Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc độ PLCT ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.57 KB, 67 trang )

1

Nguyễn Thị Dung

Kinh tế 29G

LỜI NÓI ĐẦU
Theo đánh giá của các chuyên gia, phương thức kinh doanh thông qua mô
hình NQTM là một cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất
là những doanh nghiệp có tham vọng song chưa đủ sức tấn công vào các thị
trường lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu. Mô hình NQTM sẽ giúp họ xâm nhập một
cách gián tiếp vào các thị trường này với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, trở ngại
đối với các doanh nghiệp này chính là từ trước tới nay, do mô hình NQTM
không xuất hiện nhiều tại Việt Nam, nên phần lớn là các doanh nghiệp sẽ phải tự
mò mẫm học hỏi và vì vậy, họ rất dễ trở thành nạn nhân của mặt trái của mô
hình này như bị “nhái” nhãn hiệu, hoặc để bảo vệ quyền sở hữu đối với các bí
mật kinh doanh của mình mà có những quy định trong hợp đồng NQTM vi
phạm PLCT của các quốc gia khác mà doanh nghiệp có hoạt động nhượng
quyền. Chính vì thế mà ngoài việc quan tâm đến phẩm chất đạo đức của các đối
tượng mà mình trao quyền, các doanh nghiệp cần rất thận trọng trong khâu làm
hợp đồng để tránh những sai phạm không đáng có, tránh “tầm” điều chỉnh của
PLCT của các quốc gia này. Với mong muốn tìm hiểu hành lang pháp lý cho
hoạt động NQTM, mà đặc biệt là các quy định pháp luật về NQTM nhưng có
liên quan đến các lĩnh vực luật khác, trong đó bao gồm Luật cạnh tranh, em đã
quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc
độ PLCT ở Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Ngoài lời nói đầu,
kết luận, khoá luận gồm có 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về hoạt động NQTM và pháp luật về NQTM.
- Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM dưới góc độ
PLCT.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về


NQTM dưới góc độ PLCT.


Nguyễn Thị Dung

2

Kinh tế 29G

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM VÀ PHÁP LUẬT VỀ
NQTM
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NQTM
1.1.1. Khái lược về lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động NQTM
trên thế giới
Trong những năm qua NQTM (Franchise) đã phát triển rất mạnh mẽ trên
thế giới, nhưng đối với Việt Nam thì đây vẫn là một khái niệm còn nhiều xa lạ.
Đi tìm nguồn gốc của hoạt động này có nhiều ý kiến khác nhau trong đó
quan điểm cho rằng hoạt động NQTM bắt đầu xuất hiện từ nước Mỹ vào khoảng
những năm 1850 có lẽ là phổ biến hơn cả [11]. Sự phát triển của NQTM tăng tốc
trong những năm 30 của thế kỷ XX, khi bắt đầu tiến hành nhượng quyền các
loại hình khách sạn bên đường quốc lộ dành cho khách đi ôtô. Những năm 50
của thế kỷ XX chứng kiến sự bùng nổ của hệ thống nhượng quyền cùng với sự
phát triển của hệ thống đường cao tốc nối liền các tiểu bang của Hoa Kỳ. Hệ
thống các nhà hàng ăn nhanh, quán ăn rẻ tiền và khách sạn bên đường quốc lộ
đua nhau mọc lên. Năm 2000, NQTM chiếm khoảng 40% doanh thu bán lẻ của
Hoa Kỳ [32]. Chỉ đến những năm 1980 hoạt động NQTM sau đó mới lan rộng
và diễn ra một cách mạnh mẽ ở các nước khác [11], sở dĩ là vì lúc này các nước
mới phát hiện được tiềm năng đem lại lợi nhuận cao của lĩnh vực này.
Sự phát triển ồ ạt của NQTM đã dẫn tới sự ra đời của Hiệp hội Nhượng

quyền quốc tế IFA (International Franchise Association) vào năm 1960, Ủy ban
Franchise thế giới (World Franchise Council – WFC) năm 1994. Sự ra đời của
IFA, WFC đã tạo điều kiện cho việc phát triển NQTM dần trở thành hệ thống và
ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Bởi vậy mà hiện nay kinh doanh theo
phương thức NQTM đã có mặt tại hầu hết các châu lục, trong rất nhiều ngành
nghề. Theo số liệu của phòng thương mại Mỹ thì từ năm 1974 đến năm 2005


Nguyễn Thị Dung

3

Kinh tế 29G

trung bình chỉ có 5% số doanh nghiệp hình thành theo mô hình nhượng quyền
kinh doanh tại Mỹ là thất bại, trong khi con số này là 30-65% cho các doanh
nghiệp không theo mô hình nhượng quyền. Sự phát triển của hình thức kinh
doanh này còn thể hiện ở ngay việc trong năm 2005 có tới 12/52 tiểu bang của
Mỹ đều có luật bắt buộc bất kỳ công ty nào muốn tham gia vào thị trường chứng
khoán đều phải có đăng ký nhượng quyền. Những cái tên không hề xa lạ như
California, New York, Washington,…là một trong số đó [12]. Hiện tại hoạt
động NQTM diễn ra phổ biến tại Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và đang có phần
gia tăng ở các nước đang phát triển [4]. Ở Việt Nam, cà phê Trung Nguyên, Phở
24, bánh ngọt Kinh Đô, hãng thời trang Foci (công ty dệt may Nguyên Tâm),
Công ty cổ phần kiến trúc xây dựng Nhà Vui,… là những ví dụ về các doanh
nghiệp thực hiện hoạt động NQTM [14]. Tính đến thời điểm năm 2004, Việt
Nam có khoảng 70 thương hiệu áp dụng NQTM, với tốc độ tăng trưởng ước tính
15% - 20% / năm [42].
Tại Mỹ, lúc đầu NQTM được coi là những thoả thuận giữa các nhà sản
xuất, những tổ chức dịch vụ với những nhà kinh doanh độc lập khác liên quan

đến việc phân phối sản phẩm – chính là hình thức nhượng quyền phân phối sản
phẩm sau này. Trong hình thức này BNhQ chỉ được sử dụng nhãn hàng hoá của
BNQ. Ví dụ cho trường hợp này là Coca-Cola, hãng này đã thực hiện bán
Franchising lần đầu tiên cho nhà máy sản xuất vỏ chai là Georgia vào năm 1901.
Phân phối theo hình thức này, Coca-Cola đã giảm được đáng kể chi phí vận tải,
bởi thay vì vận chuyển nguyên cả chai, giờ đây Coca-Cola chỉ việc vận chuyển
nước ngọt trong các thùng lớn, khâu đóng chai sẽ được thực hiện ngay tại cơ sở
sản xuất vỏ chai, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Coca-Cola. Việc này có thể
đảm bảo Coca-Cola không phải tiết lộ bí quyết kinh doanh của mình, bởi
nhượng quyền theo hình thức này Coca-Cola vẫn sẽ là nhà sản xuất, sản phẩm
sau đó được vận chuyển trong các thùng lớn đi các nơi, đến nơi nó sẽ được đóng
vào các chai nhỏ.


