Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Văn hóa kinh doanh của tập đoàn viễn thông quân đội (viettel)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.11 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ LI NA

VĂN HÓA KINH DOANH CỦA TẬP ĐOÀN VIỄN
THÔNG QUÂN ĐỘI (VIETTEL)
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN THỊ MINH CHÂU

HÀ NỘI 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

VŨ LI NA


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH ................. 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của văn hóa kinh doanh ............................... 6


1.2. Các yếu tố cấu thành văn hóa kinh doanh................................................ 12
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh ................................ 26
Chương 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA KINH DOANH CỦA VIETTE. 30
2.1. Giới thiệu chung về Viettel ...................................................................... 30
2.2. Phân tích thực trạng văn hóa kinh doanh tại Viettel ................................ 33
2.3. Đánh giá văn hóa kinh doanh của Viettel ................................................ 53
Chương 3 : GIẢI PHÁP CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA KINH
DOANH CỦA VIETTEL ............................................................................. 60
3.1. Dự báo các yếu tố mới tác động đến văn hóa kinh doanh của Viettel giai
đoạn đến 2020 ................................................................................................. 60
3.2. Giải pháp củng cố, phát triển văn hóa kinh doanh của Viettel giai đoạn
đến 2020 .......................................................................................................... 68
3.3. Một số kiến nghị với Chính phủ....................... ............................... ........77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCVT

Bưu chính viễn thông

DN

Doanh nghiệp

ISO

Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế


KD

Kinh doanh

OTT

(Over The Top) là giải pháp cung cấp
nội dung cho người sử dụng dựa trên
nền tảng Internet

SXKD

Sản xuất, kinh doanh

VH

Văn hóa

VHKD

Văn hóa kinh doanh

VNPT

Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt
Nam


DANH MỤC BẢNG, HÌNH


Trang
Hình 2.1: Doanh thu của Viettel từ 2000 – 2014

32

Hình 2.2: Thị phần các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện thoại 2G

33

của Việt nam
Hình 2.3: Lô gô của Viettel

50

Bảng 2.1 : Các giá trị cốt lõi của Viettel

34


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu văn hoá (VH) là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững
của xã hội, thì văn hoá kinh doanh (VHKD) là nền tảng tinh thần cho sự phát
triển của doanh nghiệp (DN). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu
rộng hiện nay, lợi thế cạnh tranh của DN không chỉ dừng lại ở khía cạnh sản
phẩm, doanh thu hay thương hiệu… mà còn thể hiện ở VHKD.
VHKD tại Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau và
ngày càng được coi trọng trong quá trình xây dựng và phát triển DN. Làn
sóng toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội, nhưng
cũng tạo ra những áp lực buộc các DN Việt Nam phải có chiến lược xây dựng

nền tảng VH cho riêng mình.
Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel (Viettel) được thành lập theo
Quyết định thành lập DN nhà nước số 336/QĐ - QP ngày 27/07/1993 của Bộ
Quốc phòng và số 43/2005/QĐ - TTg ngày 02/05/2005 của Thủ tướng Chính
phủ với ngành nghề kinh doanh (KD) chính là các dịch vụ bưu chính viễn
thông (BCVT), ngoài ra còn KD trong các lĩnh vực điện tử, công nghệ thông
tin... Viettel là DN tiên phong ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế
giới vào KD dịch vụ viễn thông và đã trở thành DN viễn thông đầu tiên của
Việt Nam cung cấp dịch vụ di động tại nước ngoài. Mục tiêu của Viettel là trở
thành nhà khai thác dịch vụ BCVT hàng đầu tại Việt Nam và có tên tuổi trên
thế giới. Hiện nay Viettel đã xây dựng được mạng lưới đồng loạt tại 64/64
tỉnh, thành phố với 3300 trạm phát sóng (bằng 1,5 lần sự phát triển của các
DN khác trong vòng 13 năm) phủ sóng ra hầu hết các vùng biên giới, hải đảo,
vùng sâu, vùng xa, tạo nên ưu thế cạnh tranh của DN (chỉ tính ở dịch vụ di
động đã gần đạt 10 triệu khách hàng). Viettel đặt mục tiêu phấn đấu có
khoảng 12 triệu khách hàng thường xuyên. Mới đây nhất, trong chương trình

