Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.7 KB, 66 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư là một lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà mục tiêu phát triển kinh
tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt được đặt lên hàng đầu, cùng với sự
cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, vấn đề là làm sao để thu hút đầu tư, đặc
biệt là FDI và phát huy mọi tiềm lực trong và ngoài nước là vấn đề sống còn.
Nhận thức rõ vai trò của FDI, tất cả các nước trên thế giới đều nghiên cứu để đề
ra một chế độ pháp lý về FDI cho phù hợp. Nhà nước với vai trò thiết kế và
quản lý mọi mặt của đời sống xã hội đã sử dụng pháp luật - một công cụ rất hữu
hiệu để thống nhất và định hướng cho hoạt động FDI. Một mơi trường đầu tư
hấp dẫn ngồi các yếu tố kinh tế cịn có các yếu tố chính trị, pháp luật phải ổn
định và đồng bộ. Vì thế, pháp luật đóng một vai trị rất quan trọng trong các hoạt
động FDI, là công cụ thiết yếu và tiên quyết cho hoạt động này diễn ra có hiệu
quả.
Việt Nam sau thời kỳ cải cách và mở cửa, cùng những đổi mới căn bản
trong nhận thức và đường lối chính sách ĐTNN và nhất là FDI đã đạt được
nhiều thành tích. Luật Đầu tư năm 2005 ra đời đúng lúc với những quy định về
FDI hấp dẫn cùng một thị trường đầu tư giàu tiềm năng đã đẩy nhanh tốc độ
phát triển đất nước. Đồng thời với đường lối đối ngoại của Nhà nước ta là đa
phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ, hội nhập với cộng đồng quốc tế trên
cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, ý chí tự lực tự cường, nhờ một phần ngoại
lực để hỗ trợ cho nội lực phát huy. Vì thế, ngồi việc phải có các biện pháp bảo
đảm FDI, nhà nước cũng phải dành cho FDI những ưu đãi, khuyến khích nhằm
tận dụng mọi nguồn lực bên ngồi, góp phần phát triển kinh tế xã hội, vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh…
Tuy vậy trên thực tế, nguồn FDI ở nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế cũng như chưa tương xứng
với tiềm lực về thu hút FDI của Việt Nam. Phải chăng những biện pháp bảo đảm
và khuyến khích FDI của nhà nước ta vẫn chưa thực sự hấp dẫn, chưa lôi kéo




2

các nhà ĐTNN, chưa tạo ra được một sân chơi bình đẳng và vẫn cịn phân biệt
đối xử đầu tư trong nước và ĐTNN, mà đặc biệt là FDI? Đây cũng chính là lý
do em chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo
đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” nhằm đánh
giá sự phát triển của pháp luật Việt Nam trong các quy định về những biện pháp
bảo đảm và khuyến khích FDI tại Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp,
kiến nghị nhằm làm cho hoạt động này đạt được hiệu quả cao hơn.
Trong khóa luận này, tác giả hướng tới nghiên cứu một cách cơ bản về sự
hình thành, phát triển của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI và thực
trạng FDI tại Việt Nam.Phân tích cơ sở khách quan: bao gồm cơ sở lý luận và cơ
sở thực tiễn của các hoạt động FDI trong những năm qua. Nhận thức rõ thực
trạng và giải pháp cần thiết thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận là:
- Nghiên cứu cơ sở pháp lý của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích
FDI trong khn khổ các quy định của Việt Nam và các cam kết quốc tế mà
Việt Nam là thành viên.
- Nghiên cứu thực trạng và giải pháp về các biện pháp nhằm thu hút FDI tại
Việt Nam.
Với đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu như vậy, phương pháp
nghiên cứu chủ đạo được tác giả sử dụng trong Khóa luận là các phương pháp
tổng hợp, phân tích, so sánh dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong q trình nghiên cứu, cịn sử dụng
các số liệu về phát triển kinh tế và số liệu về phát triển FDI cũng như các sự kiện
mang tính lịch sử cho bước ngoặt phát triển kinh tế của Việt Nam.
Về ý nghĩa khoa học và thực tiễn, Khóa luận sẽ làm rõ hơn một số vấn đề
lý luận và thực tiễn của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI. Giúp

chúng ta hiểu hơn nữa về bảo đảm và khuyến khích FDI tại Việt Nam, thấy đuợc
thực trạng thu hút và sử dụng FDI của nước nhà, qua đó sẽ cho một cái nhìn


3

đúng đắn, tổng thể về tình hình kinh tế và đề ra chiến lược thích hợp về FDI
trong thời gian tới.
Khóa luận cịn nêu lên một số vấn đề đặt ra, chỉ ra mối liên hệ và tác động
qua lại của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI với thực trạng FDI ở
Việt Nam, từ đó đưa ra ý kiến đề xuất là những việc cần thiết phải làm trong
thời gian tới nhằm đẩy mạnh việc thu hút FDI, đưa đất nước phát triển.
Trên cơ sở đó, ngồi phần Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung chính của Khóa luận gồm có 3 chương
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về các biện pháp bảo đảm và
khuyến khích FDI
Chương II: Thực trạng của pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo
đảm và khuyến khích FDI.
Chương III: Tình hình đầu tư FDI tại Việt Nam trong những năm gần
đây, phương hướng giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút FDI tại Việt Nam trong
thời gian tới.


4

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGỒI
1.1.


KHÁI NIỆM ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI, CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM

VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là một trong những yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Thơng qua hoạt động đầu tư, quốc gia có thể huy động được rất
nhiều nguồn lực trong và ngoài nước về vốn, về công nghệ, kỹ thuật… để đẩy
mạnh tốc độ phát triển đất nước.
Như vậy, có thể hiểu đầu tư chính là việc bỏ vốn dưới mọi hình thức vào
sản xuất kinh doanh trên cơ sở tính tốn lợi ích kinh tế - xã hội.
Cơ sở đầu tiên để một hoạt động đầu tư diễn ra chính là vốn. Nhà đầu tư
có thể sử dụng các loại vốn sau để đầu tư:
- Tiền, vàng, chứng khoán chuyển nhượng được;
- Nhà xưởng cơng trình xây dựng, thiết bị máy móc, các phương tiện sản
xuất kinh doanh khác;
- Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
- Giá trị quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kỹ thuật, quy trình cơng nghệ;
- Các tài sản hợp pháp khác.
Cũng theo khái niệm trên thì hoạt động đầu tư ln ln hướng tới một
mục đích nào đó, có thể là mục đích tìm kiếm lợi nhuận hoặc các lợi ích kinh tế
xã hội nói chung. Tuy hoạt động đầu tư mang mục đích nào chăng nữa thì nó
ln ln có vai trò và tầm quan trọng rất lớn đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư.
Đối với các quốc gia phát triển, đầu tư và nhất là đầu tư ngoài nước có tác dụng
lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội như thất nghiệp,