Nguyễn Thị Dung

4

Kinh tế 29G

Sau một thời gian tồn tại, NQTM tại Mỹ phát triển thêm một hình thái
mới đó là NQTM đối với phương thức kinh doanh. Ở hình thức này, BNQ kèm
theo việc chia sẻ quyền kinh doanh nhãn hiệu, sẽ phải chia sẻ thêm cách thức
kinh doanh thông qua việc thiết lập tài liệu hướng dẫn, đào tạo kỹ thuật, nhân
viên, hỗ trợ việc chọn mặt bằng,…Chính vì việc chia sẻ quá nhiều điều cho
BNhQ mà BNQ phải kiểm soát rất chặt chẽ hoạt động của BNhQ để bảo đảm
được uy tín, sự tồn tại của cả hệ thống kinh doanh. Hình thức nhượng quyền này
hiện nay là phổ biến, có thể tìm thấy rất nhiều ví dụ như McDonald’s, KFC,…
Như vậy ở Mỹ, NQTM có thể diễn ra dưới hai hình thức: (i) NQTM trọn gói hay
NQTM cả một hình thức kinh doanh và (ii) NQTM sản phẩm. Còn ở Châu Âu,

trong án lệ Propuptia, toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) đã phân biệt ba hình thức
NQTM, đó là NQTM dịch vụ, NQTM sản xuất và NQTM phân phối [33].
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động NQTM
a. Khái niệm NQTM
Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp cổ là “Franc” có nghĩa là đặc quyền
hay tự do [12]. Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của NQTM thì
nhiều định nghĩa cũng được đưa ra. Nhưng do sự khác nhau về chế độ kinh tế,
chính trị cũng như xã hội của mỗi một quốc gia mà mỗi định nghĩa được đưa ra
lại có khía cạnh đặc trưng riêng.
Theo thông lệ quốc tế, NQTM được coi là một hoạt động thương mại,
trong đó BNQ (franchisor) sẽ chuyển mô hình kinh doanh, nhãn hiệu hàng
hoá/dịch vụ, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo cho BNhQ
(franchisee). BNhQ sau khi ký hợp đồng nhượng quyền được phép khai thác
kinh doanh trên một không gian địa lý nhất định và phải trả một khoản phí
nhượng quyền và tỷ lệ phần trăm doanh thu định kỳ cho BNQ trong một khoảng
thời gian nhất định. Đây là một hình thức để BNQ khai thác được lợi ích tài
chính từ chính bí quyết kinh doanh của mình mà không phải đầu tư thêm vốn.
Ngoài ra, hình thức này cũng tạo cơ hội cho các thương nhân không có đủ kinh


Nguyễn Thị Dung

5

Kinh tế 29G

nghiệm cần thiết để tiếp cận được với các phương thức kinh doanh mà đúng ra
họ phải nỗ lực vượt bậc mới có được, và cũng tạo cơ hội cho họ được hưởng lợi
từ chính tên thương mại, uy tín của BNQ.
Theo quan điểm của pháp luật Hoa Kỳ và các nước công nghiệp phát triển

thì hoạt động franchising thực chất là hoạt động chuyển giao quyền kinh doanh
(quyền thương mại) gắn liền với quyền SHTT, bao gồm cả quảng cáo, tiêu
chuẩn hàng hoá, đào tạo người lao động, khuyến mại v.v…
Việt Nam là một nước tiếp cận với hoạt động NQTM được coi là muộn,
nên trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước kết hợp với tình hình thực tế
của hoạt động này ở Việt Nam, lần đầu tiên Luật thương mại 2005 đã đưa ra
định nghĩa về NQTM tại Điều 284 và có quy định cụ thể về NQTM tại Mục 8
Chương VI từ các điều 284 đến điều 291. Tuy nhiên, thực ra NQTM đã xuất
hiện tại Việt Nam từ đầu thập niên 90 và thuật ngữ này lần đầu được đề cập đến
trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua khái niệm “cấp phép đặc quyền kinh
doanh” tại Thông tư số 1254/1999 của Bộ KHCN&MT. Tại Nghị định số
11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ (sửa đổi) quy định
chi tiết thi hành Chương III Phần VI Bộ luật Dân sự 1995 chính thức thừa nhận
hoạt động “cấp phép đặc quyền kinh doanh”- một dạng hoạt động NQTM, là
một trong những hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị
định số 11/2005, “cấp phép đặc quyền kinh doanh” là hoạt động theo đó: “ bên
nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên giao để
tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương mại”. Còn theo
Luật thương mại 2005, NQTM được quy định “NQTM là hoạt động thương
mại, theo đó Bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự
mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ …” (Điều 284) theo
cách thức và phương pháp kinh doanh mà BNQ quy định. Hoạt động thương
mại này phải được làm thành văn bản và phải đăng ký với Bộ thương mại hoặc


Nguyễn Thị Dung

6

Kinh tế 29G


các Sở thương mại theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 35/2006 của Chính
phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động NQTM.
Thực chất NQTM chính là hoạt động thương mại của các thương nhân
nhằm mở rộng quy mô kinh doanh của mình thông qua việc chia sẻ quyền phân
phối sản phẩm hoặc chia sẻ quyền sử dụng công thức kinh doanh trên một
thương hiệu của mình cho một hoặc nhiều thương nhân khác. Chính nhờ cách
thức này mà Ray Kroc đã thiết lập nên một hệ thống cửa hàng thức ăn nhanh Mc
Donald’s trên toàn thế giới như hiện nay, đem lại thành công mà nhiều công ty
khác mong chờ, tuy không thể nói rằng lợi nhuận của tập đoàn này chủ yếu là do
kinh doanh thức ăn nhanh. Có thể coi McDonald’s là trường hợp kinh điển trong
lịch sử nhượng quyền kinh doanh của mọi thời đại.
b. Đặc điểm của NQTM
Dù hoạt động NQTM có phát triển như thế nào thì về bản chất, pháp luật
của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công nhận NQTM không phải là “việc
kinh doanh” cụ thể nào đó mà là một phương thức kinh doanh [18]. Đó chính là
phương thức hợp tác giữa ít nhất là hai bên chủ thể: chủ sở hữu các quyền SHTT
(như nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, tên thương mại, biển hiệu hay các biểu
tượng quảng cáo,…) với một hoặc nhiều doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh khác
trong việc cùng khai thác giá trị thương mại của các đối tượng NQTM của BNQ.
Đổi lại, BNQ sẽ nhận được các khoản phí do BNhQ trả.
Dựa vào bản chất đã phân tích, có thể thấy hoạt động NQTM có một số đặc
điểm sau:
- Về mặt chủ thể, hoạt động này bao gồm BNQ và BNhQ. Trong đó BNQ bắt
buộc phải là thương nhân có một hệ thống và cơ sở kinh doanh đang có lợi
thế cạnh tranh trên thị trường. BNhQ là một doanh nghiệp độc lập về mặt tài
chính, pháp lý và đầu tư, đồng thời chấp nhận rủi ro đối với nguồn vốn bỏ ra
khi thực hiện việc tham gia vào hệ thống nhượng quyền của BNQ. Điều này
nghĩa là các bên của hợp đồng NQTM là các thương nhân có quyền kinh



Nguyễn Thị Dung

7

Kinh tế 29G

doanh độc lập. Sự độc lập này thể hiện ở chỗ: BNhQ khai thác hệ thống NQTM
vì lợi ích của chính mình, và BNhQ được tự do thực hiện các hoạt động khác,
ngoài hợp đồng NQTM. Đặc điểm độc lập này là đặc điểm quan trọng giúp phân
biệt giữa quan hệ NQTM với quan hệ chi nhánh.
- Về tính đồng bộ, thống nhất. NQTM là sự phát triển đồng bộ một thương hiệu
tạo ra sự thống nhất một hình ảnh các cửa hàng, để khách hàng vào bất cứ cơ
sở, cửa hàng nào trong hệ thống cũng đều cảm thấy thoải mái, hài lòng như
nhau. Hệ thống nhượng quyền như một guồng máy mà mỗi cửa hàng, cơ sở là
một mắt xích, để tạo nên chính thể đó. Sự thay đổi của một mắt xích tất yếu
làm ảnh hưởng tới cả hệ thống. Đây là điểm nhạy cảm của NQTM, bởi nó có
thể giúp phát triển danh tiếng của hàng hoá, hệ thống nhượng quyền một cách
nhanh chóng nhưng cũng có thế làm cho uy tín xây dựng trong một thời gian
dài của sản phẩm/dịch vụ nhượng quyền đó sụp đổ.
- Về mặt nội dung của khái niệm “quyền thương mại”. Nội dung của khái niệm
này tuỳ thuộc vào từng loại hình NQTM và sự thoả thuận của các bên mà
“rộng, hẹp” khác nhau. Đây là một khái niệm trừu tượng, có mối liên hệ đặc
biệt đối với các đối tượng của SHTT. Theo cách hiểu NQTM là nhượng
quyền phương thức kinh doanh thì quyền thương mại không chỉ dừng ở việc
sử dụng tên thương mại, kiểu dáng thiết kế của hàng hoá mà còn mở rộng
không ngừng bao gồm nhiều quyền năng khác trong hoạt động kinh doanh
[18]. Cũng như các quan hệ khác, NQTM càng phát triển mở rộng thì khả
năng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, tranh chấp càng cao. Sở dĩ như vậy là do,
bản thân “quyền thương mại” đã liên quan đến lợi ích thiết thân của một nhà

kinh doanh. Việc nhượng lại quyền thiết thân này cho một chủ thể kinh doanh
khác để cùng kinh doanh, cùng chia sẻ những lợi thế mà quyền kinh doanh
đem lại, vì thế, chắc chắn sẽ gây ra không ít tranh chấp.Vì đặc điểm này mà
hoạt động NQTM phải được pháp luật điều chỉnh .