1


khảo sát để tìm ra top 200 DN Việt Nam hàng đầu của Liên Hợp Quốc,
Viettel đã lọt vào top 10 DN hàng đầu Việt Nam.
Thành công của Viettel có được do nhiều nguyên nhân, trong đó không
thể không kể đến vai trò của VHKD. Trong những năm qua Viettel đã nỗ lực
tạo dựng cho mình một lưng vốn khá lớn VHKD bao gồm: slogan, logo, tầm
nhìn thương hiệu, triết lý kinh doanh, chuẩn mực đạo đức...Và quan trọng hơn
nữa là việc Tập đoàn đã phát huy các giá trị của VHKD vào thực tế hoạt động
của Tập đoàn.
Tuy nhiên, xây dựng và phát huy VHKD trong quá trình phát triển là
một công việc lâu dài. Để duy trì, phát triển và phát huy các giá trị của VHKD

vào công tác quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược, quản trị tổ chức nhân sự
... hướng tới sự phát triển, hiệu quả hoạt động của Viettel, phải có những định
hướng rõ ràng, chi tiết hơn nữa. Với mong muốn góp đóng góp một phần ý
tưởng cá nhân của mình vào lĩnh vực này, học viên chọn đề tài “Văn hóa kinh
doanh của Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel” làm đối tượng nghiên cứu
trong luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về VHKD,
điển hình là các công trình nghiên cứu sau:
Nguyễn Mạnh Quân, Nguyễn Hoàng Ánh và Dương Thị Liễu trong tác
phẩm “Vai trò của văn hóa trong kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng
VHKDvăn hóa kinh doanh ở Việt nam”. Trong công trình này các tác giả đã đề
cập đến các khía cạnh của VH ảnh hưởng tới KD ở Việt Nam, đến sự hình thành
và phát triển của VHKD ở Việt Nam, đặc biệt là phân tích ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của kinh tế thị trường đến VHKD Việt Nam.
Một số công trình như “Đạo đức kinh doanh và văn hoá công ty”, do
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân xuất bản; “Vai trò của văn hoá trong
kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam”,…
2


đã nghiên cứu thông qua thực nghiệm, đề xuất một số giải pháp đã ứng
dụng thành công trong Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông Việt Nam, Tập
đoàn Mai Linh, Tập đoàn FPT, Ngân hàng Việt Á …
Một nghiên cứu mới công bố gần đây đã chỉ rõ mối quan hệ giữa văn
hoá và kinh doanh thông qua hệ thống tiêu chí đo lường về “Nhân cách doanh
nhân và văn hoá kinh doanh trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế” do
PGS.TS Phùng Xuân Nhạ làm chủ nhiệm. Công trình này đã xây dựng các mô
hình cấu trúc phân tầng với các bảng thang giá trị chi tiết của nhân cách
doanh nhân và VHKD Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Ngoài ra còn có một số luận án, luận văn nghiên cứu về VHKD ở các
trường Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương…
Nói tóm lại, trong những năm gần đây, các nghiên cứu về VHKD tại
Việt Nam đã xuất hiện nhưng chưa nhiều. Đa phần các côn trình nghiên cứu
đã có thường tập trung vào việc phân tích VHKD ở dạng chung, chưa có công
trình nghiên cứu riêng biệt cho Viettel. Do đó, đề tài “Văn hóa kinh doanh
của Viettel” hy vọng sẽ đem lại những đóng góp nhất định cho hoạt động
nghiên cứu về VHKD tại Viettel.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu đề tài luận văn là xây dựng cơ sở lý luận và căn cứ
thực tiễn hình thành và phát triển VHKD của Viettel, qua đó tìm kiếm giải
pháp củng cố, phát triển VHKD phù hợp với định hướng phát triển tập đoàn
Viettel trong những năm tới.
Để đạt được các mục tiêu nêu trên, quá trình nghiên cứu đề tài luận văn
đã thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về VHKD.
- Phân tích đánh giá thực trạng VHKD tại Viettel trong thời gian gần đây.
- Đề xuất giải pháp nhằm củng cố, phát triển VHKD của Viettel trong
thời gian tới.
3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn là VHKD của Viettel đặt trong môi
trường kinh tế thị trường hội nhập hiện nay ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu trong luận văn giới hạn như sau:
Về nội dung: Nội hàm VHKD của Viettel chủ yếu được xem xét theo các
khía cạnh: triết lý KD, đạo đức KD, văn hóa doanh nhân, văn hóa DN và một
vài yếu tố khác.
Về thời gian: Thời gian khảo sát VHKD của Viettel giới hạn trong giai