5

lạm phát… Đối với các quốc gia kém phát triển và các quốc gia đang phát triển,

đầu tư càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thiếu
vốn kéo dài, giúp các nước này tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế,
giải quyết các vấn đề xã hội, đồng thời tăng thu ngân sách nhà nước.
Trên tinh thần đó, khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005 cũng quy định:
“Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ hình
để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
1.1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngồi
FDI là một hoạt động quốc tế, vì bản chất của nó là việc di chuyển vốn từ
nước này sang nước khác và do các chủ đầu tư trực tiếp thực hiện. Thị trường
của FDI khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi của một quốc gia mà cịn có tính quốc
tế, thị trường của mỗi quốc gia là một bộ phận trong toàn bộ thị trường thế giới.
Để mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, phục vụ sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai
thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, chúng ta cần phải đẩy
mạnh hơn nữa hoạt động thu hút đầu tư. Hoạt động FDI đã trở thành một bộ
phận quan trọng trong toàn bộ chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước ta.
Trong những năm qua, FDI ngày càng được thừa nhận là kênh đầu tư quan
trọng và chủ yếu nhất trong đầu tư nước ngồi, là giải pháp quan trọng góp phần
thúc đẩy sự phát triển nội sinh của nền kinh tế nước nhà. Cho đến nay, có nhiều
cách hiểu khác nhau về FDI.
Theo Luật giúp nước ngoài 1961 của Hoa Kỳ thì: “Đầu tư là mọi hình
thức đầu tư trên lãnh thổ của một bên do các công dân hoặc công ty bên kia sở
hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp”.
Theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF), FDI là
“hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi ích lâu dài của nhà đầu tư tại một DN ở một
nước khác với nước của nhà đầu tư, trong đó nhà đầu tư phải có vai trị, có ý
nghĩa quyết định trong quản lý DN” [22, tr.156].



6

Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic
Cooperation and Development - OECD), FDI được hiểu theo nghĩa rộng hơn:
“FDI là các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân kể cả việc cho vay
dài hạn hoặc sử dụng nguồn lợi nhuận tại nước sở tại nhằm tạo dựng các quan hệ
kinh tế lâu dài và mang lại khả năng gây ảnh hưởng thực sự về quản lý” [22,
tr.157].
Khái niệm FDI đã trở thành một khái niệm phổ biến trong các đạo luật của
các quốc gia như: Luật khuyến khích đầu tư Thái Lan, Luật đầu tư Indonexia,
Luật đầu tư Việt Nam… Tuy nhiên, tuỳ theo mỗi cách hiểu và từng góc độ tiếp
cận mà có các quy định khác nhau về FDI.
Trên cơ sở nắm bắt được những bản chất cơ bản của FDI, Luật Đầu tư
năm 2005 của Việt Nam quy định tại khoản 2 Điều 3: “Đầu tư trực tiếp là hình
thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể định nghĩa khát quát về FDI
như sau: FDI là việc nhà ĐTNN bỏ vốn và các nguồn tài chính nhằm thiết lập
cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý
để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận.
1.1.3. Khái niệm các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI
FDI có ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc
gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Điều đó đã thôi thúc nhiều nhà khoa học
và nhiều ngành khoa học như: Kinh tế học, luật học... tiếp cận đa chiều với các
góc độ khác nhau về FDI và các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI. Dưới
góc độ pháp lý, các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có thể được hiểu là
tổng thể các quy định pháp luật của mỗi quốc gia nhằm bảo đảm quyền lợi thiết
thực, chính đáng cho các nhà ĐTNN trong q trình đầu tư ở nước sở tại, đồng
thời nhằm tạo mọi điều kiện cho hoạt động thu hút FDI phát triển, trong đó:
- Bảo đảm FDI: là những cam kết của nước tiếp nhận đầu tư nhằm đảm
bảo an toàn về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn đối với tài sản, vốn, các



7

quyền và lợi ích hợp pháp của nhà ĐTNN khi tiến hành các hoạt động đầu tư tại
nước tiếp nhận.
- Khuyến khích FDI: là việc nước tiếp nhận đầu tư quy định dành ưu đãi
nhất định về kinh tế theo hướng có lợi cho nhà đầu tư nhằm tạo động lực thúc
đẩy họ vào những nước này. Biện pháp khuyến khích đầu tư là các biện pháp
của Chính phủ được đặt ra để tác động tới quy mô, địa điểm hay ngành nghề đầu
tư thông qua việc tác động tới chi phí tương đối hay lợi nhuận tiềm năng hoặc
bằng cách giảm bớt những rủi ro đi kèm dự án đó. Chính sách đầu tư thực sự là
một địn bẩy kinh tế và vai trị của nó ở chỗ nó quyết định trực tiếp đến mức lợi
nhuận mà DN thu được.
Thực chất các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có quan hệ mật
thiết với nhau, là hai mặt của một vấn đề. Bảo đảm đầu tư là điều kiện tiên quyết
dẫn đến quyết định nhà đầu tư có quyết định đầu tư vào nước đó hay khơng bởi
lẽ không một nhà đầu tư nào muốn đầu tư vào một đất nước khơng có các quy
định về bảo đảm đầu tư hoặc có các quy định song cịn thiếu chặt chẽ và không
đủ độ tin cậy, không bảo đảm an toàn khi khả năng rủi ro xảy ra. Bảo đảm đầu
tư là tiền đề để các biện pháp khuyến khích đầu tư có tính khả thi trên thực tế
trong việc tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thống, song chúng có mục
tiêu thống nhất là thu hút hiệu quả nguồn vốn FDI, đồng thời là cơ sở pháp lý
hết sức quan trọng thúc đẩy khả năng thu hút nguồn vốn FDI và làm tăng sức
cạnh tranh của môi trường đầu tư.
1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ
KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn diện,
hoạt động FDI ngày càng trở nên có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Việc nhận thức rõ vị trí, vai trị của FDI đối với nền kinh tế trong bối cảnh hội

nhập là yêu cầu hết sức cần thiết. Hơn nữa, môi trường đầu tư ở Việt Nam tuy
đã có nhiều cải thiện, nhưng trên thực tế hiện nay vẫn còn một số điểm bất cập
như: Thủ tục hành chính rườm rà, pháp luật lỏng lẻo, nguồn nhân lực thừa và rẻ