Nguyễn Thị Dung

8

Kinh tế 29G

- Về tính gắn kết của các bên trong hợp đồng NQTM. NQTM luôn tồn tại mối
quan hệ mật thiết giữa BNQ và BNhQ. Trong NQTM sự gắn bó của BNhQ và
BNQ là vô cùng chặt chẽ. Bởi NQTM về bản chất là sự nhân rộng một mô
hình kinh doanh đã thành công, BNhQ được BNQ chia sẻ các công thức kinh
doanh, các bí quyết kinh doanh, phương thức kinh doanh của BNQ nhằm tạo
ra sự đồng bộ ở tất cả các cửa hàng nhượng quyền so với cửa hàng chính của
BNQ. Vì thế BNQ và BNhQ phải tạo ra một mối quan hệ liên tục, thông suốt
trong toàn bộ thời gian của hợp đồng NQTM. BNQ phải hướng dẫn, giúp đỡ
kĩ thuật, đào tạo những nhân viên chủ lực cho BNhQ, đồng thời BNhQ không
thể tự mình sáng tạo thêm các ý tưởng mới trong kinh doanh- nhất là các ý
tưởng có khả năng phá vỡ sự đồng nhất trong hệ thống NQTM.
1.1.3. Đánh giá về mô hình kinh doanh theo phương thức NQTM
Franchise với những đặc điểm của nó chứng tỏ nó không chỉ là phương
thức kinh doanh hốt bạc, đảm bảo khả năng thành công của các bên tham gia
một hệ thống NQTM bất kỳ, mà còn là cách thức kinh doanh tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Vì thế, đánh giá được cả ưu và nhược điểm của phương thức kinh doanh
NQTM sẽ giúp cho các chủ thể của hoạt động này có cái nhìn khách quan, chính
xác hơn về hoạt động này để có thể khai thác hết những mặt mạnh, đồng thời

hạn chế được phần nào những khiếm khuyết của phương thức này.
a. Đối với BNQ
* Ưu điểm của việc nhượng quyền
NQTM đem lại nhiều lợi ích cho nhà nhượng quyền, trong đó có thể kể đến
một số lợi ích rõ ràng nhất sau :
- Ưu điểm lớn nhất mà franchising mang lại là hệ thống kinh doanh của BNQ
được mở rộng mà hầu như không phải bỏ thêm vốn. Kinh doanh theo phương
thức nhượng quyền thì bên giao quyền không cần phải tiêu tốn quá nhiều vốn
đầu tư mà cũng có thể nhanh chóng mở rộng hệ thống kinh doanh, thiết lập
một mạng lưới kinh doanh rộng lớn trên toàn quốc và thậm chí trên toàn thế


Nguyễn Thị Dung

9

Kinh tế 29G

giới thông qua việc sử dụng vốn đầu tư của BNhQ. Số cơ sở kinh doanh bán
lẻ của mạng lưới NQTM có thể tăng lên với tốc độ rất nhanh bởi vì sự phát
triển này không bị phụ thuộc, hạn chế bởi vốn của bên giao quyền. Kinh
doanh theo phương thức nhượng quyền đem lại nhiều lợi ích hơn là việc đầu
tư một số lượng tiền và nguồn lực tài chính khổng lồ khác vào việc xây dựng
một mạng lưới các chi nhánh hay thiết lập mạng lưới các nhà phân phối độc
lập mà không có sự kiểm tra, giám sát của BNQ. Các doanh nghiệp vừa và
nhỏ càng thích hợp với mô hình này. Ví dụ đối với thương hiệu Phở 24 - là
thương hiệu khi nhượng quyền còn cần xem xét đến cả mặt bằng kinh doanh,
để có được mặt bằng kinh doanh đạt tiêu chuẩn chủ thương hiệu này đã phải
mất một thời gian mới có thể đưa được sản phẩm của mình phát triển ra miền
Bắc. Đấy là chỉ trong nội bộ một quốc gia, chưa kể đến khi muốn phát triển

mở rộng thị trường ra nước ngoài thì rất khó để Phở 24 có thể tìm được mặt
bằng ưng ý, thuê hoặc mua được mặt bằng đó tại nước sở tại để phát triển
kinh doanh. Còn rất nhiều khó khăn nữa mà khi muốn trực tiếp kinh doanh sẽ
rất khó cho một doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có nhiều cách thức mà mỗi doanh
nghiệp có thể lựa chọn nhằm khắc phục những khó khăn đó và NQTM là một
phương pháp phù hợp.
- Khi thực hiện NQTM, BNQ sẽ nhận được một khoản phí nhất định. Khoản
phí này có thể là phí nhượng quyền ban đầu mà nhà nhận quyền phải trả để
được tham gia vào hệ thống nhượng quyền. Ngoài khoản phí tham gia hệ
thống mà BNhQ phải trả, bên này còn phải trả những khoản phí khác như: phí
định kỳ thường xuyên cho đến hết thời gian tham gia hệ thống, các loại phí
khác cho các hoạt động hỗ trợ của BNQ,... Bởi vậy có thể dẫn đến tiết kiệm
và phân chia hiệu quả hơn một số loại chi phí mà BNQ vốn phải gánh chịu,
như chi phí quảng cáo, chi phí bảo vệ quyền SHTT, chi phí nghiên cứu phát
triển sản phẩm/dịch vụ,…Không những thế BNQ còn được hưởng lợi ích vô
hình, tức là việc tăng lên không ngừng của giá trị nhãn hiệu, nhãn hiệu dịch


Nguyễn Thị Dung

10

Kinh tế 29G

vụ, tên thương mại và các tài sản SHTT khác do sự phát triển của mạng lưới
NQTM mang lại.
- BNhQ là bên trực tiếp kinh doanh tại khu vực nhượng quyền nên BNQ không
cần phải quá lo lắng về sự am hiểu phong tục, tập quán, thói quen của người
tiêu dùng tại khu vực đó . Nhờ vào kiến thức kinh doanh mà các BNhQ có
được trên thị trường riêng của mình mà một mạng lưới sẽ có khả năng dễ