đoạn từ năm 2007 đến năm 2015. Những đề xuất dự kiến cho giai đoạn đến
2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Quá trình triển khai nghiên cứu đề tài đã sử dụng các phương pháp sau đây:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân loại, phân tích, tổng hợp
hóa, khái quát hóa các loại tài liệu nghiên cứu trong phạm vi quan tâm của đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát kết hợp với phân tích và tổng hợp dựa trên các
dữ liệu được báo cáo, thống kê
+ Phương pháp chuyên gia: hỏi ý kiến các chuyên gia (nhà quản lý, lãnh
đạo các cấp, nhân viên, người lao động tại các đơn vị, bộ phận thuộc Công ty)
…về VHKD của Viettel.
- Đề xuất ý tưởng mới:
Kết hợp phương pháp nghiên cứu dự báo với phân tích điểm yếu điểm
mạnh của VHKD tại Viettel để đề xuất giải pháp
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về VHKD ở Việt Nam.
Phân tích, đánh giá thực trạng VHKD của Viettel hiện nay, nêu lên các
điểm thành công, hạn chế và nguyên nhân.
Đề xuất một số giải pháp nhằm củng cố và phát triển VHKD của
4


Viettel trong hoạt động KD thời gian tới.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa kinh doanh
Chương 2: Thực trạng văn hóa kinh doanh của Tập đoàn Viễn thông
Quân đội Viettel

Chương 3: Giải pháp củng cố, phát triển văn hóa kinh doanh của
Viettel

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của văn hóa kinh doanh
1.1.1. Khái niệm văn hóa kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm phức tạp, hiện chưa đạt tới sự thống nhất
nhận thức chung. Cho đến nay vẫn còn hơn 400 khái niệm khác nhau về VH.
Sở dĩ có các khái niệm khác nhau về VH là do cách tiếp cận khác nhau [7].
Theo Edward Burrwett Tylor (1871), văn hoá bao gồm mọi năng lực
và thói quen, tập quán của con người với tư cách là thành viên của xã hội.
Trong định nghĩa này, văn hoá bao gồm ngôn ngữ, tư tưởng, tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, nghi thức, quy tắc, thể chế, chuẩn mực, công cụ, kỹ
thuật, công trình nghệ thuật (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc) và những yếu tố
khác có liên quan đến con người [8] .
Các nhà kinh điển Mác – Lênin cho rằng, VH là tổng hoà những giá trị
vật chất và tinh thần cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng
các giá trị đó vì sự tiến bộ của loài người cùng sự truyền thụ các giá trị đó từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Hình thức khởi đầu và nguồn gốc đầu tiên làm
hình thành và phát triển VH là lao động của con người, phương thức thực hiện
lao động và kết quả của lao động [8].
Theo Unessco: "VH phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống
động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn
ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế
kỷ nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối

sống, và dựa trên đó, từng dân tộc đã khẳng định bản sắc riêng của nước
mình" [1].