8

nhưng trình độ cịn thấp.... Trong đó, u cầu thiết yếu hàng đầu là phải tạo ra
được một môi trường pháp lý hoàn hảo, ngoài việc quy định những biện pháp
bảo đảm và khuyến khích đầu tư hấp dẫn thì pháp luật cần phải thật ổn định,
đồng bộ và chặt chẽ vì các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có vai trị to
lớn trong việc:
- Thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế đất
nước;
- Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế;
- Nguồn vốn FDI góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển lực lượng sản xuất;
- Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và
mức sống của người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực;
- Định hướng đầu tư vào các lĩnh vực tạo cơ sở cho phát triển toàn bộ nền
kinh tế;
- Định hướng đầu tư vào phát triển các vùng dân tộc, miền núi và hải đảo,
các vùng nông thôn và duyên hải gặp khó khăn để thực hiện chuyển dịch cơ cấu
vùng lãnh thổ, giảm dần sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng miền khác nhau của tổ quốc;
- Làm tăng thêm sự tin tưởng của các nhà đầu tư trong nước vào chính sách
kinh tế của Nhà nước ta, góp phần gián tiếp thúc đẩy thu hút vốn đầu tư trong
nước
- Mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài theo hướng đa phương hóa, đa
dạng hóa góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế

khu vực và thế giới.
Việc quy định các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư có vai trị và
ý nghĩa vơ cùng quan trọng vì nó mang lại hiệu quả cao nhất, có ý nghĩa nhất
đối với sự phát triển của quốc gia, tác động trực tiếp đến việc thu hút FDI, giúp
nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn sản xuất kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư và
bởi họ không những được bảo đảm về mọi quyền lợi hợp pháp mà còn được tạo


9

mọi điều kiện, ưu đãi cần thiết trong quá trình đầu tư. Chính các quy định này đã
tạo ra sự tin tưởng và an tâm của nhà đầu tư đối với chính sách đầu tư của nước
sở tại, đồng thời kích thích họ đầu tư vốn, cơng nghệ và kỹ thuật hiện đại cho
các dự án đầu tư.
Do pháp luật về đầu tư nước ngoài của nước ta ra đời muộn hơn các nước,
nên việc xây dựng và hoàn thiện chế định về các biện pháp bảo đảm và khuyến
khích FDI có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với việc thu hút FDI ở nước ta. Các
quy định của pháp luật về bảo đảm và khuyến khích đầu tư không những phải tạo
ra một môi trường đầu tư thông thống và hấp dẫn mà cịn phải thực sự đi trước
một bước để đẩy nhanh tốc độ thu hút nguồn lực bên ngồi.
Nói tóm lại, các quy định pháp luật về các biện pháp bảo đảm và khuyến
khích FDI là những quy định không thể thiếu được trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia. Bởi nếu khơng có quy định này thì sẽ làm cho hoạt động ĐTNN,
đặc biệt là các hoạt động FDI không thể tồn tại được. Do đó mà pháp luật về
ĐTNN của mỗi nước đều cần phải tiếp tục có sự điều chỉnh nhằm hồn thiện
hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI đối với các quốc gia khác.
1.3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGỒI TRONG KHN KHỔ CÁC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
ĐIỂN HÌNH MÀ VIỆT NAM ĐÃ KÝ KẾT HOẶC THAM GIA
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, hơn hai mươi năm đổi

mới là hơn hai mươi năm của những kỳ tích về phát triển kinh tế. Công cuộc đổi
mới của nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đó là tốc độ tăng trưởng
kinh tế luôn ở mức cao trong nhiều năm liên tục, nâng cao năng lực sản xuất,
đẩy mạnh xuất khẩu, cân bằng cán cân thương mại, khơng ngừng cải thiện đời
sống nhân dân…
Đầu tư nước ngồi đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại theo hướng hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế
thế giới, tạo thuận lợi cho Việt Nam hòa vào dòng chảy của nền kinh tế thế giới.


10

Bước vào năm 2008, việc thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song
phương, nhất là các cam kết trong khuôn khổ hợp tác ASEAN - AFTA, Hiệp
định thương mại Việt – Hoa Kỳ, các cam kết trong khuôn khổ WTO đã tới thời
điểm khẩn trương. Một năm sau ngày gia nhập WTO, việc thực hiện các cam kết
trong khuôn khổ của tổ chức này cũng được xúc tiến tích cực và đã đi vào giai
đoạn thực chất. Một số cam kết nổi bật sau đây mà Việt Nam đã ký kết hoặc
tham gia có liên quan đến đầu tư cho chúng ta thấy rõ hơn thời cơ và thách thức
đối với nước ta trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đầu tư.
1.3.1. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI trong khn khổ các
cam kết của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Việt Nam đã tham gia trong các chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN
trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, công nghiệp… Tại các kỳ Hội nghị
thượng đỉnh của ASEAN trong những năm vừa qua, các nước thành viên đã cam
kết thúc đẩy cải cách kinh tế tài chính, tăng cường sự liên kết kinh tế, tích cực tự
do hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại đầu tư ở cấp độ khu vực và đa
phương. Trong các cam kết đó, vấn đề có liên quan nhiều nhất tới FDI là Hiệp
định khung khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Free Trade Area - AIA) đã được
các Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN ký kết ngày 08/10/1998 tại thủ đô

Malina - Philipin. Đây là một bước tiến quan trọng thể hiện tiến trình hội nhập
ĐTNN của các nước ASEAN, là bước tiếp tục của Hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tư năm 1987, Nghị định thư năm 1996, nhằm tạo ra khung pháp lý
hoàn thiện hơn cho môi trường đầu tư của khu vực ASEAN, mở ra một cơ hội
và triển vọng tốt đẹp nhằm xây dựng ASEAN thành một khu vực tự do thương
mại và đầu tư hấp dẫn, thơng thống có sức cuốn hút lớn đối với các nhà ĐTNN
trong và ngoài ASEAN, giảm dần và tiến tới loại bỏ những quy định về điều
kiện đầu tư có thể cản trở các dịng đầu tư và sự hoạt động của các dự dán đầu tư
trong phạm vi ASEAN và bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu trên sẽ góp phần
hướng tới tự do lưu chuyển đầu tư.
Nội dung cơ bản của thoả thuận về khu vực đầu tư ASEAN gồm:


11

- Các nước tham gia Hiệp định cam kết thực hiện các chương trình hợp tác
nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước trong và ngồi ASEAN, đó là ba chương
trình: Chương trình Hợp tác và hỗ trợ; Chương trình Xúc tiến và tăng cường
hiểu biết và Chương trình tự do hố.
- Các nước tham gia Hiệp định cam kết dành chế độ đối xử quốc gia và
mở cửa đầu tư tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010
và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. Ngoại trừ các ngoại lệ được quy
định trong Hiệp định này.
- Xác định khu vực đầu tư ASEAN là khu vực hợp tác đầu tư và hoạt động
có liên quan trong ASEAN; mục đích của AIA là tạo lưu chuyển tự do hơn về
vốn, lao động lành nghề, chuyên gia và công nghệ giữa các nước thành viên.
Những nguyên tắc của khu vực đầu tư ASEAN ghi trong Hiệp định AIA,
gồm: Nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, ngun tắc có đi có lại, nguyên tắc
đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia. Điều 7 của Hiệp định đã ghi:
“Các nước ASEAN cam kết dành ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN sự

đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư
tương tự của nước mình”. Khoản 2 Điều 7 của Hiệp định cho phép các quốc gia
thành viên đưa ra một danh mục loại trừ tạm thời và một danh mục nhạy cảm
đối với bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp nào có tác động đến đầu tư mà quốc
gia đó khơng thể mở cửa hoặc đối xử quốc gia.
Hiệp định khung khu vực ASEAN là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư nội bộ và ngoài ASEAN, làm gia tăng dịng
vốn, cơng nghệ, chun gia, cơng nhân kỹ thuật giữa các nước trong Hiệp hội.
Với việc triển khai hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN, nhất định luồng
đầu tư vào ASEAN sẽ được tăng cường, mơi trường đầu tư sẽ trở nên thơng
thống hơn, hấp dẫn hơn, đồng thời cũng đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi quốc gia
trong cải cách để có thể thực hiện đầy đủ và đúng đắn Hiệp định. Đây là nhiệm
vụ quan trọng đối với Việt Nam trong việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật về đầu tư trong giai đoạn hiện nay.


12

1.3.2. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ 2000
Hiệp định giữa nước CHXHCN. Việt Nam với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
về quan hệ thương mại (gọi tắt là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ,
viết tắt theo tiếng Anh là: BTA) là hiệp định có mức độ cam kết cao nhất mà
Việt Nam đã ký kết trên trường quốc tế bởi vì nó được đàm phán và ký kết trên
cơ sở các nguyên tắc cơ bản của WTO và những đòi hỏi khắt khe nhất của một
cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Phát triển quan hệ đầu tư là một trong
những nội dung quan trọng của Hiệp định này, được thể hiện trong toàn bộ
chương IV cùng một số phụ lục và điều khoản khác của Hiệp định.
Thông qua Hiệp định này, Việt Nam cam kết từng bước dành quy chế đối
xử quốc gia cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong một số lĩnh vực; loại bỏ một số

quy định của pháp luật hiện hành khơng cịn phù hợp với hiệp định; bỏ ngay quy
định về cân đối xuất nhập khẩu và quy định về quản lý ngoại hối đối với hàng
nhập khẩu; cho phép các nhà đầu tư Hoa Kỳ thành lập DN liên doanh hoặc DN
100% vốn của mình để kinh doanh xuất nhập khẩu tất cả các hàng hoá; xoá bỏ
dần hạn chế tiếp cận thị trường của nhà đầu tư trong 7 ngành dịch vụ: Dịch vụ
chuyên ngành (pháp lý, kiểm toán, kế toán, kiến trúc tư vấn kỹ thuật, vi tính,
quảng cáo, thăm dị thị trường), dịch vụ thông tin liên lạc (viễn thông giá trị gia
tăng, viễn thông cơ bản, điện thoại cố định, dịch vụ nghe nhìn), dịch vụ xây
dựng, dịch vụ phân phối (bán buôn, bán lẻ), dịch vụ giáo dục, dịch vụ tài chính
(bảo hiểm ngân hàng) và dịch vụ y tế. Các nhà đầu tư Mỹ được góp vốn hoặc
tăng vốn tái đầu tư bằng tiền Việt Nam thu được từ hoạt động kinh doanh hợp
pháp.
Về phía Hoa Kỳ, Hoa Kỳ cũng cam kết dành cho các nhà đầu tư Việt Nam
sự đối xử không kém thuận lợi hơn so với nước thứ ba về đầu tư. Hoa Kỳ cũng
sẽ dành cho các nhà đầu tư Việt Nam bất kỳ sự ưu đãi nào cao hơn các nguyên
tắc đối xử nói trên được quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành, các hiệp
định quốc tế hoặc thoả thuận cụ thể với nhà đầu tư.


13

Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, việc phê
chuẩn và thực hiện Hiệp định BTA là một yếu tố quan trọng trong cải thiện môi
trường đầu tư. Các DN Việt Nam sẽ có cơ hội thuận lợi trong việc xâm nhập thị
thường Mỹ, một thị trường lớn nhất thế giới về nhu cầu đa dạng các chủng loại
hàng hố. Chính vì vậy, đây có thể coi là nhân tố làm gia tăng luồng FDI vào
Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, nhân tố này cũng địi hỏi phải có sự
tương thích của cải cách trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
1.3.3. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngồi
trong khn khổ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)

Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO - một tổ chức kinh tế
quốc tế có quy mơ tồn cầu, điều chỉnh hơn 90% các hoạt động thương mại thế
giới. Trở thành thành viên của tổ chức này giúp Việt Nam đánh dấu một bước
ngoặt lịch sử, lịch sử của sự hội nhập thực sự, toàn diện và đầy đủ vào nền kinh
tế thế giới, tránh được những bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, đầu tư
quốc tế và có cơ hội tạo lập được thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ rộng
lớn, tranh thủ được vốn và công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến nhằm thực
hiện mục tiêu phát triển kinh tế nhanh chóng và bền vững… Tổ chức này có một
số yêu cầu có liên quan đến FDI là:
1. Các nước muốn gia nhập WTO phải đảm bảo trong tương lai mức thuế
nhập khẩu không cao hơn mức thuế đã cam kết;
2. Chỉ được bảo hộ bằng thuế, không được bảo hộ bằng các biện pháp phi
thuế quan;
3. Phải áp dụng quy chế tối huệ quốc cho tất cả các nước;
4. Bảo đảm thiết lập môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng cho các DN,
khơng phân biệt hàng trong nước sản xuất với hàng nhập khẩu…
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 07/NQ-TW, ngày 27 tháng
11 năm 2001 về hội nhập kinh tế quốc tế, khẳng định một nhiệm vụ quan trọng