dàng tương thích với những gò bó, những đặc điểm của kinh tế địa phương và
nhu cầu đặc trưng của mỗi thị trường hơn là hệ thống chi nhánh. Từ đó giúp
nâng cao khả năng thành công của hệ thống NQTM hơn.
* Nhược điểm của việc bán Franchise
Bên cạnh những thế mạnh, NQTM cũng có những hạn chế mà nếu BNQ
không chú ý rất có thể có những rủi ro xảy ra như:
- NQTM có thể khiến cho BNQ dễ bị ăn cắp bí quyết kinh doanh, làm nhái sản
phẩm: Ví dụ cho quan điểm này chính là: cà phê Trung Nguyên – doanh
nghiệp trong nước đầu tiên áp dụng NQTM - đến nay có khoảng 1000 cửa
hàng NQTM trong và ngoài nước, nhưng trên thị trường vẫn còn tồn tại hàng
trăm cửa hàng Trung Nguyên giả mà chưa xử lý được. Hay cũng Cà phê
Trung Nguyên trong tình huống bị chính đối tác Mỹ ăn cắp thương hiệu. Khi
Trung Nguyên nộp hồ sơ xin đăng kí thương hiệu tại Mỹ với tên gọi “Trung
Nguyên - Nguồn cảm hứng sáng tạo mới”, thì biết chính phía đối tác Mỹ của
mình là Công ty Rice Field Carp đã đăng kí nhãn hiệu trước với tên gọi “Cà
phê hàng đầu Buôn Mê Thuột – Trung Nguyên”. Sau đó Trung Nguyên đã đòi
lại được nhãn hiệu của mình nhưng phải mất một số tiền khá lớn và mất đi
nhiều cơ hội nhượng quyền vào thị trường lớn Hoa Kì [37]. Không những thế
khả năng bị làm nhái sản phẩm còn bị đe doạ bởi chính từ phía BNhQ khi hết
thời hạn hiệu lực của hợp đồng NQTM, lí do là khi kí kết hợp đồng thì BNQ
sẽ phải trao cho BNhQ toàn bộ bí quyết kinh doanh, cách thức quản lý, và
BNhQ thì được toàn quyền sử dụng nhãn hiệu và tên thương mại của BNQ.
Đặc điểm này sẽ giúp BNhQ hiểu rõ, thấu đáo về các vấn đề của BNQ (bao


Nguyễn Thị Dung

11

Kinh tế 29G


- Giảm giá trị của thương hiệu : Chỉ cần một BNhQ không thực hiện đầy đủ và
đúng các ý tưởng kinh doanh, các yêu cầu nghiêm ngặt của BNQ đưa ra thì
rất dễ gây ra ảnh hưởng tới không chỉ cơ sở nhượng quyền đó mà đối với toàn
bộ hệ thống nhượng quyền, làm giảm giá trị thương hiệu hoặc tồi tệ nhất là
làm đổ bể cả chuỗi hệ thống NQTM. Ví dụ cho quan điểm này chính là: chủ
thương hiệu Phở 24 đã phát hiện trong số các cửa hàng NQTM của mình có
cửa hàng đã làm trái quy định khi tìm cách giảm chi phí kinh doanh bằng việc
giảm số lượng thịt trong tô phở, tắt máy lạnh,…,khiến nhiều khách hàng phàn
nàn. Điều này nếu không được chủ thương hiệu phát hiện sớm sẽ có nguy cơ
làm mất uy tín của thương hiệu. Hay đôi khi chỉ là thái độ thiếu lịch sự của
một nhân viên một cửa hàng franchise hay vết bẩn trong món ăn dẫn tới tổn
hại chung cho cả thương hiệu và các đối tác trong hệ thống. Trong những năm
đầu do là đơn vị đi tiên phong trong lãnh vực franchise tại Việt Nam nên
Trung Nguyên đã khá bối rối trong hướng đi của mình và nếu không muốn
nói là quá dễ dãi trong việc bán franchise nên dẫn đến hiện trạng là có quá
nhiều cà phê mang cùng nhãn hiệu Trung Nguyên nhưng không cùng một
đẳng cấp. Nói cách khác Trung Nguyên rơi vào tình thế mất kiểm soát chất
lượng và tính đồng bộ của mình vì bắt đầu bán franchise với số lượng lớn khi
chưa có đủ sự chuẩn bị. Thật vậy, có quán thì khá bề thế, có quán lại quá xập
xệ, khiêm tốn hay có quán có máy lạnh phục vụ tốt, tay nghề khá và có quán
thì tay nghề kém, bình dân, trang trí nội thất cũng không được thực sự đồng
bộ theo một chuẩn mực chung. Vì thế, từ cuối năm 2002 Trung Nguyên đã
cho mời chuyên gia người Úc sang để khắc phục tình trạng này, nhưng trên
thực tế để điều chỉnh lại hệ thống với hơn 400 quán cà phê trải dài khắp nước
quả là một thách thức của người điều hành mỗi quán cà phê và của người chủ
thương hiệu nói chung.
b. Đối với BNhQ
* Ưu điểm của việc nhận quyền
Đối với bên này thì NQTM đem lại khá nhiều lợi ích. Điều này là do :



Nguyễn Thị Dung

12

Kinh tế 29G

- Sức hấp dẫn của NQTM có thể tổng kết ở hai điểm căn bản: chi phí thấp và ít
rủi ro. BNhQ không phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian vào việc xây
dựng mô hình kinh doanh, đào tạo đội ngũ quản lý hoặc xây dựng một thương
hiệu trên thị trường. Đối với việc tham gia vào hệ thống NQTM, BNhQ có thể
tiến hành kinh doanh ngay sau khi được nhượng “quyền thương mại”. Để bù
đắp vào khoản chi phí cho phí nhận NQTM, BNhQ tiết kiệm được rất nhiều
chi phí so với việc tự mình tham gia thị trường với thương hiệu và mô hình
kinh doanh riêng của mình. Hơn nữa, kinh doanh theo một mô hình quản lý
có sẵn, cung cấp một loại hàng hoá, dịch vụ đã có sức cạnh tranh trên thị
trường, phần trăm rủi ro trong kinh doanh được giảm xuống mức đáng kể.
- BNhQ khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền sẽ nhận được sự hỗ trợ của
BNQ cả trước và sau khi khai trương cửa hàng như: về nhân lực (ví dụ đối với
hệ thống nhượng quyền của Phở 24 thì khi ký hợp đồng nhượng quyền với
BNhQ, chủ thương hiệu sẽ đào tạo cho đầu bếp của BNhQ, trong một thời
gian còn cử nhân viên trong công ty đến trợ giúp BNhQ cách điều hành, quản
lý), về chọn mặt bằng (McDonald’s là điển hình, vì tập đoàn này không chỉ
hướng dẫn BNhQ cách chọn mặt bằng phù hợp tiêu chuẩn mà thường là tự
mình tìm kiếm những mặt bằng thích hợp để mua lại, sau đó nếu có BNhQ
nào phù hợp mà tập đoàn muốn nhượng quyền thì tập đoàn cho thuê lại – đây
cũng chính là một khoản làm tăng lợi nhuận của tập đoàn này),…
- Không những thế đối với các thương nhân mới tham gia kinh doanh lần đầu
hoặc đã kinh doanh nhiều nhưng vẫn thất bại thì có thể qua chính cách thức

thành một BNhQ để có thể tiếp thu được những cách thức kinh doanh,
phương thức kinh doanh mà đã thu được thành công của BNQ. Lí do bởi
trong hầu hết các BNQ trên thế giới khi nhượng quyền đều thiết lập một tài
liệu hướng dẫn cách thức kinh doanh trong đó ghi rõ các cách thức kinh
doanh,…, không những thế BNhQ còn được học tập ngay tại những cửa hàng,


Nguyễn Thị Dung

13

Kinh tế 29G

cơ sở của BNQ để nắm được cách thức điều hành quản lý ra sao. Điều này sẽ
rất là hữu ích, lí do là vì khi bạn được học cách vì sao doanh nghiệp khác
thành công, bạn sẽ có thể nhìn lại xem điều gì dẫn bạn tới thất bại, nhờ thế
nếu bạn vẫn còn định tiếp tục kinh doanh thì bạn sẽ biết bước đi đúng hơn,
chứ không đảm bảo khả năng thành công của bạn! Chúng ta chắc cũng biết
đến Dave Thomas, ông cũng từng là một franchisee của hệ thống nhượng
quyền KFC trong nhiều năm trước khi trở thành sáng lập viên kiêm chủ tịch
tập đoàn thức ăn nhanh Wendy.
- Khi tham gia vào hệ thống nhượng quyền, mặc nhiên người nhận quyền sẽ có
được những khách hàng truyền thống của hệ thống. Nếu doanh nghiệp tự lập
và kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của chính mình thì doanh nghiệp sẽ phải
mất thời gian để chứng minh được uy tín của sản phẩm. Trong khi nếu nhận
NQTM doanh nghiệp sẽ nghiễm nhiên có được các khách hàng của hệ thống,
bởi lúc này sản phẩm hay dịch vụ của hệ thống đã được chứng minh bởi BNQ
và cả hệ thống trong thời gian trước khi BNhQ tham gia hệ thống.
- Khi kinh doanh các doanh nghiệp còn phải không ngừng nâng cao uy tín và
hình ảnh của mình trong mắt công chúng, điều này có thể thấy rõ khi Coca –

