, giảm chi phí cho người mua, người bán giúp cho họ
gặp nhau được dễ dàng. Nghề môi giới đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế hàng
hoá nhất là những hàng hoá mà người mua người bán không dễ gặp nhau.
Trên thị trường chứng khoán, hoạt động môi giới chứng khoán là một
hoạt động đặc trưng quan trọng của thị trường. Nghề môi giới chứng khoán
không chỉ đơn thuần là khâu đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến người
mua. Khác với các nghề môi giới khác - xã hội còn nhiều định kiến (nghề chỉ
trỏ, cò mồi). Nghề môi giới chứng khoán là một hoạt động chuyên nghiệp mang
tính nhà nghề cao, đòi hỏi chất lượng đặc biệt về kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức
đồng thời đòi hỏi một môi trường hỗ trợ tương đối phức tạp về tổ chức vận
hành, về pháp lý, về thiết bị, về văn hoá xã hội …Tính đặc thù của hoạt động
môi giới chứng khoán xuất phát từ chính đối tượng của hoạt động mua bán này
đó là loại hàng hoá đặc biệt: “các loại chứng khoán”. Do tính chất đặc biệt của
hàng hoá này đòi hỏi có phương thức giao dịch riêng. Việc mua bán chứng
khoán tại sở giao dịch chứng khoán (SGDCK) hoặc Trung tâm giao dịch chứng
khoán (TTGDCK) chỉ các công ty chứng khoán là thành viên của SGDCK hoặc
TTGDCK mới được mua bán chứng khoán qua hệ thống giao dịch tại sở hoặc
trung tâm, vì vậy khách hàng muốn tham gia mua bán chứng khoán phải thông
qua các công ty chứng khoán thành viên.
Sự khác biệt cơ bản giữa hoạt động môi giới chứng khoán và hoạt động
môi giới khác ở những điểm sau:
Tiêu chí
Hoạt động môi giới chứng
phân biệt
khoán
Hoạt động môi giới khác
8
Đối tượng
Các loại chứng khoán
Các tài sản, hàng hoá, hoặc
môi giới
Chủ thể
dịch vụ khác
Công ty chứng khoán – thông Tổ chức hoặc cá nhân
môi giới
qua nhân viên làm nghiệp vụ
Tư
môi giới
cách Đại diện cho người bán hoặc Giới thiệu về người cung cấp
người
môi người mua
giới
Khách hàng
hoặc người có nhu cầu mua
Nhà đầu tư chứng khoán họ có Đa dạng có thể là chủ thể kinh
thể mua hoặc bán nhằm mục doanh hoặc người tiêu dùng họ
đích thu lợi nhuận-thường gắn tham gia quan hệ mua bán từng
bó lâu dài người môi giới.
lần–không gắn bó lâu dài.
Thường môi giới cho người
Tính chất
bán.
Tham gia vào cả quá trình giao Không cung cấp dịch vụ khác
dịch, cung cấp nhiều dịch vụ đi kèm. Chỉ tham gia một vài
khác đi kèm.
khâu đầu trong quá trình giao
Nguy cơ
Có thể có nhiều xung đột lợi
Luật
điều Luật chứng khoán
dịch
Có ít xung đột lợi ích
Luật chuyên ngành hoặc Luật
chỉnh
thương mại, hoặc dân sự
Hoạt động môi giới chứng khoán được triển khai trong sự phối hợp giữa
công ty chứng khoán và những người môi giới. Công ty chứng khoán là nơi
cung cấp các điều kiện vật chất và thể chế, còn người môi giới triển khai quá
trình tác nghiệp mang tính cá nhân tới từng khách hàng.
Trong hoạt động môi giới chứng khoán hàm lượng tư vấn rất đáng kể là
quá trình cung cấp một dải dịch vụ từ việc đưa ra sự giải thích, những ý tưởng
đầu tư hay lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược và giúp
người đầu tư thực hiện được các giao dịch theo cách có lợi nhất. Công ty môi
giới chứng khoán thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng
9
các báo cáo nghiên cứu những khuyến nghị đầu tư, nguồn thông tin quan trọng
này do bộ phận nghiên cứu trong công ty thu thập và xử lý nó đòi hỏi những
khoản đầu tư khổng lồ cho hệ thống thiết bị, nhân lực mà chỉ có công ty mới có
khả năng tài chính để trang trải. Nhờ nguồn thông tin được xử lý công phu tốn
kém, người môi giới có đủ tri thức trở thành nhà tư vấn tài chính riêng của
khách hàng.
Khi khách hàng quyết định bán hoặc mua chứng khoán nhà môi giới
chứng khoán tiến hành thực hiện giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm một
loạt các công việc từ hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến hành
giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách
hàng. Sau khi giao dịch đã được thực hiện, người môi giới tiếp tục chăm sóc
khách hàng (đưa ra khuyến cáo, cung cấp thông tin và tình hình tài chính của
khách hàng từ đó đề xuất những giải pháp hay chiến lược mới thích hợp).
- Môi giới chứng khoán là một lĩnh vực nhạy cảm về lợi ích không thể
tránh khỏi xung đột lợi ích giữa người môi giới với khách hàng và với công ty...
Xung đột lợi ích là một khía cạnh bản chất, không phải vì nghề này mang bản
chất không trung thực mà nó bắt nguồn từ phương thức trả thù lao cho người
môi giới và từ tính chất của các nguồn thu là cơ sở cho việc trả thù lao. Xung
đột tranh chấp khi thì do người môi giới cố tình lạm dụng sự tin cậy và uỷ thác
của khách hàng, khi thì do sự cẩu thả trong thái độ chấp hành các quy định, khi
thì do sơ suất của người quản lý, khi thì do trách nhiệm của khách hàng. Người
ta không thể loại bỏ được hoàn toàn nhưng có thể hạn chế được tổn thất hạn chế
tới mức tối đa xung đột nhờ ý thức của các bên về quyền và nghĩa vụ nhờ việc
thiết lập hệ thống các quy tắc điều chỉnh, giám sát việc thực hiện nó và xử lý khi
có vi phạm.