6


Giáo trình Quản lý xã hội của trường đại học Kinh tế Quốc dân quan
niệm VH là một thiết chế xã hội cơ bản, là một phức thể, tổng thể các đặc
trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, tình cảm...khắc hoạ nên bản
sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng miền quốc gia, xã hội....VH
có thể là hữu thể, có thể là vô hình [5].
Như vậy, dù theo định nghĩa nào, VH đều chứa một nét chung là “con
người” đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa VH với con
người. VH và con người là hai khái niệm không tách rời nhau. Con người là
chủ thể sáng tạo ra VH. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình,
con người luôn sáng tạo không ngừng để làm nên các giá trị VH. Một trong số
những giá trị VH được con người sáng tạo ra ấy chính là bản thân con người –
con người có VH. Con người sáng tạo ra VH, đồng thời chính con người cũng
là sản phẩm của VH.
Kế thừa hạt nhân hợp lý của các định nghĩa nêu trên và phù hợp với
cách tiếp cận DN, trong luận văn này, VH được hiểu là chuẩn mực giá trị
liên quan đến hành vi của con người, điều tiết hành vi của họ trong những
hoạt động lao động và quan hệ xã hội để vừa đạt được các mục tiêu chung
của tổ chức họ tham gia, vừa thể hiện niềm tin, thái độ, kỳ vọng và mục đích
của từng cá nhân.
1.1.1.2. Khái niệm văn hóa kinh doanh
VHKD là thể hiện của VH chung trong lĩnh vực KD. Tuy nhiên, dưới
giác độ quản trị DN, người ta còn chú ý đến một chiều cạnh mới của VH, đó
là sử dụng các nhân tố VH vào hoạt động KD của các chủ thể trong DN, là
VH mà các chủ thể KD chủ động tạo ra trong quá trình KD, hình thành nên

những kiểu KD ổn định và đặc trưng cho họ.
Trong luận văn này, VHKD được hiểu là việc sử dụng các nhân tố VH
vào hoạt động kD, là VH mà các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra
trong quá trình hình thành nên những nền tảng có tính ổn định và đặc trưng
7


cho hoạt động KD của họ. Nói cách khác, VHKD là tất cả các giá trị tinh
thần (dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể) có được của một DN trong suốt quá
trình hình thành, tồn tại và phát triển của DN ấy – Nó đã trở thành chuẩn
mực và nguồn động lực chủ yếu nhất - thâm nhập vào và chi phối các quan
niệm, tập quán và hành vi KD hướng về chất lượng, sáng tạo, trách nhiệm và
kết hợp hài hòa các lợi ích.
VHKD liên kết con người trong nội bộ với nhau, liên kết DN với xã hội
bằng những giá trị nhân văn, đặt con người vào vị trí trung tâm và quyết định
sự cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Với cách hiểu như vậy, VHKD
là giá trị cốt lõi của DN trong nền kinh tế tri thức/thị trường xã hội và nhân
văn [8].
1.1.2. Đặc trưng của văn hóa kinh doanh
VHKD là VH của một lĩnh vực đặc thù trong xã hội, là một bộ phận
của nền VH dân tộc, xã hội. Vì thế nó cũng mang những đặc trưng chung của
VH như:
Tính tập quán: VH quy định những hành vi được hay không được trong
một xã hội cụ thể. Có những tập quán KD đẹp tồn tại lâu đời như sự khẳng
định những nét độc đáo như tập quán chăm lo đến đời sống riêng tư của người
lao động như trong các DN Nhật Bản, tập quán cung cấp các dịch vụ sau bán
hàng cho khách của nhiều DN hiện đại.
Tính cộng đồng: VH không thể tự tồn tại mà phải dựa vào sự tạo dựng,
tác động qua lại và củng cố của mọi thành viên trong xã hội. VH như là một
sự quy ước chung cho các thành viên trong cộng động xã hội. Đó là những lề

thói, tập tục mà một cộng đồng người cùng tuân theo một cách rất tự nhiên,
không ép buộc.
Tính dân tộc: VH tạo nên nếp suy nghĩ và cảm nhận chung của từng
dân tộc mà người dân tộc khác không dễ gì hiểu được