Cola đã là một nhãn hiệu nổi tiếng được phần lớn người tiêu dùng trên thế
giới biết đến nhưng vẫn tiếp tục các chiến dịch quảng cáo, khuyến mại của
mình. Nếu doanh nghiệp của bạn nhỏ, vốn đầu tư hạn chế bạn rất khó để có
thể thường xuyên quảng cáo, tiếp thị cho sản phẩm/dịch vụ của mình, nhất là
trong thời đại ai ai cũng nhìn thấy sức mạnh của quảng cáo như ngày nay.
Nếu bạn là một thành viên của hệ thống NQTM, bạn chỉ cần đóng một lượng
phí nhỏ hơn rất nhiều mà lại được quảng cáo thường xuyên trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
* Thách thức của việc nhận franchise
- Đối với BNhQ thì mặc dù có tính tự chủ tương đối nhưng bởi vì đặc trưng của
NQTM là chia sẻ cùng sử dụng “quyền thương mại” nên để bảo vệ uy tín của
thương hiệu, để tránh sự sụp đổ của cả hệ thống mà BNhQ vẫn phải chịu các


Nguyễn Thị Dung

14

Kinh tế 29G

ràng buộc, hạn chế nhất định liên quan đến hoạt động kinh doanh, cạnh tranh,
hay chuyển giao doanh nghiệp từ BNQ, không hoàn toàn được tự do quyết
định hay thay đổi tất cả những gì nằm trong cửa hàng của mình. Ví dụ như
phần trang trí nội thất, thực đơn, đồng phục, giờ hoạt động của cửa hàng phải
đồng bộ với các cửa hàng khác trong cùng hệ thống franchise, BNhQ không
thể tự tiện thêm bớt các ý tưởng của riêng mình. Bởi những quy định này
được áp dụng chung cho cả hệ thống NQTM nhằm đảm bảo tính đồng bộ,
thống nhất của chuỗi cửa hàng NQTM. Không những thế để hạn chế tới mức
tối đa các nhược điểm của NQTM, BNQ thường buộc BNhQ phải chấp nhận
những HCCT nhất định như giới hạn về địa điểm kinh doanh, nghĩa vụ không

cạnh tranh với BNQ, hạn chế về giá, về khách hàng, buộc BNhQ phải mua
các nguyên vật liệu đầu vào từ BNQ hay bên thứ ba được chỉ định,…Điều này
dẫn đến tình trạng là về mặt hình thức thì BNhQ có vẻ độc lập nhưng thực tế
lại luôn luôn bị kiểm soát. Sự kiểm soát này có thể làm cho BNhQ mất đi sự
sáng tạo của mình.
- Bất lợi chính từ điểm có lợi: Đó chính là việc ảnh hưởng dây chuyền của hệ
thống Franchise. Nếu như mặt có lợi của Franchise chính là việc BNhQ được
hưởng lợi từ chính những thành quả của cả hệ thống, thì do tính chất thống
nhất đồng bộ của NQTM nên rất dễ dẫn tới ảnh hưởng dây chuyền trong toàn
bộ hệ thống nhượng quyền. Chỉ cần một cơ sở “có vấn đề” có thể sẽ làm ảnh
hưởng xấu tới các cơ sở khác mặc dù lỗi đó là thuộc về bản thân cơ sở nhận
quyền đó, chứ không phải là đặc điểm của cả hệ thống.
- Thêm một điều nữa là tất cả những công sức và tiền của mà chủ cửa hàng
franchise bỏ ra để quảng cáo, củng cố thêm cho thương hiệu đều sẽ thuộc về
người chủ thương hiệu. Điều này làm cho một số BNhQ dự kiến lưỡng lự,
không nhiệt tình đóng phí marketing hay quảng cáo cho hệ thống franchise.
Mà điều này lại có thể chính là một lí do để BNQ chấm dứt hợp đồng với
BNhQ làm cho toàn bộ công sức và nguồn vốn mà BNhQ đã bỏ ra để tham
gia vào hệ thống thành vô nghĩa.


Nguyễn Thị Dung

15

Kinh tế 29G

c. Đối với nền kinh tế thị trường
* Ưu điểm
NQTM bùng nổ và phát triển mạnh mẽ đem lại nhiều cái lợi cho nền kinh tế

nói chung:
- Về phía người tiêu dùng: Hoạt động NQTM giúp người tiêu dùng thuận lợi
hơn trong việc tiếp cận với hàng hoá, dịch vụ với một hệ thống bán hàng hoặc
cung cấp dịch vụ đồ sộ. Hơn nữa, ở hướng tích cực thì người tiêu dùng có thể
có những sản phẩm/dịch vụ đảm bảo chất lượng, được phục vụ như nhau tại
nhiều nơi không có sự phân biệt đối xử. NQTM còn sẽ làm cho khả năng
người tiêu dùng được bảo vệ tăng lên, bởi nếu có điều gì đó xấu xảy ra thì với
một tiềm lực mạnh và vì uy tín của thương hiệu mà chủ thương hiệu sẽ cố
gắng để người tiêu dùng có thể phục hồi nhanh nhất, được người tiêu dùng
ủng hộ, hơn nữa vì thương hiệu của mình mà chủ thương hiệu sẽ hạn chế đến
mức tối đa những tác động xấu có thể ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
- Về sự phát triển của xã hội: NQTM giúp cho các doanh nghiệp mới tránh
được thất bại, nhờ thế lượng vốn được đầu tư hợp lý, các tình trạng xấu như
phá sản, vốn tồn đọng được giải quyết. BNQ khi kiểm soát được các tiêu
chuẩn đối với BNhQ thì uy tín được đảm bảo, lượng khách hàng tiêu dùng
sản phẩm/dịch vụ của mình được nâng cao, sẽ giúp cho BNQ yên tâm phát
triển sản phẩm phục vụ người tiêu dùng tốt hơn, đem lại lợi nhuận ngày càng
tăng cho BNQ. Đất nước có nhiều doanh nghiệp tham gia các hệ thống
NQTM thành công thì khả năng phát triển được tiềm lực kinh tế, tăng uy tín
của mình trên trường quốc tế, thu hút đầu tư, đời sống người dân được ổn
định càng tăng cao.
- Về nền kinh tế: Nền kinh tế theo sự phát triển của NQTM sẽ cũng được phát
triển cả về bề rộng và chiều sâu. Khi NQTM phát triển sẽ kích thích cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp nhượng quyền, các doanh nghiệp này để cạnh
tranh với nhau sẽ cố gắng tìm cách nâng cao uy tín doanh nghiệp, để được
nhiều thương nhân khác chú ý tham gia vào hệ thống nhượng quyền của