Tóm lại hoạt động môi giới chứng khoán có những đặc trưng cơ bản là:
- Chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán là công ty chứng
khoán đóng vai trò trung gian, đại diện cho khách hàng thực hiện các lệnh
mua/bán chứng khoán. Đây là đặc điểm phân biệt với hoạt động tự doanh chứng
10
khoán (chủ thể tự doanh nhân danh mình thực hiện hành vi mua bán).Trong hoạt
động môi giới chứng khoán chủ thể duy nhất được thực hiện hoạt động này là
công ty chứng khoán được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng
khoán. Trong khi đó chủ thể của hoạt động môi giới thương mại là bất kì thương
nhân nào đăng kí thực hiện nghiệp vụ môi giới hàng hoá dịch vụ. Pháp luật qui
định chủ thể hoạt động môi giới khác không chặt chẽ như môi giới chứng khoán.
Chủ thể của hoạt động môi giới chứng khoán đặc biệt phải được cấp giấy phép
hoạt động chứ không chỉ đơn thuần đăng kí kinh doanh nghiệp vụ môi giới
- Khách thể của hoạt động môi giới chứng khoán các loại chứng khoán.
Đây là một hàng hoá đặc biệt chỉ có ở nền kinh tế thị trường, còn các loại hàng
hoá dịch vụ là khách thể của hoạt động môi giới thương mại đã xuất hiện từ rất
lâu.
- Chủ thể môi giới chứng khoán khi thực hiện hành vi mua bán chứng
khoán không phải tính chuyện lời lỗ. Người môi giới không sở hữu chứng khoán
nên không bị đặt trứơc bất cứ rủi ro nào mà mình thay mặt khách hàng giao
dịch.
- Chủ thể thực hiện hành vi môi giới chứng khoán sẽ được hưỏng phí môi
giới trên giá trị lượng chứng khoán mà họ môi giới .
- Người môi giới không có tư cách làm giá. Giá chứng khoán mua vào
bán ra được thực hiện theo lệnh của người mua, bán được môi giới.
- Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian khá phức tạp
không chỉ đại diện cho khách hàng thực hiện các lệnh mua bán chứng khoán
theo yêu cầu của họ, mà còn là cung cấp một dải dịch vụ khác đi kèm (môi giới
dịch vụ đầy đủ ). Tuy nhiên cũng có khi chỉ đơn thuần là người thực hiện việc
mua bán thay cho khách hàng vì mọi hoạt động mua bán chứng khoán phải qua
trung gian (môi giới giảm giá). Đối với hoạt động môi giới thương mại, người
môi giới thông thường trong các trường hợp là trung gian giới thiệu các bên có
nhu cầu mua bán gặp nhau. Việc kí kết hợp đồng do chính các bên tự thực hiện.
1.1.2. Chức năng cơ bản của hoạt động mua bán chứng khoán
11
a) Chức năng thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch mua bán chứng
khoán
Đây là chức năng quan trọng và đặc trưng của thị trường chứng khoán
Không một loại thị trường nào mà việc mua bán lại có những qui định chặt chẽ
và đặc biệt như thị trường chứng khoán: phải qua hệ thống trung gian môi giới.
Theo đó, những người môi giới sẽ là trung gian thực hiện việc mua bán chứng
khoán cho khách hàng. Việc mua bán qua trung gian là chế định bắt buộc với bất
kì nhà đầu tư nào, trừ công ty chứng khoán hoạt động mua bán chứng khoán cho
mình trên cơ sở nghiệp vụ tự doanh chứng khoán đã được cơ quan nhà nước cấp
giấy phép.
Khi một nhà đầu tư muốn mua hay bán một lượng chứng khoán nhất định.
Quá trình này bao gồm một loạt công việc từ việc hướng dẫn họ mở tài khoản tại
công ty, đến việc đặt lệnh. Công ty chứng khoán sẽ thay mặt họ chuyển lệnh đến
TTGDCK hay SGDCK để tiến hành khớp lệnh tại đây. Nếu giao dịch khớp lệnh
thành công kết quả giao dịch sẽ chuyển về công ty chứng khoán và công ty
chứng khoán tiến hành các thủ tục chuyển giao tiền hay chứng khoán cho khách
hàng. Nếu giao dịch không thành công, công ty chứng khoán sẽ thông báo lại
cho khách hàng để có thể tiến hành đặt lệnh mới tại phiên giao dịch gần nhất.
Không những vậy, sau khi thực hiện được giao dịch, người môi giới còn phải
tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đưa ra những khuyến cáo
và cung cấp thông tin theo dõi nắm bắt những thay đổi trong đời sống và trong
công việc… của khách hàng để đề xuất những giải pháp và chiến lược mới cho
phù hợp với tình trạng tài chính và thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng.
Chức năng này xuất hiện trên thị trường chứng khoán cũng mang tính tất
yếu như sự xuất hiện của những người môi giới. Việc thực hiện giao dịch thay
cho khách hàng bởi những người có chuyên môn và có tổ chức là biện pháp để
ngăn ngừa những rủi ro lừa đảo và không thực hiện nghĩa vụ có thể xảy ra.
Không phải ai cũng đủ tri thức và khôn ngoan để có thể đoán biết chính xác
được lúc nào chứng khoán này lên giá, chứng khoán kia mất giá. Thị trường
12
chng khoỏn cng ht sc nhy cm vi cỏc s kin chớnh tr xó hi m chỳng ta
khú cú th d oỏn c khi no s din ra. Cỏc nguyờn nhõn ny khin cho
nhng ngi u t chng khoỏn tr thnh nhng k c hi, lt lng khi li ớch
t ngay trc mt h. Cn phi cú mt t chc kim soỏt lu tr hng hoỏ
chng khoỏn nhng nh u t khụng th khụng mua hoc bỏn chng khoỏn
khi h ó kớ hp ng. Nhng nh mụi gii chng khoỏn l nhng ngi ó m
nhn vai trũ ca ngi nm gi, chuyn giao v m bo thc hin giao dch
cho khỏch hng ca mỡnh trỏnh phi cỏc nguy c khụng chuyn giao chng
khoỏn hay khụng chuyn giao tin theo hp ng. Khi cụng ty chng khoỏn
thc hin chc nng ny, h c nhn mt khon phớ hoa hng trờn giỏ tr
chng khoỏn m khỏch hng ca h mua hay bỏn.