14

của nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “Đổi mới mọi mặt hoạt động kinh tế ở
trong nước... ” và tăng cường hợp tác quốc tế.
Trong xu thế chung của khu vực hố, tồn cầu hố nền kinh tế thế giới thì
Việt Nam đang ở trong thế yếu so với nhiều nước. Muốn tránh “tụt hậu” ngày
càng xa thì phải có bước đi thích hợp để vươn lên, phải “đi tắt, đón đầu”, giành
thế chủ động trong hợp tác kinh tế quốc tế, hợp tác đầu tư, tránh bị động, phụ
thuộc một chiều. Chính sách, cơ chế về ĐTNN phải vừa thu hút mạnh mẽ các

nguồn vốn nước ngoài vừa phải bảo hộ đúng mức sản xuất trong nước. Phải sử
dụng ĐTNN như là một địn bẩy kích thích nội lực, bảo đảm sự phát triển lâu
bền của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong mọi hoàn cảnh, cần quán triệt chủ trương
của Đảng ta trong đầu tư phát triển đất nước là: “Nội lực là quyết định, ngoại
lực là quan trọng”.
1.3.4. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngồi
trong khn khổ các cam kết của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương (APEC)
Đại hội Đảng lần thứ IX nhận định: Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là khu
vực phát triển năng động, Trung Quốc có vai trị ngày càng lớn. Sau khủng
hoảng tài chính - kinh tế, nhiều nước ASEAN và Đông Á đang khôi phục đà
phát triển với khả năng cạnh tranh mới. Trung Quốc đã thực sự trở thành nền
kinh tế lớn trên thế giới. Tình hình đó tạo thuận lợi cho chúng ta trong hợp tác
phát triển kinh tế, đồng thời cũng gia tăng sức ép cạnh tranh cả trong và ngoài
khu vực. Từ tháng 11 năm 1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương (Asian Pacific Economic Cooperation - APEC)
gồm các nước và lãnh thổ thuộc Châu Á, Châu Mỹ, Châu Âu và Châu Đại
Dương ở ven bờ Thái Bình Dương. “APEC là một diễn đàn đối thoại, không
phải là một tổ chức. Do vậy, xét về tổng thể những cam kết trong khuôn khổ
APEC khơng có tính ràng buộc cao như trong ASEAN và WTO”. Các cam kết
trong APEC không bị ràng buộc như đối với các cam kết trong ASEAN và
WTO bởi vì Chương trình hành động quốc gia là mang tính tự nguyện, đơn


15

phương. Tuy nhiên, chương trình này vẫn chịu sự rà soát của APEC nhằm thúc
đẩy tự do hoá. Các chương trình hành động đó được đề ra theo 9 ngun tắc cơ
bản là: 1) Toàn diện; 2) Nhất quán; 3) Đối thoại và bình đẳng; 4) Khơng phân
biệt đối xử; 5) Minh bạch; 6) Giảm bảo hộ; 7) Cùng bắt đầu và liên tục hội nhập;

8) Linh hoạt; 9) Hợp tác.
Hiện nay chúng ta đang cùng với các nước APEC thực hiện chương trình
hành động quốc gia, trong đó hình thành các cam kết trên 15 lĩnh vực về thuế,
phi thuế, dịch vụ, đầu tư… Đối với nước ta, thời hạn thực hiện đầy đủ các cam
kết về tự do hố thương mại, đầu tư trong APEC là năm 2020.
Ngồi ra, Việt Nam cũng là thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu
(Asia Europe Meeting – ASEM) gồm 10 nước Châu Á và 15 nước Châu Âu (từ
tháng 03 năm 1996) với nhiều thoả thuận nhằm hướng tới viễn cảnh ASEM
2020, trong đó có một nội dung quan trọng là tự do hoá thương mại và đầu tư
liên châu lục. Theo dự kiến, rất có thể diễn đàn này sẽ phát triển thành một tổ
chức liên châu lục nhằm hợp tác phát triển hai khu vực giàu tiềm năng này của
thế giới.
Việt Nam là thành viên của tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên MIGA
(Multilateral Investment Guarantee Agency - MIGA). MIGA là một tổ chức
thuộc Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB). Tổ chức MIGA là cơ quan bảo
đảm đầu tư của các nhà ĐTNN về rủi ro phi thương mại, rủi ro chiến tranh, quốc
hữu hoá… do các nước tiếp nhận đầu tư gây ra bằng việc bán sở hữu, thu phí đối
với nhà đầu tư. Tổ chức MIGA giúp các thành viên trong việc hình thành và
hồn thiện chính sách, pháp luật về đầu tư, đồng thời giới thiệu tiềm năng của
các quốc gia thành viên. Tổ chức này cũng thực hiện các chương trình trợ giúp
kĩ thuật, tư vấn đào tạo tại chỗ về đầu tư. Nhờ việc tham gia tổ chức MIGA, Việt
Nam có thêm khả năng thực hiện các dự án tại vùng đang có tranh chấp về lãnh
hải. Bởi vậy, các nhà đầu tư được MIGA chấp nhận bảo hiểm sẽ yên tâm đầu tư
vào vùng đang tranh chấp như xung quanh quần đảo Trường Sa … Việt Nam
cũng là thành viên của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham


16

gia như: Công ước Paris năm 1883 về quyền sở hữu công nghiệp, Thoả ước

Madrid 1881 về nhãn hiệu hàng hoá …
Rõ ràng, những điểm mốc quan trọng về mở cửa của kinh tế và tự do hoá
thương mại, đầu tư đối với nước ta đã và đang mở ra trước mắt với các cam kết
về sửa đổi hệ thống pháp luật nhằm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ 2000, và với các cam kết thực hiện đầy đủ AFTA vào năm 2006, hồn
thành lộ trình cắt giảm thuế quan CEPT, 2010, 2013, 2020 với cam kết thực hiện
Hiệp định về khu vực đầu tư ASEAN và những cam kết khác đối với nhiều mặt,
đặc biệt nhất và quan trọng nhất là cam kết sửa đổi hệ thống nội luật để phù hợp
với các quy định và yêu cầu của WTO. Trong đó, phải coi việc hồn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật về đầu tư nói riêng là nhiệm vụ bức xúc
thì mới có thể thực hiện được đầy đủ các cam kết quốc tế.
Một kết quả nghiên cứu của Bộ Tư pháp cho thấy, nếu lấy tiêu chí là các
cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ để rà soát các văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam thì: “Có gần 150 văn bản quy phạm pháp
luật đã bị các cam kết song phương đó tác động đến một cách mạnh mẽ”. Trong
đó, Bộ Tư pháp đó đề nghị sửa đổi, bổ sung cho hồn thiện là 24 văn bản (8
Luật, 3 Pháp lệnh, 12 Nghị định, 1 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ). Ngồi
ra, Bộ Tư pháp cũng kiến nghị ban hành mới 39 văn bản (8 Luật, 11 Pháp lệnh,
20 Nghị định) để thi hành Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Đó là chưa
kể đến một số lượng khơng nhỏ các Điều ước quốc tế cần phải tham gia trong
quá trình hội nhập quốc tế. Theo ý kiến của một số chuyên gia quốc tế, những gì
ta phải làm để thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ… mới chỉ đáp
ứng được ở mức độ tương đối số công việc mà Việt Nam cần làm để thực thi
nghĩa vụ của một thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Như vậy, rõ ràng đất nước ta đang có thời cơ và vận hội mới để thu hút
FDI với quy mô lớn hơn, chất lượng cao hơn, phục vụ cho mục tiêu cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Trong bối cảnh đó, với sự tác động của các chế định
pháp lý quốc tế, với những đòi hỏi của các thoả thuận song phương và đa


17


phương đã cam kết, pháp luật về đầu tư nói chung và pháp luật về FDI nói riêng
của Việt Nam cần phải được tiếp tục sửa đổi, bổ sung những điểm cịn thiết sót
bất cập để hồn thiện hơn nữa mới có thể đáp ứng được những địi hỏi của thực
tiễn hoạt động hợp tác và đầu tư, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ và đáp ứng
yêu cầu của giai đoạn phát triển mới là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” để
phát triển nền kinh tế đất nước.
1.3.5. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong một số Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ
Việt Nam và nước ngồi
Mặc dù khơng thể hiện trực tiếp nội dung hội nhập kinh tế quốc tế nhưng
hệ thống các Hiệp định khuyến khích và Bảo hộ đầu tư được ký kết giữa Chính
phủ Việt Nam và Chính phủ các nước là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ
thống pháp luật về FDI tại Việt Nam. Nhằm khuyến khích hơn đầu tư nước
ngồi vào Việt Nam cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập đầu
tư, tận dụng được các ưu thế về đầu tư nước ngồi, Việt Nam đã tích cực đàm
phán, ký kết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương với
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt kể từ sau khi Nhà nước ban hành Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam lần đầu tiên năm 1987 và mạnh mẽ hơn từ năm 1995
và những năm gần đây. Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết trên dưới 50 Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương với các quốc gia và vùng lãnh thổ.
Việc ký kết các Hiệp định này không những khai thông quan hệ hợp tác đầu tư
với các nước ký kết mà còn khẳng định sự phát triển của quan hệ hợp tác kinh tế
giữa Việt Nam và các nước lên một tầm cao mới, cũng như tạo tiền đề cho
những quan hệ hợp tác kinh tế khác trong các khuôn khổ hợp tác đa phương
ngày một phát triển thuận lợi. Các Hiệp định song phương về khuyến khích và
bảo hộ đầu tư mà ta đã ký kết thường có các nội dung, cam kết chủ yếu như sau:
(1) Định nghĩa: Các khái niệm về đầu tư, công dân, công ty của nước ký
kết;



18

(2) Chế độ đối xử: Phần này tập trung chủ yếu thể hiện cam kết của hai
bên sẽ đối xử với đầu tư của công dân hoặc công ty của bên ký kết kia theo
nguyên tắc đối xử tối huệ quốc hay đối xử quốc gia. Trong số các Hiệp định đã
ký kết, Việt Nam chỉ cam kết dành MFN cho đầu tư của công dân, công ty của
nước đối tác - một nguyên tắc đã được quy định từ trước khi ban hành Luật Đầu
tư năm 2005 (Điều 20 Luật đầu tư nước ngoài). Mặt khác, phù hợp với thông lệ
quốc tế, Việt Nam bảo lưu các ưu đãi dành cho nhà đầu tư của nước thứ ba trong
khuôn khổ Liên minh thuế quan, Hiệp định kinh tế khu vực…Về đối xử quốc
gia, trong tất cả các Hiệp định đã ký kết, Việt Nam không thừa nhận nguyên tắc
đối xử này hoặc chỉ cam kết thực hiện trên cơ sở “phù hợp với pháp luật của
mình”;
(3) Các đảm bảo về việc được phép chuyển vốn đầu tư và thu nhập hợp pháp
có được từ đầu tư tại Việt Nam về nước. Các quy định này xác định quyền của nhà
đầu tư của các bên ký kết được tự do chuyển vốn đầu tư và thu nhập hợp pháp thu
được từ đầu tư về nước. Mọi biện pháp tiến hành nhằm hạn chế quyền này đều bị
coi là vi phạm Hiệp định. Các quy định này thường tập trung vào cơ chế đảm bảo
thực hiện quyền nói trên và đồng tiền được sử dụng trong quá trình chuyển vốn và
lãi đầu tư ra khỏi nước ký kết. Các cam kết của Hiệp định cũng không hạn chế
quyền của nước tiếp nhận đầu tư trong việc đánh một khoản thuế trên số lợi nhuận
chuyển ra nước ngồi, nếu khơng có quy định nào khác trong Hiệp định về tránh
đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và nước ký kết kia;
(4) Các quy định về quốc hữu hóa, trưng thu trưng dụng và bồi thường:
Việt Nam cam kết trong các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song
phương việc khơng quốc hữu hóa đầu tư và các tài sản của nhà đầu tư của bên
ký kết kia trên lãnh thổ Việt Nam. Trong trường hợp buộc phải trưng thu, trưng
dụng một phần hoặc toàn bộ những tài sản này là vì lợi ích cơng cộng, vì lý do
an ninh quốc phòng Nhà nước CHXHCN Việt Nam sẽ bồi thường một cách thỏa

đáng cho nhà đầu tư nước ngoài. Trong một số Hiệp định đã ký kết, Nhà nước ta
còn cụ thể hóa một số những trường hợp, các biện pháp cản trở hoặc làm ảnh