Nguyễn Thị Dung


16

Kinh tế 29G

mình. BNQ ngày càng mở rộng hệ thống kinh doanh và ngày càng tiếp nhận
thêm nhiều BNhQ mới, vì thế, sự sôi động của nền kinh tế càng được thúc
đẩy bởi sự gắn bó, sự liên kết bằng lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh trong
hoạt động NQTM.
* Ảnh hưởng xấu tới thị trường
- Do tính chất của hoạt động NQTM mà các bên chủ thể thường xây dựng các
thoả thuận có tính chất HCCT. Những quy định HCCT như vậy trong NQTM
trong một chừng mực nhất định có thể bị lạm dụng bởi các bên, nhất là bởi
BNQ, và có thể vi phạm PLCT. Bởi nó tác động xấu tới cạnh tranh trên thị
trường, có thể hạn chế các doanh nghiệp khác tham gia thị trường, không
khuyến khích phát triển cạnh tranh trên thị trường, làm ảnh hưởng lợi ích
người tiêu dùng.
- Nếu pháp luật về hoạt động này không đủ mạnh thì chính bởi việc NQTM có
liên quan tới các bí quyết kinh doanh, tên thương mại, nhãn hiệu,… - các đối
tượng của quyền SHTT, sẽ làm cho tình trạng xâm phạm quyền SHTT tăng
cao, không khuyến khích các bên phát triển hoạt động này, nhất là BNQ.
Không những thế còn đe doạ tới lợi ích của bất kì chủ thể nào có ý định kinh
doanh bằng phương thức NQTM. Dễ dẫn tới sự sụp đổ của cả hệ thống
NQTM đang tồn tại, hoặc một thương hiệu sản phẩm/ dịch vụ đang tồn tại,
gây tổn hại tới lợi ích kinh tế của các bên chủ thể của hoạt động này nói riêng
và lợi ích kinh tế của toàn xã hội nói chung.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT VỀ NQTM
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về NQTM
Càng được khuyến khích mở rộng quan hệ NQTM càng chứa đựng những
khả năng gây ra tranh chấp thương mại. Việc nhượng lại quyền thương mại-vốn
là tài sản thuộc sở hữu của BNQ - cho một chủ thể kinh doanh khác để cùng

kinh doanh, cùng chia sẻ những lợi thế mà “quyền kinh doanh” đem lại, vì thế,
chắc chắn sẽ gây ra không ít tranh chấp. Sự không tuân thủ nghĩa vụ của BNhQ
đôi khi lại là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống, gây thiệt hại cho


Nguyễn Thị Dung

17

Kinh tế 29G

không chỉ những chủ thể của quan hệ này mà còn là cho cả nền kinh tế. Hơn
nữa, khi một quan hệ xã hội mới xuất hiện luôn đặt ra một yêu cầu là Nhà nước
phải xây dựng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đó nhằm đẳm
bảo được chức năng quản lý xã hội của Nhà nước. Xuất phát từ các yêu cầu đó,
đòi hỏi các quốc gia phải đặt hoạt động này vào trong khuôn khổ pháp lý. Chính
vì vậy pháp luật về NQTM ra đời. Sự tồn tại và phát triển của hoạt động NQTM
là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời và phát triển của pháp luật về NQTM. Có thể
định nghĩa pháp luật về NQTM chính là tổng hợp các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành và thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động NQTM.
Hoạt động NQTM chính là hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh, bởi thế nên pháp luật về NQTM chính là một bộ phận cấu thành nên hệ
thống pháp luật thương mại. Trong vị trí ấy, pháp luật về NQTM có những vai
trò sau:
- Thứ nhất, pháp luật về NQTM có vai trò tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động NQTM diễn ra một cách lành mạnh.
Pháp luật về NQTM sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động
NQTM. Họ sẽ thấy hoạt động kinh doanh của mình được pháp luật thừa nhận,
bảo vệ và khuyến khích, từ đó họ sẽ mạnh dạn trong kinh doanh hơn, mở rộng

quy mô, tìm nhiều đối tác để nhượng quyền,…Không những thế, pháp luật với
chức năng tiên liệu trước được các quan hệ xã hội có thể phát sinh, các tình
huống có thể xảy ra, có thể giúp doanh nghiệp căn cứ vào đó tránh được những
sai sót không đáng có. Pháp luật sẽ có những hướng dẫn đứng mực cho các chủ
thể kinh doanh để họ có thể đi đến thành công trong việc áp dụng phương thức
kinh doanh NQTM. Mặt khác, pháp luật về NQTM lại là công cụ trong tay Nhà
nước để duy trì hoạt động NQTM diễn ra một cách lành mạnh bằng việc kiểm
soát các hành vi có thể làm biến dạng cạnh tranh, làm mất đi động lực phát triển
của nền kinh tế. Vai trò lớn nhất của pháp luật về NQTM là đảm bảo được chức
năng điều tiết các hoạt động NQTM, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một


Nguyễn Thị Dung

18

Kinh tế 29G

cách phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường, xác lập các hoạt động kinh
doanh công bằng.
- Thứ hai, pháp luật về NQTM bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia
quan hệ nhượng quyền và lợi ích của toàn xã hội.
Đây là vai trò không chỉ của pháp luật NQTM mà là của cả hệ thống pháp
luật. Pháp luật về NQTM khi điều chỉnh quan hệ NQTM luôn dung hoà lợi ích
của các bên để tránh lợi ích của người này ảnh hưởng xấu tới lợi ích của người
khác. Khi pháp luật đã đảm bảo được lợi ích của các bên thì sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế, tạo lập môi trường pháp lý ổn định cho hoạt động NQTM.
Đây cũng chính là những lợi ích mà xã hội được hưởng khi có một chính sách
pháp luật NQTM đúng đắn. NQTM chỉ thực sự phát huy được các ưu điểm của
nó tại những nước có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, do đặc điểm của NQTM

liên quan nhiều đến vấn đề về bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại,
công nghệ và việc giữ gìn bí mật kinh doanh, giữ gìn uy tín. Điều đó cho thấy vai
trò quan trọng của pháp luật trong sự phát triển của hoạt động NQTM.
1.2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về NQTM và PLCT
Trong hoạt động NQTM thường thấy xuất hiện quy định BNQ yêu cầu
BNhQ không được chuyển cửa hàng khỏi vị trí đã được xác định trong hợp đồng
NQTM hay không được chuyển giao cửa hàng cho bên thứ ba bất kì mà không
có sự đồng ý của BNQ; hay BNQ có quyền chuyển giao quyền thương mại cho
nhiều BNhQ khác nhau; BNhQ có quyền độc quyền sử dụng tên thương mại,
nhãn hiệu, kinh doanh trong một khu vực địa lý theo sự xác định trong hợp đồng
NQTM. Việc pháp luật về NQTM trao quyền khai thác độc quyền cho BNQ và
các BNhQ có thể dẫn tới việc xung đột với pháp luật về cạnh tranh. Tuy nhiên,
không nên hiểu rằng sự xung đột này là cố hữu, bởi vì cả hai lĩnh vực pháp luật
nói trên cùng chia sẻ một mục tiêu cơ bản là khuyến khích sự thịnh vượng của
người tiêu dùng và sự phân phối hiệu quả các nguồn lực. NQTM khuyến khích
sự cạnh tranh bằng việc cổ vũ các BNQ tập trung đầu tư vào việc phát triển các
sản phẩm và quy trình mới, hoặc cải tiến sản phẩm nhằm tích cực thu hút khách