Cụng ty mụi gii chng khoỏn l ni bo m nhng iu kin vt cht
gm a im, h thng mỏy múc thit b ni mng vi s giao dch vi nhõn
viờn tỏc nghip v cú quy ch quỏ trỡnh ú c thc hin nhanh chúng chớnh
xỏc hiu qu, ng thi khi cú tranh chp thỡ cú th x lý mt cỏch tho ỏng.
thc hin c chc nng ny, cụng ty chng khoỏn c t chc theo chc
nng phũng ban phự hp vi quy trỡnh hot ng cht ch khoa hc.
b) Chc nng cung cp thụng tin v t vn cho khỏch hng.
Ngoi chc nng c bn ca hot ng mụi gii chng khoỏn l thay mt
khỏch hng thc hin lnh mua bỏn chng khoỏn thỡ õy l mt chc nng quan
trng i vi s hot ng lnh mnh ca th trng v li ớch ca nh u t l
khỏch hng.
Cụng ty chng khoỏn thụng qua cỏc nhõn viờn bỏn hng cung cp cho
khỏch hng cỏc bỏo cỏo nghiờn cu v nhng khuyn ngh u t. lm c
vic ny thng cú mt b phn nghiờn cu trong cụng ty. Vic thu thp v x
lý thụng tin ũi hi nhng khon u t khng l cho h thng thit b v nhõn
lc m ch cú cụng ty mi cú kh nng ti chớnh trang tri 5. Hng tun b
phn nghiờn cu cung cp cho nh mụi gii mt khi lng thụng tin nghiờn
5
Các công ty lớn của Mỹ hàng năm giành 30 triệu USD cho hoạt động nghiên cứu đầu t, những hãng lớn sử dụng
tới hàng trăm nhà phân tích đầu t và các trợ lý nghiên cứu để bám sát hoạt động của hàng trăm công ty đại chúng.
13
cứu khổng lồ là kết quả tổng hợp và phân tích của công ty, kèm theo đó là
những lời khuyến nghị cụ thể về loại chứng khoán cần mua, bán. Nhân viên môi
giới sử dụng những thông tin này để cung cấp cho khách hàng của mình theo
những yêu cầu cụ thể. Hàng ngày người môi giới tiếp cận thông tin tài chính liên
tục như lãi suất, tin kinh tế, thông tin thị trường có như vậy người môi giới có
đầy đủ thông tin nhanh cần thiết và đầy đủ. Cũng nhờ nguồn thông tin được thu
thập xử lý công phu và tốn kém này, người môi giới có đủ tri thức để trở thành
nhà tư vấn tài chính riêng cho khách hàng. Khi thị trường chứng khoán phát
triển hàng hoá ngày càng phong phú thì vai trò của người môi giới càng quan
trọng trong đề xuất khách hàng có chiến lược kết hợp đầu tư hợp lý để giảm
thiêủ rủi ro và tăng tối đa lợi nhuận.
Mặc dù môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư là hai nghiệp vụ riêng biệt,
nhưng hoạt động môi giới chứng khoán hiểu theo nghĩa rộng hàm lượng tư vấn
đầu tư là khá cao. Người đầu tư trông đợi người môi giới thực hiện 3 công việc
chính là: Cho biết mua cái gì, bán cài gì và lúc nào thì mua, lúc nào thì bán, và
cho họ biết những gì đang diễn ra trên thị trường. Nhìn chung ở trong các nhà
đầu tư luôn có hai trạng thái lòng tham và lỗi lo sợ, hai trạng thái đó luôn là yếu
tố ngăn cản người đầu tư có những quyết định sáng suốt. Trong lĩnh vực đầu tư
chứng khoán người ta không thể thành công nếu không đủ tham lam hay không
có một chút lo sợ. Người môi giới sẽ giúp nhà đầu tư có được một hỗn hợp hợp
lý của hai trạng thái này. Vậy cần bao nhiêu tham lam kết hợp với bao nhiêu lo
sợ ở từng thời điểm thích hợp. Để giúp khách hàng đưa ra quyết định, người môi
giới phải xemxét nhiều yếu tố như hệ số giá/ thu nhập; tình hình chung của
nhóm ngành của cổ phiếu và trạng thái tổng thể của thị trường… với một khối
lượng thông tin có được bằng nhiều triệu USD cho việc thu thập và xử lý thông
tin, có thể nói khuyến nghị của người môi giới chính là những lợi ích vô cùng
đáng giá đối với khách hàng. Đặc biệt hơn là biến những thông tin này thành
những khuyến nghị đúng đắn, áp dụng cụ thể cho những mục tiêu đầu tư riêng lẻ
của mỗi khách hàng mình. Không những thế tuỳ lúc, tuỳ nơi người môi giới còn
14
phải trở thành người bạn tin cậy, thậm trí là nhà trị liệu tâm lý học, biết lắng
nghe khách hàng không chỉ về tình hình tài chính của họ mà cả những căng
thẳng tâm lý của họ có liên quan đến các vấn đề tài chính vì thế người môi giới
phải giải pháp thích hợp hoặc chia sẻ, giải toả những căng thẳng về tâm lý đối
với họ. Tìm một nhà môi giới chứng khoán giỏi nghề như tìm cho mình một bác
sĩ riêng, một luật sư và một kế toán riêng.