8


Tính chủ quan: Cùng một sự việc nhưng có thể được hiểu và đánh giá
khác nhau bởi những người có những nền VH khác nhau.
Tính khách quan: VH thể hiện tính chủ quan của từng dân tộc nhưng
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của mỗi người, được chia sẻ và truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. VH tồn tại khách quan ngay cả với các thành
viên trong cộng đồng. Chúng ta chỉ có thể học hỏi các nền VH, chấp nhận nó
chứ không thể biến đổi chúng theo ý muốn chủ quan của mình.
Tính kế thừa: Là sự tích tụ từ hàng trăm ngàn năm của các hoàn cảnh.
Sự sàng lọc và tích tụ qua thời gian làm cho vốn VH của cả một dân tộc thêm
giàu có, phong phú và tinh khiết hơn. Mỗi thế hệ đều cộng thêm đặc trưng
VH của mình vào nền VH dân tộc trước khi truyền lại cho thế hệ sau.
Tính học hỏi: VH không chỉ được truyền từ đời này qua đời khác mà
còn phải do học hỏi mới có được. Đa số kiến thức mà một người có được là
do học hỏi hơn là bẩm sinh sẵn có.
Tính tiến hóa: VH không bao giờ tĩnh lại mà luôn thay đổi, nó luôn tự
điều chỉnh cho phù hợp với trình độ và thực tế. Trong qúa trình hội nhập và
giao thoa với các nền VH khác, nó có thể tiếp thu các giá trị tiến bộ hoặc tích
cực từ những nền VH khác[8].
Tuy nhiên, KD cũng là một hoạt động có những nét khác biệt so với
các hoạt động khác như chính trị, pháp luật, gia đình...nên ngoài đặc trưng
trên, VHKD có những nét đặc trưng riêng phân biệt với VH các lĩnh vực
khác. Điều này được thể hiện rõ ở hai đặc trưng sau của VHKD:

VHKD xuất hiện cùng với sự xuất hiện của thị trường: Nếu như VH nói
chung ra đời từ thuở bình minh của xã hội loài người thì VHKD xuất hiện
muộn hơn. VHKD chỉ ra đời khi nền sản xuất hàng hóa phát triển đến mức
KD trở thành một hoạt động phổ biến và chính thức trở thành một nghề.

9


VHKD phù hợp với trình độ KD của chủ thể KD: VHKD là sự thể hiện
tài năng, phong cách và thói quen của các nhà KD, vì vậy nó phù hợp với
trình độ KD của nhà KD đó [3].
1.1.3. Vai trò của văn hóa kinh doanh
Vai trò của VHKD đối với xã hội
Trong những năm gần đây, giới doanh nhân nói riêng và những người
quan tâm tới sự tăng trưởng, phát triển kinh tế nói chung của đất nước đều
phải thừa nhận vai trò đặc biệt quan trọng của VHKD trong sự phát triển bền
vững của nền kinh tế. Bản thân VH luôn ngầm chứa trong nó giá trị nhân văn,
do đó, VHKD luôn đòi hỏi DN phải gắn bó chặt chẽ việc KD với tính nhân
văn trong KD: không thể đạt hiệu quả bằng bất cứ giá nào mà coi nhẹ những
giá trị nhân văn (thể hiện sự tôn trọng con người và môi trường). VHKD cũng
luôn định hướng cho hoạt động SXKD của mỗi DN theo hướng nâng cao tinh
thần cộng đồng, dân tộc, khuyến khích DN tham gia các hoạt động xã hội như
xóa đói giảm nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên tai, tham gia các hoạt động từ
thiện… Nếu KD thiếu đi yếu tố VH thì xã hội sẽ phải gánh những hậu quả hết
sức nghiêm trọng, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường [3].
Vai trò của VHKD đối với DN
Các giá trị VH của DN có tác động toàn diện lên hoạt động KD của
DN. Nó tạo cho DN những nét VH, bản sắc riêng, góp phần nâng cao khả
năng cạnh tranh của DN và thúc đẩy DN ngày càng phát triển hơn nữa. Vai
trò của các giá trị đó được thể hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:

Nâng cao năng lực cạnh tranh của DN.
Các nhà nghiên cứu cho rằng một DN có VHKD tốt đẹp sẽ tạo lợi thế
cạnh tranh cho chính DN đó. Bởi vì VHKD của DN đó tạo được sự thống
nhất hành động trong đơn vị, giảm thiểu được rủi ro, tăng cường phối hợp và
giám sát lẫn nhau, thúc đẩy động cơ làm việc tích cực của mọi thành viên, tạo
dựng quan hệ tốt đẹp với khách hàng và đối tác, nhờ đó mà tăng hiệu suất và
10