Nguyễn Thị Dung

19

Kinh tế 29G

hàng hơn nữa, hoặc bởi việc độ thành công của NQTM là tương đối cao nên thu
hút nhiều đối thủ cạnh tranh tiềm năng gia nhập thị trường, làm môi trường cạnh
tranh sôi động hơn. Tuy nhiên, như đã trình bày pháp luật NQTM trao cho các
chủ thể một số độc quyền, việc này có thể gây ảnh hưởng đến cạnh tranh nên tuỳ
từng tình huống cụ thể,căn cứ vào hậu quả HCCT so với ảnh hưởng khuyến

khích cạnh tranh của mỗi quy định trong hợp đồng NQTM mà một quy định có
vi phạm PLCT hay không.
Kinh nghiệm pháp luật các nước cho thấy việc quy định cụ thể một dạng
điều khoản nào đó trong hợp đồng NQTM là vi phạm PLCT đều có thể dẫn tới
hậu quả bóp méo hoạt động này. Do đó, việc phải thiết lập các quy định linh
hoạt phù hợp với cả PLCT và pháp luật về NQTM là cực kỳ cần thiết. Sự linh
hoạt này phải thực hiện được mục tiêu ngăn chặn sự lạm dụng quyền độc quyền
nhưng không ảnh hưởng đến việc khuyến khích phát triển hoạt động NQTM.
NQTM đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế bằng việc phổ biến các
phát minh, sáng kiến, phương thức kinh doanh thành công qua đó làm giảm các
tiêu cực của nền kinh tế thị trường như phá sản và việc khuyến khích các thành
viên mới gia nhập thị trường. Điều này dẫn đến sự khai thác có hiệu quả các
thành quả của SHTT và kinh nghiệm kinh doanh. Chủ sở hữu thương hiệu nói
chung thường không thể tự mình phát triển việc kinh doanh rộng khắp thông qua
việc khai thác giá trị quyền SHTT mà không giao kết các hợp đồng NQTM.
NQTM cũng góp phần làm tăng giá trị của quyền thương mại thông qua việc
chia sẻ chi phí quảng cáo, chi phí nghiên cứu phát triển sản phẩm, chi phí giới
thiệu các cải tiến mới và thông qua đó làm gia tăng thu nhập của các bên. Chính
vì vậy, NQTM phải được khuyến khích, dù đó là NQTM giữa các đối thủ cạnh
tranh. Mặt khác như đã đề cập đến ở trên, những quy định HCCT trong các thoả
thuận nhượng quyền có thể bị lạm dụng bởi các bên, gây ảnh hưởng đến quy
luật cạnh tranh của thị trường mà sau cùng là ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường,
bóp méo thị trường.


Nguyễn Thị Dung

20

Kinh tế 29G


Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về NQTM và pháp luật về
cạnh tranh đều là những bộ phận của hệ thống pháp luật thương mại, vì thế giữa
chúng có mối quan hệ qua lại tác động lẫn nhau. Hay nói theo quan điểm triết
học Mác Lênin thì pháp luật về NQTM và pháp luật về cạnh tranh là hai cái
riêng trong một cái chung là hệ thống pháp luật thương mại. Vì thế việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa chúng là việc nên làm, bởi vì “…bất cứ cái riêng nào cũng
nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung…” [10]. Để có thể hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật thương mại của quốc gia thì việc nghiên cứu mối quan hệ giữa NQTM
và PLCT và cả với các pháp luật khác như pháp luật về SHTT,…là cần thiết.
Ở Mỹ và Liên minh Châu Âu ( EU) cho đến nay đã có nhiều tranh chấp liên
quan đến NQTM trên cơ sở PLCT. Mặc dù pháp luật về NQTM ở các quốc gia
này đã phát triển và luôn được hoàn thiện, nhưng các bên có liên quan vẫn sử
dụng các quy định của PLCT để chống lại những hành vi HCCT trong NQTM,
chống lại các hành vi lạm quyền của BNQ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về cạnh tranh thậm chí vẫn ban hành các quy định về việc áp dụng PLCT trong
hoạt động NQTM. Ở Việt Nam, trong hệ thống pháp luật thương mại thì NQTM
là khái niệm dù còn nhiều bỡ ngỡ nhưng dù sao cũng đã được đề cập tại nhiều
văn bản dưới luật như: Nghị định số 35/2006 của Chính phủ quy định chi tiết về
NQTM và Thông tư số 09/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn đăng ký NQTM.
Trong khi đó PLCT thực sự còn mới ở Việt Nam dù được ban hành từ năm
2004, và vì điều này nên việc áp dụng PLCT trong hoạt động NQTM có thể vẫn
còn là vấn đề xa lạ ở Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động NQTM hiện đang rất phát
triển ở Việt Nam và tương lai sẽ còn phát triển hơn nữa. Do đó, việc nghiên cứu
các quy định pháp luật về cạnh tranh khi thực hiện hoạt động NQTM cũng như
các vụ tranh chấp liên quan là rất cần thiết nhằm có thể đảm bảo một môi trường
cạnh tranh lành mạnh cho hoạt động NQTM diễn ra trên thị trường Việt Nam;
có thể vận dụng những quy định đó để bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam, giúp cho
các doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động NQTM ra nước ngoài, đặc biệt là vào
các nước có PLCT phát triển như Mỹ và EU, có thể tránh được các kiện tụng



Nguyễn Thị Dung

21

Kinh tế 29G

liên quan tới các hành vi HCCT của BNQ Việt Nam, giúp cho cả các cơ quan
quản lý nhà nước trên lĩnh vực tương ứng có những hiểu biết đầy đủ, từ đó có
những hướng để hoàn thiện dần pháp luật về NQTM nói chung và pháp luật về
thương mại nói riêng, hoàn thiện pháp luật quốc gia để phù hợp với pháp luật
quốc tế đưa pháp luật Việt Nam gần với pháp luật thế giới hơn, đáp ứng xu thế
hội nhập.Trên cơ sở đó, luận văn này có mục đích phân tích những nội dung cơ
bản của việc áp dụng PLCT của Mỹ và EU trong hoạt động NQTM; xem xét và
so sánh với những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực
này. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm áp dụng có hiệu quả PLCT trong
hoạt động NQTM ở Việt Nam.


Nguyễn Thị Dung

22

Kinh tế 29G

CHƯƠNG II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NQTM DƯỚI GÓC ĐỘ PLCT
2.1. NQTM DƯỚI GÓC ĐỘ PLCT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
NQTM là phương thức kinh doanh đặc biệt có liên quan đến các khía

cạnh SHTT. Vì vậy, xem xét hoạt động này dưới góc độ PLCT, sẽ không đề cập
tới các hành vi HCCT khác mà mục tiêu chủ yếu không liên quan trực tiếp đến
quyền SHTT như tập trung kinh tế. Mặt khác, trong hợp đồng NQTM có những
quy định vốn là thể hiện bản chất của NQTM nhưng nếu xem xét dưới góc độ
PLCT lại có thể là vi phạm PLCT – đây chính là những điều mà luận văn muốn
tìm hiểu để có thể giúp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về NQTM nói riêng
và hệ thống pháp luật về thương mại của Việt Nam nói chung. Do đó, nên những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ không được nhắc đến trong luận văn, dù
chúng cũng là đối tượng điều chỉnh của PLCT và cũng có thể tồn tại trong hoạt
động NQTM như mọi hoạt động kinh tế khác.
Luật kinh doanh của nhiều quốc gia trên thế giới cấm chủ thương hiệu bắt
buộc đối tác mua franchise phải mua hàng do chính mình cung cấp trừ khi mặt
hàng đó không thể tìm mua ở các nguồn cung cấp khác. Coca-Cola là một
trường hợp điển hình khi lúc nào cũng yêu cầu đối tác mua franchise phải mua
nguyên liệu với công thức bí mật từ công ty mẹ - chủ thương hiệu. Một trường
hợp khác là Mc Donald’s: Mc Donald’s còn độc quyền cung cấp cho cả hệ thống
franchise một số mặt hàng chiến lược như máy xay sinh tố đa năng, khoai tây
chiên, phomát và bánh táo chiên. Hay chuỗi cửa hàng tiện ích 7-to-Eleven tính
phí nhượng quyền cao là vì trong phí này có bao gồm luôn các trang thiết bị
cung cấp bởi chủ thương hiệu. Những trường hợp này liệu có được coi là điều
khoản vi phạm PLCT bởi theo lí luận thông thường thì những quy định này có
thể gây HCCT trên thị trường sản phẩm liên quan, hạn chế sự tham gia thị
trường của các bên thứ ba.