Thị trường chứng khoán là một thị trường phức tạp của nền kinh tế hiện
đại, những biến động của nó có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của nền
kinh tế. Thị trường chứng khoán dễ dàng bị tác động bởi bất cứ một sự kiện nào
còn các nhà đầu tư dễ bị ảnh hưởng bởi xu hướng đầu tư. Một đặc điểm của thị
trường chứng khoán nữa là dễ bị đầu cơ. Cần phải có những thông tin về thị
trường, những lời khuyên đầu tư và sự cảnh báo chứng khoán cho nhà đầu tư.
Tổ chức môi giới là người có chuyên môn và dễ tiếp cận nhất thực hiện chức
năng này vì khách hàng. Các loại thông tin và tư vấn mà nhà đầu tư có thể thực
hiện cho khách hàng của mình là:
- Thông tin về loại chứng khoán về công ty niêm yết, tình hình hoạt động
kinh doanh của công ty phát hành.
- Thông tin về xu hướng thị trường, tình hình thị trường chứng khoán thế
giới ,đưa ra các phân tích về tác động trong tương lai.
- Đưa ra các lời cảnh báo, tư vấn đầu tư vào lĩnh vực, loại chứng khoán…
c) Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp khách hàng thực hiện
các giao dịch theo yêu cầu và lợi ích của họ.
Hoạt động môi giới chứng khoán của nhà môi giới cho khách hàng sẽ diễn
ra theo qui trình:
1) Khách hàng và công ty chứng khoán kí tài khoản mở giao dịch. Đây là
tài khoản giao dịch của khách hàng khi thực hiện các thương vụ mua bán chứng
khoán.
2) Khách hàng phải ký quĩ tiền và chứng khoán để đảm bảo thực hiện
giao dich.
15
3) Khách hàng đặt lệnh mua bán tại công ty chứng khoán mở tài khoản.
công ty chứng khoán sẽ nhận lệnh giao dịch tại trụ sở chính hoặc phòng
giao dịch.
4) Công ty chứng khoán chuyển lệnh mua bán của khách hàng đến sàn
giao dịch.
5) Công ty chứng khoán xác nhận kết quả giao dịch chứng khoán và gửi
thông báo xác nhận giao dịch cho khách hàng.
6) Công ty chứng khoán thanh toán tiền, chứng khoán cho khách hàng.
Chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt lưu hành trên thị trường chứng
khoán. Ngày nay, khi thị trường chứng khoán đã phát triển, giá trị chứng khoán
lưu thông lên tới con số hàng tỷ, để thực hiện các giao dịch thuận tiện nhất và ít
tốn kém nhất thì một loạt các thiết chế tài chính đi kèm hỗ trợ thực hiện các hoạt
động như bảo lãnh phát hành, đăng kí, lưu kí chứng khoán…Tuy nhiên đây là
các nghiệp vụ độc lập của các thiết chế tài chính của thị trường chứng khoán
cũng như công ty chứng khoán trong các nghiệp vụ được phép thực hiện. Trong
hoạt động môi giới chứng khoán cho khách hàng, các công ty chứng khoán cũng
cung cấp cho khách hàng của mình những dịch vụ tài chính đi kèm để có thể
thực hiện giao dịch thuận lợi, nhanh chóng và an toàn nhất. Các dịch vụ đó bao
gồm:
i) Mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho khách hàng.
Khi khách hàng đến công ty chứng khoán đặt lệnh, bước đầu tiên là công
ty chứng khoán sẽ mỏ một tài khoản giao dịch chứng khoán cho khách hàng.
Tiền và chứng khoán của khách hàng sau mỗi thương vụ giao dịch thành công
sẽ được thanh toán trên tài khoản này. Cùng với việc mở tài khoản giao dịch cho
khách hàng, công ty chứng khoán phải mở tài khoản tiền gửi chuyên dùng
không kì hạn tại một ngân hang thương mại để lưu giữ toàn bộ tiền gửi giao dịch
chứng khoán của khách hàng. Việc mở tài khoản giao dịch cho khách hàng có
thể đựơc công ty chứng khoán mở tại trụ sở công ty hoặc có thể mở tại nhà riêng
nếu khách hàng có nhu cầu.
16
ii)Mở tài khoản ký quĩ cho khách hàng.
Khi khách hàng muốn đặt lệnh mua chứng khoán, họ phải mở một tài
khoản phong toả tại công ty chứng khoán để đảm bảo thực hiện giao dịch. Số
tiền phải kí quĩ gửi trong tài khoản được tính theo giá trị lượng chứng khoán đặt
mua, thường là trên 70%. Việc yêu cầu khách hàng phải kí quĩ ở mức cao như
vậy (các giao dịch khác thường chỉ là 10% giá trị giao dịch) vì : Giá cả của thị
trường chứng khoán khoán biến động rất nhanh, hôm nay cao nhưng ngày mai
có thể thấp đỉnh điểm. Nếu mức kí quĩ thấp, trong trường hợp giá chứng khoán
giảm mạnh thì đôi khi việc từ bỏ giao dịch còn thiệt hại ít hơn cho người mua
nếu mua vào để rồi phải bán ra với giá thấp, thậm chí là chứng khoán không còn
giá trị. Hơn nữa, số lượng nhà đầu tư chứng khoán riêng lẻ rất lớn, tổng lượng
chứng khoán họ đầu tư không thật sự lớn. Việc qui định mức kí quĩ thấp dễ
khiến những nhà đầu tư này từ chối nhận chứng khoán khi giao dịch đã được
thực hiện vì số tiền phạt kí quĩ không lớn với họ. Tuy nhiên nếu một lượng lớn
khách hàng như vậy từ bỏ không thực hiện nghĩa vụ sẽ gây thiệt hại đáng kể cho
các công ty chứng khoán .
Nếu các nhà đầu tư dễ dàng từ bỏ nghĩa vụ nhận chứng khoán và thanh
toán tiền cho bên bán sẽ là hiểm hoạ cho các công ty chứng khoán vì họ sẽ phải
mất rất nhiều công sức để huỷ bỏ giao dịch, thiệt hại cho người bán, gây bất ổn
cho thị trường chứng khoán vì khả năng từ chối giao dịch làm giảm tính thanh
khoản của chứng khoán. Do vậy việc qui định mức kí quĩ cao là cần thiết để bảo
đảm quyền lợi của các bên trong giao dịch mua bán chứng khoán, bảo vệ thị
trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và lành mạnh kích thích nền kinh tế
phát triển.