hiệu quả hoạt động của DN, tăng sức cạnh tranh của DN trên thị trường. Đặc
biệt trong môi trường toàn cầu hóa như hiện nay, các DN Việt Nam bước vào
thời kỳ phải cạnh tranh bằng vốn tri thức, bằng tài nguyên con người. Để
tránh tình trạng “chảy máu chất xám” DN nên xây dựng VHKD làm nền tảng
để gắn kết con người, biến mỗi DN thành một thành trì kinh tế vững chắc,
hoàn thành sứ mệnh của chính mình. Một môi trường làm việc tốt với đời
sống VH cao sẽ tạo điều kiện cho tài năng phát triển, nâng cao năng lực cá
nhân, nhân tài và phát triển tinh thần đoàn kết của các thành viên[3].
Tạo bản sắc riêng cho DN.
Các giá trị VHKD của DN giúp nhận biết sự khác nhau giữa DN này
với DN khác, giúp DN xây dựng tên tuổi của mình. Sự khác biệt đó cũng tạo
ra những tài sản vô hình như: sự trung thành của nhân viên, bầu không khí
làm việc ấm cúng giúp đẩy nhanh tiến độ trong quá trình thảo luận và ra các
quyết định quản lý, sự tin tưởng của nhân viên vào các quyết định và chính
sách của DN, tinh thần đồng đội trong mọi công việc của DN...
Các giá trị VHKD của DN góp phần làm giảm những mâu thuẫn trong DN.
VHKD góp phần xây dựng không khí đoàn kết trong đội ngũ nhân viên.
Các nhà VH đều thống nhất cho rằng, VHKD có vai trò tích cực trong việc
khuyến khích sự gắn kết xã hội trong DN. Việc tạo ra một nền VH chung sẽ tạo
ra được sự thống nhất trong quan điểm nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn và lợi ích
chung cho hành động của các thành viên.

Văn hóa kinh doanh hỗ trợ hoạt động phối hợp và kiểm soát trong DN
Nhìn một cách rộng hơn, các giá trị văn VH thúc đẩy sự thống nhất
trong nhận thức cũng chính là tạo thuận lợi trong phối hợp và kiểm soát. Các
giá trị VH biểu hiện trong truyền thống của DN, tạo ra khuôn mẫu ứng xử của
nhân viên trong DN đó, được các thành viên chấp nhận và tuân thủ, thể hiện
sự hòa đồng bên trong DN nói chung cũng như việc ra quyết định trong
những trường hợp cụ thể. Đặc biệt là trong việc gặp phải những tình huống
11


thực tế phức tạp, do sự khác nhau về nhận thức, về VH địa phương của các
thành viên thì VHKD của DN sẽ có tác dụng để phạm vi hóa sự lựa chọn[8].
Văn hóa kinh doanh góp phần tạo động cơ cho nhân viên trong DN
Các giá trị VHKD của DN có một vị trí quan trọng trong thúc đẩy động
cơ làm việc cho các thành viên - yếu tố quyết định đến hiệu suất và hiệu của
hoạt động của DN. Hầu hết các DN đều cố gắng tạo động cơ làm việc cho
nhân viên của họ thông qua cơ chế thưởng phạt. Tuy nhiên, lý thuyết về động
cơ làm việc cho rằng, mong muốn làm việc của nhân viên còn chịu tác động
của các động cơ khác như: ý nghĩa và sự thích thú đối với công việc, mục tiêu
của họ, họ thấy được giá trị của công việc và được đảm bảo an toàn trong
công việc. Một hình thái VH phù hợp, sự thống nhất có tác động tạo ra sự
trung thành thúc đẩy niềm tin và giá trị chân chính, khuyến khích mọi thành
viên mang hết nhiệt huyết để phục vụ DN.
Ngoài ra các giá trị VHKD còn có tác dụng tăng cường uy tín cho DN
hình thành trong quá trình thực hiện mục tiêu của DN. Nó tạo nên giá trị DN,
đạo đức DN, quản lý DN và thương hiệu DN. VHKD là nguồn gốc của sự
sáng tạo, đoàn kết trong DN, là động lực tinh thần cho sự tồn tại, cạnh tranh
và phát triển của DN trong môi trường kinh tế thị trường hiện đại.[8]
1.2. Các yếu tố cấu thành văn hóa kinh doanh
1.2.1. Triết lý kinh doanh

Triết lý KD trong DN tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: có thể là
một văn bản, một câu khẩu hiệu hoặc một bài hát; cũng có thể không được thể
hiện dưới dạng vật chất mà chính là những giá trị niềm tin trong các thành
viên của DN. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của triết lý KD trong DN, tựu chung
lại, gồm ba phần chính là sứ mệnh của DN, các phương thức hành động và
các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp đặc thù cho DN.
Sứ mệnh kinh doanh