19

hưởng đến quyền tài sản của nhà đầu tư nước ngồi cũng bị coi là quốc hữu hóa
và cũng phải bồi thường. Ví dụ: Việc thay đổi chính sách dẫn đến tổn hại về tài
sản hoặc ảnh hưởng đến quyền định đoạt đối với đầu tư của nhà đầu tư nước
ngồi thì Nhà nước ta cũng phải có biện pháp bồi thường thỏa đáng;
(5) Các biện pháp bảo đảm đầu tư khác: Các bên đưa vào mục này những
biện pháp bảo đảm đầu tư khác tùy theo thỏa thuận và khả năng của các bên;
(6) Các quy định về Luật áp dụng và giải quyết tranh chấp: Đối với tranh
chấp giữa các bên ký kết, ta thường thỏa thuận biện pháp sử dụng trọng tài
Adhoc. Đối với tranh chấp giữa Nhà nước với nhà đầu tư thì tùy theo tính chất
của tranh chấp mà lựa chọn hình thức giải quyết phù hợp. Nhà đầu tư có quyền
đưa vụ tranh chấp với cơ quan Nhà nước ra giải quyết tại Tòa hành chính, trọng
tài UNCITRAL, ICSID hoặc bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào đã thỏa
thuận trước đó.


20

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
2.1

THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP


BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1.1. Bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp
Bảo đảm quyền sở hữu về tài sản hợp pháp khác của nhà ĐTNN là đảm
bảo an toàn về tài sản cho nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt
Nam. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách bảo đảm
đầu tư của Việt Nam, là điều kiện tiền đề để nhà đầu tư tiến hành hoạt động đầu
tư. Đảm bảo này thông thường được quy định ở những điều khoản đầu tiên của
các đạo Luật về ĐTNN cũng như trong các Hiệp định đầu tư song phương hay
các hiệp định đa phương mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Ở Việt Nam,
việc bảo đảm về tài sản cho các nhà đầu tư đã trở thành một nguyên tắc Hiến
định được ghi nhận tại Điều 25 Hiến pháp 1992: "Nhà nước Cộng hoà xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và
các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngồi. DN có vốn đầu tư
nước ngồi khơng bị quốc hữu hóa". Tiếp đó, khoản 1 Điều 6 Luật Đầu tư năm
2005 cũng khẳng định lại điều này: “Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà
đầu tư không bị quốc hữu hóa, khơng bị tịch thu bằng biện pháp hành chính”.
Với quy định này, Nhà nước Việt Nam bảo đảm cho các nhà đầu tư có quyền sở
hữu đối với phần vốn và tài sản mà họ đã vào đầu tư, có quyền quyết định sử
dụng như thế nào để đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Điều 9 Luật Đầu tư năm
2005 còn quy định:
"Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam,
nhà ĐTNN được chuyển ra nước ngoài các khoản sau đây:
a) Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh;


21

b) Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí
tuệ;
c) Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài;

d) Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư;
đ) Các khoản tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư”
Và Khoản 2 Điều này cũng quy định: “Người nước ngoài làm việc tại Việt
Nam cho các dự án đầu tư được chuyển ra nước ngồi thu nhập hợp pháp của
mình sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chớnh i vi Nh nc Vit Nam.
Những quy định ó góp phần gián tiếp thể hiện việc bảo đảm quyền sở
hữu tài sản hợp pháp của các nhà đầu tư, iu ú s góp phần hoàn thiện hơn chế
định bo đảm quyền sở hữu đối với vốn và tài sản của nhà ĐTNN tại Việt Nam.
Như vậy, những quy định pháp luật nói trên đã thể hiện tư tưởng nhất
quán của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm cho các nhà ĐTNN về sở hữu
hợp pháp cho các nhà đầu tư và các quyền và lợi ích cá nhân khác. Điều này là
cần thiết và hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với xu thế bảo đảm
đầu tư chung của các nước.
2.1.2. Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư
Đây là một biện pháp bảo đảm hết sức quan trọng, mang tính nguyên tắc,
bao trùm lên các biện pháp khác. Thực tiễn cũng cho thấy, các nhà đầu tư đến từ
các quốc gia với các nền kinh tế khác nhau nên họ rất quan tâm đến việc Chính
phủ Việt Nam có bảo đảm đối xử công bằng và thỏa đáng với họ khơng, sự đối
xử đó sẽ tạo ra niềm tin và sự an tâm đối với nhà đầu tư và ngược lại.
Vấn đề dối xử công bằng và thỏa đáng đối với nhà ĐTNN tại Việt Nam đã
trở thành một chính sách nhất quán, xuyên suốt trong các đạo luật, cụ thể: Điều
22 Hiến pháp 1992 quy định về nguyên tắc bình đẳng trong kinh doanh: "Các cơ
sở sản xuất thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
đối với Nhà nước, đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp phá được
Nhà nước bảo hộ ".


22

Cụ thể hóa Hiến pháp 1992, Luật Đầu tư năm 2005 đó quy định tại khoản

2 Điều 4: “Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư
thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và ĐTNN; khuyến khích
và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư”. Hay cụ thể hơn tại Điều 10
cũng quy định: “Trong quá trình đầu tư tại Việt Nam, nhà đầu tư được áp dụng
thống nhất giá, phí, lệ phí đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước kiểm sốt”.
Chính sách này cũng được gián tiếp qua các quy định của Nghị định
108/2006/NĐ-CP. Theo Điều 3 của Nghị định 108, “trong trường hợp Điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác với quy định tại Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật
khác thì áp dụng theo quy định của Điều ước quốc tế đó ". Qua đó, ta có thể hiểu:
Bảo đảm đối xử cơng bằng và thỏa đáng nghĩa là mọi nhà ĐTNN khi tiến hành
hoạt động đầu tư tại Việt Nam đều được đối xử một cách bình đẳng trước pháp luật
Việt Nam. Họ đều được hưởng các quyền lợi và phải gánh chịu các nghĩa vụ pháp
lý mà khơng có sự phân biệt bởi lý do chính trị, kinh tế, văn hóa… hay bất kỳ một
lý do nào khác (trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham
gia có quy định khác thì sẽ thực hiện theo các cam kết được ghi nhận trong các hiệp
định đó. Đây là một nguyên tắc quốc tế được hầu hết các quốc gia tn thủ). Các
nhà đầu tư cịn có cơ hội ngang nhau trong việc lựa chọn các phương thức, hình
thức đầu tư, lĩnh vực dự án, cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được chuyển
lợi nhuận ra nước ngồi… Bên cạnh đó xuất phát từ lý do độc lập chủ quyền, an
ninh quốc phịng, lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế bền vững… nên vẫn có những
ngoại lệ riêng trong đối xử với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, về cơ
bản, pháp luật đầu tư của Việt Nam đó hồn thiện theo hướng nhất thể hóa tạo ra
một khung pháp lý thống nhất cho cả đầu tư trong nước và ngoài nước nhằm xây
dựng một sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Tóm lại, đây là một trong những biện pháp bảo đảm cơ bản và cần thiết
cho hoạt động đầu tư. Nếu thực hiện tốt các nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh,
không phân biệt đối xử trong nội dung của biện pháp này sẽ làm cho các nhà đầu