Nguyễn Thị Dung

23

Kinh tế 29G


Bên cạnh những điều khoản độc quyền thì trong hợp đồng NQTM còn có
thể có một số quy định về phân chia thị trường giữa BNQ và BNhQ, hoặc giữa
các BNhQ với nhau. Điều khoản về phân chia thị trường trong hợp đồng NQTM
thường có hai dạng: (i) điều khoản về phân chia lĩnh vực kinh doanh và (ii) điều
khoản về phân chia khách hàng [27]. Các dạng điều khoản này chắc chắn rơi
vào phạm vi điều chỉnh của Luật cạnh tranh.
Điều đó chứng tỏ trong hợp đồng NQTM bao giờ cũng có các điều kiện
về HCCT giữa BNQ và BNhQ. Những điều kiện về HCCT này có thể nói, hết
sức nhạy cảm với pháp luật về cạnh tranh của quốc gia cũng như quốc tế, vì vậy
hai bên phải hết sức cẩn thận khi đưa các điều kiện này vào hợp đồng, vì nếu
một điều khoản nào đó trái với pháp luật về cạnh tranh thì hợp đồng có thể coi là
vô hiệu. Dưới góc độ pháp lý, những điều kiện HCCT được coi là nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng NQTM, tuy nhiên chúng cần phải được xem xét một
cách riêng biệt.
Thực tiễn ký kết thực hiện hợp đồng NQTM cũng như pháp luật quốc gia
và một số văn bản pháp luật quốc tế cho thấy phân biệt ba loại HCCT. Đó là:
- Các HCCT không trái với pháp luật về cạnh tranh và các bên có thể đưa vào
hợp đồng NQTM.
- Những điều kiện HCCT mà các bên có thể đưa chúng vào trong hợp đồng,
tuy nhiên chúng có thể được coi là không có hiệu lực theo yêu cầu của cơ
quan quản lý cạnh tranh hay các cơ quan chức năng khác nếu những thoả
thuận này xuất phát từ đặc điểm thị trường tương ứng và điều kiện kinh tế
của các bên, trái với pháp luật quốc gia hay quốc tế về cạnh tranh. Những
hạn chế này chỉ được cho phép trong một chừng mực mà tại giới hạn đó
chúng liên quan đến sự cần thiết bảo vệ quyền SHTT của BNQ.
- Những hạn chế mà các bên không thể đưa vào trong hợp đồng.
Vậy những điều khoản mang tính HCCT nào của các bên chủ thể của hợp
đồng là vi phạm PLCT, những điều khoản nào là không vi phạm PLCT, và
những điều khoản nào mà sự vi phạm hay không vi phạm PLCT còn tuỳ từng



Nguyễn Thị Dung

24

Kinh tế 29G

trường hợp? Dưới đây, sẽ trình bày một số án lệ điển hình của EU và Mỹ, để
qua đó tìm hiểu những quy định nào trong hợp đồng NQTM của các bên chủ thể
theo quy định của pháp luật các nước này là vi phạm, không vi phạm, và thuộc
vi phạm nhưng được miễn trừ.
2.1.1. NQTM dưới góc độ PLCT của Liên minh Châu Âu EU
Tính đến thời điểm hiện tại thì án lệ Pronuptia [35] là án lệ cơ bản của
Toà án tư pháp Châu Âu (ECJ) giải quyết về NQTM dưới góc độ PLCT.
Đối tượng của vụ kiện là việc giải thích Điều 85 của Hiệp ước EEC và
Quy định số 67/67/EEC ngày 22/03/1967 của Uỷ ban Châu Âu hướng dẫn áp
dụng Điều 85(3) của Hiệp ước đối với một số hợp đồng kinh doanh độc quyền.
Các câu hỏi của Toà xét xử nhằm khẳng định liệu những căn cứ pháp lý
đang được áp dụng có phù hợp với hợp đồng NQTM hay không. Các câu hỏi
này phát sinh trong quá trình xét xử tranh chấp giữa Pronuptia de Paris GMBH một công ty con trực thuộc công ty Pháp có cùng tên, với bà Schillgalis - một
nhà kinh doanh tại Hamburg dưới tên Pronuptia de Paris về nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ phí nhượng quyền trên doanh số bán hàng của BNhQ từ năm 1978 đến
năm 1980. Công ty Pronuptia tại Pháp kinh doanh trong lĩnh vực phân phối áo
cưới và trang phục cưới với thương hiệu Pronuptia de Paris. Ở Cộng hòa liên
bang Đức, những sản phẩm này được phân phối thông qua các cửa hiệu dưới sự
điều hành trực tiếp của các công ty con và các cửa hiệu thuộc các nhà bán lẻ độc
lập theo hợp đồng NQTM được ký với BNQ hoặc với công ty mẹ do BNQ đại
diện.
Với ba hợp đồng được ký vào ngày 24/02/1980, BNhQ được quyền phân

phối sản phẩm trên ba khu vực độc lập là Hamburg, Oldenburg và Hanover. Nội
dung của ba hợp đồng này bao gồm một số điều khoản đáng chú ý sau:
- Thứ nhất, BNQ đồng ý trao độc quyền cho BNhQ được sử dụng thương
hiệu “Pronuptia de Paris” để tiếp thị các sản phẩm và dịch vụ của BNhQ và
quảng cáo trên một khu vực lãnh thổ được xác định bởi bản đồ đính kèm;


Nguyễn Thị Dung

25

Kinh tế 29G

- Thứ hai, BNQ cam kết không mở bất kỳ cửa hiệu mang tên Pronuptia
nào khác và không cung cấp hàng hoá/dịch vụ cho một bên thứ ba nào trên khu
vực lãnh thổ đã được xác định trong hợp đồng NQTM với BNhQ;
- Thứ ba, BNhQ chỉ được tiến hành bán hàng hoá sử dụng tên thương mại
và thương hiệu Pronuptia de Paris tại cửa hiệu đã được ghi rõ trong hợp đồng và
cửa hiệu này phải được trang bị và trang trí chủ yếu phục vụ cho việc bán thời
trang cô dâu và phải tuân thủ các chỉ dẫn của BNQ sao cho có thể nâng cao hình
ảnh của chuỗi cửa hàng Pronuptia;
- Thứ tư, BNhQ phải mua của BNQ 80% áo cưới và các phụ tùng liên
quan cùng với một tỉ lệ các loại trang phục tiệc cooktail và tiệc tối do BNhQ tự
xác định, và chỉ được mua thêm sản phẩm từ những nhà cung cấp được BNQ
cho phép;
- Thứ năm, BNhQ có nghĩa vụ tham khảo các mức giá được gợi ý bởi
BNQ và coi chúng như giá bán lẻ, tuy nhiên điều này không cản trở việc BNhQ
tự do xác định mức giá của mình;
- Thứ sáu, BNhQ không được phép cạnh tranh dưới bất kì hình thức nào
với một cửa hiệu Pronuptia khác trong thời gian hiệu lực của hợp đồng và trong

vòng một năm (01) sau khi hợp đồng hết hiệu lực, đặc biệt là khi BNhQ sau này
mở một hoạt động kinh doanh khác có tính chất tương tự hoặc giống với hoạt
động kinh doanh theo hợp đồng NQTM, không được tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào một doanh nghiệp khác kinh doanh như vậy trên lãnh thổ CHLB
Đức, trên lãnh thổ Tây Beclin hay trên bất cứ một khu vực lãnh thổ nào mà
Pronuptia đã từng có bất kì hình thức đại diện nào;
- Thứ bảy, BNhQ không được chuyển giao cho bên thứ ba những quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng NQTM hoặc tự chuyển giao công việc kinh
doanh mà không có sự đồng ý trước của BNQ.
Tại phiên toà sơ thẩm, phán xét của toà đi ngược lại với quyền lợi của
BNhQ liên quan tới khoản nợ 158.502 Mark - khoản tiền phí hoa hồng nhượng
quyền tính trên doanh số của BNhQ từ năm 1978 tới năm 1980. BNhQ kháng án


×