Việc công ty chứng khoán là tổ chức duy nhất được mở tài khoản kí quĩ
(cũng như tài khoản giao dịch trong thương vụ mua bán chứng khoán) không chỉ
đảm bảo quyền lợi cho người môi giới mà còn giúp giao dịch tiến hành thuận lợi
vì số tiền kí quĩ sẽ được công ty chứng khoán thanh toán cho bên bán khi đã
thực hiện xong một thương vụ mua bán, giảm được các chi phí chuyển khoản
17
nếu qui định một tổ chức tài chính khác là nơi mà khách hàng của họ mở bất kì
một trong hai loại tài khoản trên.
iii) Thực hiện nghiệp vụ đăng kí, lưu kí chứng khoán cho khách hàng.
Trong các giao dịch thông thường, người mua và người bán tự bảo quản
tài sản, tự tìm đến nhau để thực hiện giao dịch, sau đó là tự thanh toán tiền.
Nhưng trên thị trường chứng khoán thì hình cách thức giao dịch cổ điển này
không thể áp dụng được vì nó luôn tiềm ẩn nguy cơ không thực hiện nghĩa vụ
của bên mua hoạc bên bán, đặc biệt là khi giá cả có nhiều biến động. Trong khi
đó, giao dịch chứng khoán tại các SGDCK, thị trường giao dịch điện tử (thị
trường phi tập trung), thị trường của các chứng khoán phái sinh … đều là hình
thức giao dịch có tổ chức giữa nhiều bên mua bên bán với nhau. Để luôn đảm
bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng cung như sự an toàn cho tất cả các bên tham
gia mua bán, giảm thiểu chi phí giao dịch đòi hỏi việc thanh toán tiền và chuyển
giao chứng khoán phải được thực hiện một cách có tổ chức. Khi giao dịch chứng
khoán đã được xác nhận thực hiện, việc chuyển giao chứng khoán và tiền sẽ
được chuyển khoản trên các tài khoản chứng khoán và tiền thông qua các bút
toán ghi sổ thay vì chuyển giao vật chất trực tiếp. Để làm được điều này, chứng
khoán niêm yết hay đăng kí trên thị trường chứng khoán cần phải được lưu giữ
tập trung và bất động hoá tại một nơi. Chính đòi hỏi này đã dẫn đến sự ra đời
của loại hình dịch vụ đăng kí, lưu kí và bù trừ chứng khoán.
Theo qui định của pháp luật, lưu kí chứng khoán là việc nhận kí gửi,
chuyển giao, bảo quản chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện
các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán.
Đăng kí chứng khoán là việc ghi nhận quyền sở hữu và các quyền khác
của người sở hữu chứng khoán.
Các tổ chức cung ứng các dịch vụ đăng kí, lưu kí chứng khoán là ngân
hàng lưu kí và công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ lưu kí chứng
khoán. Các ngân hàng lưu kí chủ yếu thực hiện lưu kí chứng khoán cho các quĩ
đại chúng với tư cách là một nghiệp vụ độc lập, chứng khoán của các quĩ này
18
buộc phải lưu kí ở một ngân hàng lưu kí. Hoạt động lưu kí mà công ty chứng
khoán cung ứng chủ yếu là phục vụ khách hàng đặt lệnh mua bán chứng khoán
tại công ty chứng khoán Những khách hàng có sở hữu một lượng chứng khoán
nhất định đều phải lưu kí ở công ty chứng khoán mà đã thực hiện môi giới mua
vào lượng chứng khoán đó. Chứng khoán của khách hàng sẽ được công ty
chứng khoán lưu giữ, bảo quản (bao gồm cả chứng khoán vật chất và chứng
khoán ghi sổ). Việc công ty chứng khoán thực hiện dịch vụ đăng kí lưu kí chứng
khoán cho khách hàng vừa là một nghiệp vụ kinh doanh thu lợi nhuận, vừa tạo
sự thuận lợi cho khách hàng thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền sở hữư
chứng khoán (như quyền chuyển nhượng chứng khoán khi muốn bán ra). Công
ty chứng khoán mà nhà đầu tư lựa chọn làm người môi giới cho mình là cầu nối,
kênh thông tin giữa nhà đầu tư với các chủ thể khác của thị trường chứng khoán
trong một giao dịch chứng khoán, mặt khác, chỉ có thể là các công ty chứng
khoán mới có khả năng cung cấp những dịch vụ như thế tới một lượng lớn
khách hàng mà việc thay đổi quyền sở hữu chứng khoán từ nhà đầu tư này sang
nhà đầu tư khác diễn ra hàng ngày hàng giờ. Các công ty chứng khoán là người
trực tiếp nhận được thông tin về nhà đầu tư và thay nhà đầu tư thực hiện các
quyền sở hữu của họ. Công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ đăng kí lưu kí
chứng khoán cho khách hàng của mình không chỉ là nghiệp vụ hỗ trợ cho hoạt
động môi giới chứng khoán mà còn là một chức năng cơ bản khó có thể thay thế
bởi một tổ chức tài chính nào khác của thị trường chứng khoán .
1.1.3. Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán .
a) Giảm chi phí giao dịch.