12


Sứ mệnh là các mục tiêu cơ bản của DN: Một văn bản triết lý KD
thường bắt đầu bằng việc nêu ra sứ mệnh của DN hay chính là tôn chỉ, mục
đích hoạt động của DN. Đây là phần nội dung có tính khái quát cao, mô tả
DN là ai, DN làm những gì, làm vì ai và làm như thế nào.
Phương thức hành động
Sau khi nêu lên mục tiêu cơ bản cho DN mình, DN sẽ phải tiếp tục đề
ra các phương thức hành động. Các phương thức hành động này trả lời cho
câu hỏi DN sẽ thực hiện sứ mệnh và đạt tới các mục tiêu của nó như thế nào,
bằng nguồn lực và phương tiện gì. Tuy mỗi DN có phương thức hành động
riêng, song nội dung của nó thường bao gồm: Hệ thống các giá trị của DN và
các biện pháp quản lý trong DN. Trong đó, hệ thống các giá trị của DN là
những niềm tin căn bản thường không được nói ra của những người làm việc
trong DN. Các biện pháp và phong cách quản lý trả lời cho câu hỏi: "DN hoàn
thành sứ mệnh kinh doanh bằng con đường nào? Với nguồn lực gì?"
Các nguyên tắc
Các nguyên tắc tạo ra một phong cách ứng xử, giao tiếp và hoạt động
kinh doanh đặc thù của DN cũng là một phần không thể thiếu trong triết lý
DN. Các văn bản triết lý DN thường đưa ra nguyên tắc chung hướng dẫn việc
giải quyết những mối quan hệ giữa DN và xã hội nói chung cũng như cách

ứng xử giữa các thành viên trong nội bộ DN nói riêng.
1.2.2. Đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh trong quản trị nhân lực bao gồm các khía cạnh sa
Đạo đức trong tuyển dụng bổ nhiệm, sử dụng lao động: Trong hoạt
động tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng lao động các nhà quản lý luôn chú ý đảm
bảo sự công bằng, không phân biệt đối xử, tôn trọng quyền riêng tư cá nhân
và có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với người lao động.

13


Đạo đức trong đánh giá lao động: Hành vi hợp đạo đức của người quản
lý trong đánh giá lao động là đảm bảo sự khách quan, công bằng và không
định kiến.
Đạo đức trong bảo vệ người lao động: Thể hiện ở việc xây dựng môi
trường an toàn cho người lao động làm việc.
Đạo đức kinh doanh trong marketing
Quan hệ giữa người tiêu dùng và người sản xuất được bắt đầu từ hoạt
động marketing. Đó là điểm khởi đầu cho việc nhận diện, cân nhắc và lựa
chọn hàng hóa của người tiêu dùng và cũng là điểm khởi đầu cho việc thiết
kế, tính toán và lựa chọn phương pháp, cách thức cung ứng của người sản
xuất. Lợi ích của mỗi bên đều dựa vào những thông tin ban đầu này. Quảng
cáo đối với người tiêu dùng và người sản xuất là rất cần thiết. Nghiên cứu thị
trường cũng vì lợi ích của hai bên. Tuy nhiên, các vấn đề đạo đức cũng có thể
nảy sinh từ các hoạt động của marketing.[13]
Vấn đề đạo đức trong marketing có thể liên quan đến việc ràng buộc
khách hàng với sản phẩm hay với DN, làm cho nhu cầu tiêu dùng bị lệ thuộc
vào sản phẩm và hoạt động SXKD của DN một cách có chủ ý.
Đạo đức KD đòi hỏi DN làm giàu trên cơ sở tận tâm phục vụ khách
hàng, tôn trọng quyền lợi và bảo hộ lợi ích người tiêu dùng.