23

tư tin tưởng vào chính sách pháp luật của Việt Nam, đồng thời phát huy tối đa
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư tại Việt Nam, góp phần thúc
đẩy sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
2.1.3. Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Tranh chấp phát sinh trong kinh doanh là do nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan. Đối với các nước tiếp nhận đầu tư cần phải có những biện pháp
bảo đảm giải quyết tranh chấp trong đầu tư một cách thỏa đáng, sao cho vừa bảo
vệ quyền lợi chính đáng của các bên đồng thời tạo điều kiện cho các nhà đầu tư
yên tâm thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện điều này, cần
phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp linh hoạt, đảm bảo lợi ích các bên chủ
thể sẽ là yếu tố thúc đẩy việc thu hút FDI trên cơ sở pháp lý là các văn bản pháp
luật và các tài liệu pháp lý khác như: Giấy phép đầu tư, hợp đồng, điều lệ DN…
Điều 12 Luật Đầu tư năm 2005 quy định rõ: “Tranh chấp liên quan đến
hoạt động đầu tư tại Việt Nam được giải quyết thơng qua thương lượng, hồ
giải, Trọng tài hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật”. Theo quy định này
các nhà đầu tư có thể lựa chọn những cách thức khác nhau, tạo ra sự chủ động
và công bằng cho nhà đầu tư khi có tranh chấp xảy ra. Đây là cách thức giải
quyết tranh chấp luôn được đặt ra trước tiên do tính linh hoạt, mềm dẻo và phổ
biến của nó, vừa đỡ mất thời gian và tiền bạc, vừa đảm bảo được bí mật trong
kinh doanh. Sự khác biệt của chủ thể tranh chấp cũng dẫn đến sự khác biệt về cơ
quan giải quyết tranh chấp. Cụ thể khoản 2, 3, 4 Điều 12 quy định:
“Tranh chấp mà một bên là nhà ĐTNN hoặc DN có vốn ĐTNN hoặc
tranh chấp giữa các nhà ĐTNN với nhau được giải quyết thông qua một trong
những cơ quan, tổ chức sau đây:
- Toà án Việt Nam;
- Trọng tài Việt Nam;
- Trọng tài nước ngoài;

- Trọng tài quốc tế;


24

- Trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập”.
Ngoài ra, “tranh chấp giữa nhà ĐTNN với cơ quan quản lý nhà nước Việt
Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết
thơng qua Trọng tài hoặc Tồ án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
trong hợp đồng được ký giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà
ĐTNN hoặc trong Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên”.
Những quy định trên đã tạo nên một cơ chế giải quyết khá hợp lý và thống
nhất trong đầu tư, tạo sự tin tưởng cho các bên đương sự về một cơ chế giải
quyết tranh chấp thỏa đáng của pháp luật Việt Nam khi xảy ra tranh chấp.
2.1.4. Bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà
đầu tư ra nước ngoài
Bất kỳ một nhà đầu tư nào khi thực hiện đầu tư vào một nền kinh tế khác
đều đặt ra yêu cầu là phải được chuyển vốn, lợi nhuận và các tài sản hợp pháp
khác của mình ra nước ngoài một cách thuận tiện. Đây là nhu cầu tất yếu nhằm
đảm bảo cho việc chu chuyển vốn vì mục đích tái đầu tư hoặc mục đích khác
của nhà đầu tư nước ngoài. Ở Việt Nam, biện pháp bảo đảm này đã xuất hiện từ
Luật ĐTNN 1987, được hoàn thiện ở Luật ĐTNN 1996 và được kế thừa tại Luật
ĐTNN 2000 và được hoàn thiện ở Luật đầu tư năm 2005. Cụ thể, khoản 1 Điều
9 Luật Đầu tư năm 2005 quy định các nhà ĐTNN đầu tư vào Việt Nam được
chuyển ra nước ngoài:
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh;
- Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí tuệ;
- Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài;
- Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư;

- Các khoản tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư.
Ngoµi ra, khoản 2 Điều 9 Lut u t nm 2005 cng quy định: "Ngi
nc ngoài làm việc tại Việt Nam cho các dự án đầu tư được chuyển ra nước
ngoài thu nhập hợp pháp của mình sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài


25

chính đối với Nhà nước Việt Nam”. Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với
tinh thần chung của pháp luật đầu tư Việt Nam, tạo sự thơng thống thu hút đầu
tư, đồng thời thu hút lao động nước ngồi làm những cơng việc địi hỏi trình độ
kĩ thuật, công nghệ, quản lý cao mà Việt Nam chưa đáp ứng được.
Tóm lại, với các quy định pháp luật về bảo đảm cho nhà ĐTNN chuyển
vốn, lợi nhuận và các tài sản hợp pháp khác ra nước ngồi khơng những tạo điều
kiện cho nhà ĐTNN linh hoạt trong việc chu chuyển vốn mà còn là một bảo đảm
pháp lý quan trọng để nhà đầu tư quyết định đầu tư vào Việt Nam.
2.1.5. Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi về chính
sách pháp luật
Có thể khẳng định rằng, Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị Định
108/2006/NĐ-CP của Chính phủ đã thể hiện một bước tiến bộ trong chính sách
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi. Luật sử dụng ngun tắc khơng hồi tố để
đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Điều 11 Luật Đầu tư năm 2005 quy định:
“Bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, chính sách” như
sa:;
1. Trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi
và ưu đãi cao hơn so với quyền lợi, ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước
đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu đãi theo quy định mới kể từ
ngày pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực.
2. Trường hợp pháp luật, chính sách mới ban hành làm ảnh hưởng bất
lợi đến lợi ích hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi quy định của

pháp luật, chính sách đó có hiệu lực thì nhà đầu tư được bảo đảm hưởng các ưu
đãi như quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một,
một số hoặc các biện pháp sau đây:
- Tiếp tục hưởng các quyền lợi, ưu đãi;
- Được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế;
- Được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án;
- Được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết.”


×