Hoạt động môi giới chứng khoán ra đời vì nguyên nhân khách quan là nhu
cầu gặp nhau giữa người có vốn và người cần vốn. Song trong quá trình hoạt
động của thị trường chứng khoán, hoạt động môi giới chứng khoán còn chứng tỏ
việc nó có vai trò quan trọng và không thể thiếu để thị trường chứng khoán phát
triển là khả năng giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm tiền cho nhà đầu tư. Một đặc
điểm phân biệt hoạt động môi giới chứng khoán với các hoạt động môi giới khác
19
là ngoài việc là cầu nối để người có vốn và người cần vốn gặp nhau thì chức
năng cơ bản và chủ yếu của người môi giới trong thị trường chứng khoán hiện
đại là thực hiện các giao dịch thay cho khách hàng của mình. Chính việc những
người môi giới là nơi để các nhà đầu tư có thể gặp nhau và việc người môi giới
thực hiện mọi giao dịch liên quan thay cho khách hàng của mình (nhà đầu tư chỉ
đưa ra lệnh mua vào bán ra cho người môi giới thực hiện) đã tiết kiệm chi phí
giao dịch rất nhiều so với hình thức giao dịch cổ điển. Giả sử, thị trường chứng
khoán không có người môi giới và hoạt động môi giới chứng khoán, ngoài ra tất
cả các tổ chức khác vẫn giữ nguyên, các giao dịch trên thị trường chứng khoán
sẽ diễn ra như thế nào? Ai sẽ là người trực thực hiện việc mua vào bán ra chứng
khoán, ai là người quản lý các thông tin về khách hàng, về các quyền liên quan
đến việc sở hữu chứng khoán mà hôm nay thuộc về người này mai đã là thuộc
về người khác. TTGDCK (SGDCK), hay thị trường chứng khoán trở về hoạt
động cổ điển, những nhà đầu tư tự tìm đến nhau, tự mình thực hiện các giao dịch
và tự mình quản lý chứng khoán. Giả sử vể việc TTCK hoạt động theo phương
thức cổ điển đã bị chính sự phát triển của thị trường chứng khoán loại trừ. Các
nhà đầu tư sẽ phải chi phí khoản tiền là bao nhiêu để tìm được đến với người cần
mua hay người cần bán. Thậm chí ngay cả khi điện thoại và internet hỗ trợ
không phải nhà đầu tư nào cũng có thể dễ dàng sử dụng va có được địa chỉ chính
xác để tiến hành giao dịch. Mặt khác, giao dịch như vậy dẫn đến nguy cơ lừa
đảo của cả người mua và người bán cũng như khả năng không thực hiện nghĩa
vụ khi giá cả có biến động là rất lớn. Phương thức này hoàn toàn không phù hợp
với loại hàng hoá cần tính thanh khoản cao như chứng khoán.
Trường hợp các SGDCK là nơi tập trung (chợ) để tất cả những người mua
và người bán đến đó để thực hiện giao dịch. SGDCK thực hiện vai trò gần giống
như người môi giới. Tức là chứng khoán sau khi niêm yết sẽ được lưu kí tại
TTLKCK nhưng SGDCK là nơi quản lí mọi thông tin về khách hàng bao gồm tổ
chức niêm yết, người sở hữu chứng khoán sau khi đã phát hành ra công chúng,
những nhà đầu tư vãng lai đặt lệnh mua bán ngắn hạn…SGDCK trở thành tổ
20
chức duy nhất thay thế cho các công ty chứng khoán thực hiện giao dịch mua
bán chứng khoán cho khách hàng song song với vai trò hiện tại là tổ chức giao
dịch hoàn tất theo phương thức khớp lệnh (hoặc thoả thuận).Vấn đề đặt ra là
SGDCK sẽ làm thế nào để thay thế số lượng các công ty chứng khoán thực hiện
hàng ngàn lệnh mua bán mỗi ngày, liệu tình trạng phân biệt đối xử khách hàng
hay nhiều lệnh của nhà đầu tư không được thực hiện xảy ra đến mức nào khi mà
ngay ở các công ty chứng khoán dù số lượng khách hàng đã được chia nhỏ cũng
đã không hiếm thấy. Việc không thực hiện lệnh cho khách hàng không những
gây thiệt hại cho khách hàng, làm nản lòng các nhà đầu tư và thiệt hại một số
lượng vốn lớn chảy vào nền kinh tế, làm giảm nhiệt thị trường chứng khoán,
giảm tính thanh khoản của hàng hoá chứng khoán. Thứ hai, việc SGDCK là nơi
tập trung mua bán chứng khoán duy nhất làm giảm khả năng tiếp cận thị trường
chứng khoán của rất nhiều nhà đầu tư cũng như tăng chi phí như đi lại, tư vấn.
Đối với các nhà đầu tư riêng lẻ, ngoài phương pháp đặt lệnh qua điện thoại hay
internet thì việc đặt lệnh trực tiếp tại cơ sở của một công ty chứng khoán là một
lựa chọn tốt. Khi các công ty chứng khoán có mặt ở khắp nơi, các nhà đầu tư có
thể dễ dàng đến với họ như một nguồn cung cấp thông tin và tư vấn đầu tư rồi
mới ra quyết định là sẽ đầu tư vào loại chứng khoán nào. Nếu không có người
môi giới, những nhà đầu tư này sẽ phải làm hai công đoạn là tìm đến một tổ
chức nào đó để lấy thông tin và thuê tư vấn, sau đó đến một nơi khác (nơi có kết
nối internet, điện thoại, SGDCK ) để đặt lệnh. Đây là vấn đề hết sức bất tiện và
không tiết kiệm chi phí cho nhà đầu tư.
Nhìn chung,sự xuất hiện của những người môi giới đã tiết kiệm nhiều chi
phí cho tất cả các bên trong quá trình mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư.
- Đối với nhà đầu tư:
+ Dễ tiếp cận với thông tin qua những nhà môi giới.
+ Dễ dàng tìm được nơi có thể mua bán chứng khoán.
+ Khả năng lệnh đã đặt được thực hiện ở mức cao.
+ Tiết kiệm chi phí đi lại, chi phí điện thoại, chi phí internet…
21
- Đối với TTGDCK,SGDCK:
+ Giảm chi phí tổ chức, chi phí quản lí nhân sự
+ Hệ thống các công ty chứng khoán thành viên gửi lệnh và nhận kết quả
dễ dàng nhờ các công cụ hỗ trợ
- Đối với xã hội
+ Không bỏ sót các khoản đầu tư phát triển kinh tế
+ Tạo một khoản thuế vào ngân sách nhà nước.
b)Phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.
Chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt của nền kinh tế phát triển. Thông
thường, một hàng hoá có hai đặc tính tính là giá trị và giá trị sử dụng. Chứng
khoán là loại hàng hoá mà người ta khó nhìn thấy giá trị sử dụng của nó. Điều 6
khoản 1 luật chứng khoán qui định “chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ
chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán
ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ qũi;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán,
hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hay chỉ số chứng khoán”
Có thể nói chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt, nó phản ánh giá trị một
loại “hàng hoá khác” là tổ chức phát hành ra nó. Giá trị của chứng khoán sẽ cao
nếu giá trị của tổ chức phát hành cao và ngược lại. Điều này có nghĩa là giá trị
của chứng khoán sẽ tăng nếu tổ chức phát hành ra nó làm ăn có lãi, tăng qui mô
sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường và người nắm giữ chứng khoán sẽ có
lợi chứng khoán mà họ tăng giá. Tính thanh khoản của chứng khoán cũng tăng
vì số lượng người muốn năm giữ chứng khoán tăng. Mặc dù vậy tính thanh
khoản của chứng khoán còn phụ thuộc vào khả năng mức khả năng lưu thông,
tức là sự mua vào bán ra dễ dàng, điều này lại phần nào phụ thuộc vào cách thức
tổ chức thị trường cũng như sự hoạt động tích cực và hiệu quả của người môi
giới (vì họ là đầu mối đầu tiên để một thương vụ mua bán trên thị trường chứng
22
khoán xảy ra, nhờ có các công ty chứng khoán mà cổ phiếu, trái phiếu của các
công ty, tổ chức được buôn bán lưu thông tấp nập trên thị trường chứng khoán).
Phân tích này cho thấy tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào hai yếu
tố: khả năng sinh lời của chứng khoán (yếu tố bên trong) và khả năng lưu thông
dễ dàng (yếu tố bên ngoài). Việc góp phần làm tăng tính thanh khoản của chứng
khoán gián tiếp kích thích các tổ chức phát hành tăng chất lượng sản phẩm, dịch
vụ cung cấp ra thị trường nâng cao uy tín với khách hàng, hoạt động có lãi…Khi
các nhà đầu tư quan tâm đến chứng khoán của công ty cũng đồng nghĩa với việc
công ty có thể huy động thêm vốn bằng việc phát hành chứng khoán để mở rộng
qui mô sản xuất kinh doanh. Số vốn ở mỗi doanh nghiệp là chỉ tiêu đánh giá qui
mô của doanh nghiệp, khả năng chiếm lĩnh thị trường và sức mạnh để tồn tại và
phát triển. Số vốn kinh doanh biểu hiện thế lực của công ty trên thị trường và
sức cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của
doanh nghiệp. Do vậy nhu cầu tăng cường vốn và nhu cầu mở rộng sản xuất
kinh doanh luôn đặt ra ở bất kì một doanh nghiệp lớn hay nhỏ.Trong xu thế hiện
nay, khi huy động vốn trung và dài hạn thông qua phát hành chứng khoán là
phương thức hiệu quả để thu hút được lượng nhà đầu tư lớn nhất mà không
phương pháp nào có thể so sánh được thì việc nâng cao uy tín, hoạt động kinh
doanh hiệu quả để chứng khoán tổ chức mình phát hành có giá và được các nhà
đầu tư lựa chọn hàng đầu đang được các tổ chức phát hành quan tâm. Đồng
nghĩa với việc tăng sự thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào doanh nghiệp, các tổ
chức phải nâng cao uy tín bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung
cấp ra thị trường.
c)Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán với việc cải thiện môi
trường kinh doanh.
Thị trường chứng khoán ra đời đã giữ một vị trí đặc biệt trong hoạt động
kinh tế của con người. Có thể nói đây là loại thị trường cao cấp của nền kinh tế,
một loại thị trường cũng như hàng hoá lưu thông tại thị trường ấy đều mang tính
trừu tượng cao, phương thức giao dịch khác biệt với tất cả các loại thị trường
23
hàng hoá nào khác. Ban đầu khi người môi giới chưa xuất hiện, các nhà đầu tư
phải tự tìm đến nhau, hiệu quả và số lượng giao dịch thấp, hiện tượng tranh mua
tranh bán, không thực hiện nghĩa vụ dễ dàng xảy ra vì các bên vẫn trực tiếp quản
lý số chứng khoán của mình mà không có một phương thức giao dịch đảm bảo
thực hiện cho cả hai bên. Các tổ chức môi giới chứng khoán ra đời đã tạo bước
ngoặt cho thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ, huy động được khối
lượng vốn lớn cho nền kinh tế, hình thành nên những sản phẩm dịch vụ mới cho
thị trường, tạo thêm công ăn việc làm, tác động tích cực đến môi trường kinh
doanh.
Thứ nhất, hoạt động môi giới chứng khoán cùng thị trường chứng khoán
góp phần làm hình thành nền văn hoá đầu tư. Trước kia, khi thị trường chứng
khoán chưa xuất hiện, thậm chí cả khi đã xuất hiện rồi nhưng đa số mọi người
không tưởng tượng được là mình sẽ bỏ tiền ra mua một tờ giấy gọi là chứng
khoán vì ngay cả khi tổ chức phát hành ra nó cam kết chúng tôi sẽ trả lãi, khi
chúng tôi làm ăn có lãi anh cũng được hưởng lợi như chúng tôi mà không phải
làm gì ngoài việc bỏ tiền ra mua tờ giấy đó.
Người ta tin vào cam kết đó, nó cũng gần giống như việc cho vay lãi đã
xuất hiện từ hàng ngàn năm, nhưng vấn đề là người ta chưa quen với việc cho
một tổ chức mà hoàn toàn không có mối liên hệ gia đình hay công việc vay lại
không có quyền quản lý với số vốn bỏ ra cho vay đó; hoặc việc công ty đó liệu
làm ăn có lãi như họ hứa không, khi cần tiền thì tờ giấy đó bán cho ai…các câu
hỏi được đặt ra và người ta quyết định không bỏ tiền vào hầu bao các nhà kinh
doanh đó nữa. Chỉ một số ít những người có tiền đầu tư vào con đường này,
nhưng chủ yếu là với tư cách cổ đông góp vốn. Việc mua đi bán lại chứng khoán
cũng hết sức vất vả. Ngày nay, khi thị trường chứng khoán đã phát triển, người
ta dễ dàng mua bán chứng khoán thông qua người môi giới chỉ bằng một câu
lệnh. Số lượng người quan tâm đầu tư vào chứng khoán tăng cao. Hầu hết các
công ty lớn trên thế giới là những công ty cổ phần có chứng khoán mạnh niêm
yết tại nhiều sở giao dịch. Tại các nứơc phát triển, hầu hết người dân hộ gia đình
24
đều mua chứng khoán của một công ty nào đó thay vì chỉ gửi tiết kiệm đơn
thuần ở các ngân hàng bởi khả năng sinh lời cao của chứng khoán thu hút họ
hơn là số tiền lãi tiết kiệm. Trên thực tế, khi cần huy động một lượng vốn lớn,
các tổ chức, công ty có uy tín, cơ quan nhà nứơc luôn chọn hình thức phát hành
chứng khoán từ đông đảo nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư tổ chức lẫn nhà đầu tư
riêng lẻ để có thể huy động tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ công chúng. Các tổ
chức kinh tế thông thường phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các cơ quan
nhà nước có thể phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu
công trình, tín phiếu kho bạc…tuỳ vào cơ quan phát hành và mục đích huy động
vốn. Các nước trên thế giới đã rất thành công trong việc huy động vốn từ kênh
chứng khoán. Hàng tỷ đô la đã được đưa vào sản xuất kinh doanh cũng như xây
dựng các công trình phát triển, công trình công cộng, công trình phúc lợi. Số
lượng người kiếm được những khoản tiền lớn nhờ đầu tư chứng khoán rất nhiều
và người ta sẽ còn đầu tư nữa vì phương thức đầu tư dễ dàng cũng như những
khoản lợi nhuận mà chứng khoán đem lại. Chứng khoán và thị trường chứng
khoán hiện là mối quan tâm của đông đảo mọi người, mỗi sáng thức dậy người
ta lại đặt câu hỏi mình sẽ đầu tư vào loại chứng khoán nào đây hoặc cổ phiếu
này hôm nay có tăng giá không nhỉ.
Thứ hai, sản sinh ra nhiều ngành dịch vụ mới.
Thị trường chứng khoán và hoạt động môi giới ra đời cũng sản sinh ra
nhiều ngành dịch vụ mới của nền kinh tế hiện đại. Một dịch vụ điển hình của
ngành tài chính ngân hàng là dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán. Trên thị
trường, có nhiều nhà đầu tư vì tin tưởng vào khả năng sẽ tăng giá của một loại
chứng khoán nào đấy nên đã đầu tư hầu hết số vốn mình có. Nhưng người này
lại muốn đầu tư vào một thương vụ khác hoặc vì lý do nào đó mà cần đến tiền,
mặt khác vẫn muốn nắm giữ chứng khoán để chờ cơ hội. Các ngân hàng cho
những người này vay và lấy chứng khoán đó làm vật cầm cố. Chứng khoán để
được ngân hàng chấp nhận là tài sản bảo đảm phải có tính thanh khoản cao, có
tiềm năng mang lại lợi nhuận cao cho người sở hữu nó. Dịch vụ cho vay cầm cố
25
chứng khoán chỉ xuất hiện khi có thị trường chứng khoán và ở Việt Nam,dịch vụ
này mới được một số ngân hàng thương mại cung cấp. Một dịch vụ điển hình
nữa của thị trường chứng khoán là dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán do các
công ty chứng khoán cung cấp. Theo qui định của pháp luật, công ty chứng
khoán là tổ chức được phép thực hiện nghiệp vụ này. Rất nhiều nhà đầu tư lựa
chọn hình thức bỏ tiền vào chứng khoán. nhưng không phải tất cả họ có kiến
thức thông tin đầy đủ để có thể ra quyết định đầu tư đúng đắn. Dịch vụ tư vấn
đầu tư chứng khoán do những người môi giới cung cấp ra đời kèm theo để đáp
ứng yêu cầu này. Khi một nhà đầu tư đến một công ty chứng khoán đặt lệnh, nếu
chưa chắc chắn hiểu về thị trường chứng khoán ,về loại chứng khoán mà họ nên
đầu tư hay các thông tin về tổ chức phát hành hoặc các thông tin về tình hình giá
cả, sự lên xuống, xu hướng thị trường; họ có thể bước ngay sang phòng bên
cạnh nơi những nhà tư vấn có kiến thức, có kinh nghiệm được trang bị những
phương tiện hỗ trợ để có thể nắm bắt thông tin và phân tích khoa học các số liệu
chứng khoán và đưa cho họ những lời khuyên tối ưu nhất.
Thứ ba, hoạt động môi giới chứng khoán góp phần vào việc tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Cụ thể:
-Tác động trực tiếp.
Để có thể thực hiện đựơc hàng triệu lệnh mua và bán mỗi ngày, số lượng
nhân viên môi giới trên toàn thế giới ở các công ty chứng khoán là rất lớn. Nếu
không có dịch vụ môi giới chứng khoán xã hội sẽ phải gánh chịu gánh nặng giải
quyết vấn đề việc làm cho lực lượng này. Đây quả thật là con số không nhỏ,
không thể giải quyết trong một sớm một chiều cũng như không thể giải quyết
triệt để. Ngay cả các nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thì con số cũng trên 0%
và ở mức cần phải có chính sách để giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Lực lượng lao động mà một phần nhờ có hoạt động môi giới chứng khoán
được sinh ra là lực lượng nằm trong khối dịch vụ phái sinh như dịch vụ cho vay
cầm cố chứng khoán hay dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.
- Tác động gián tiếp.