Đạo đức kinh doanh trong kế toán tài chính
Trong lĩnh vực kế toán tài chính các vấn đề về đạo đức cũng có thể nảy
sinh từ mối quan hệ với bên ngoài và bên trong.
Trong mối quan hệ với bên ngoài, công việc kế toán có nhiệm vụ chuẩn
bị và cung cấp những thông tin và số liệu về tình trạng tài chính và hoạt động
tài chính của DN, … Những số liệu này có thể sử dụng cho việc tính thuế,
phục vụ cho việc ra quyết định và lựa chọn đầu tư, đánh giá kết quả hoạt động
của DN, xác minh giá trị tài sản của DN. Những số liệu nay, nếu được làm sai
lệch có chủ ý, có thể dẫn đến những quyết định sai lầm. Để hạn chế những sai
14


lầm, nhiều quy định và văn bản pháp lý đã được định ra làm cơ sở cho việc
kiểm soát chặt chẽ các hoạt động tài chính. Tuy nhiên những người làm kế
toán, nếu thiếu ý thức hoặc vô đạo đức, có thể lợi dụng những khe hở trong hệ
thống luật pháp để luồn lách vụ lợi.[13]
Trong mối quan hệ bên trong đơn vị, công việc kế toán bao gồm công
việc chuẩn bị và cung cấp nguồn tài chính cần thiết, kịp thời cho các hoạt
động tác nghiệp. Ở nhiều DN, nhiệm vụ này không được nhận thức và quán
triệt một cách đúng đắn. Bộ phận tài chính ở một số DN có thể lạm quyền và
đóng vai trò ra quyết định tác nghiệp chứ không phải là một đơn vị chức
năng. Về chức năng, việc phê duyệt của bộ phận chịu trách nhiệm về tài chính
chỉ nhằm khẳng định tính hợp thức của các đề án tài chính và xác minh nguồn
chi chứ không phải phê duyệt một quyết định của một người hay đơn vị của
một cấp chức năng khác. Sự lạm quyền có thể làm đảo lộn mối quan hệ quyền
hạn – trách nhiệm trong cơ cấu tổ chức và làm cho hệ thống tổ chức và quản
lý trở nên kém hiệu lực, do vi phạm nguyên tắc “cân đối giữa quyền hạn và
chức năng trong quản lý”. Một vấn đề đạo đức khác liên quan trực tiếp đến tư
cách đạo đức của người làm công tác quản lý tài sản và tiền của một DN là ở
chỗ: do nắm chắc các quy định về quản lý tài chính, đồng thời là người có khả

năng tiếp cận dễ dàng nhất với các nguồn tài sản của DN, họ có thể lợi dụng
và lạm dụng chúng vì mục đích riêng.
Sự điều chỉnh số liệu trong bảng cân đối kế toán cuối kỳ cũng là một
luật “bất thành văn”. Đa phần những thay đổi nhỏ mang mục đích tích cực để
phù hợp với những biến động của thị trường. Tuy nhiên việc phân biệt được
tích cực với tiêu cực, ranh giới giữa đạo đức và phi đạo đức cũng khó có thể
rõ ràng. Chẳng hạn DN có thể điều chỉnh một vài số liệu trong báo cáo tài
chính để làm yên lòng các nhà đầu tư, khuyến khích họ tiếp tục đổ vốn, đây là
điều chỉnh tích cực theo quan điểm của DN nhưng các cổ đông có thể cảm
nhận bị lừa dối và lo lắng về sự bất ổn trong hoạt động KD của DN [13].
15


Nói tóm lại, người làm công tác kế toán tài chính phải có trách nhiệm thực
hiện những nghĩa vụ kinh tế, pháp lý, đạo lý nhất định. Ngoài những biểu hiện
nói trên, đạo đức KD của DN còn được thể hiện qua sự cạnh tranh lành mạnh
của DN với đối thủ và những đóng góp, cống hiến của DN cho xã hội.
1.2.3. Văn hóa doanh nhân
VH doanh nhân là toàn bộ các nhân tố VH mà các doanh nhân chọn
lọc, tạo ra, sử dụng và biểu hiện trong hoạt động KD của mình. Tài năng, đạo
đức và phong cách của nhà KD có vai trò quyết định trong việc hình thành
VHKD của chủ thể KD. Doanh nhân không chỉ là người quyết định cơ cấu tổ
chức và công nghệ KD, mà còn là người sáng tạo ra các biểu tượng, các ý
thức hệ, ngôn ngữ, niềm tin, nghi lễ và huyền thoại,... Trong quá trình xây
dựng và phát triển KD, VH của doanh nhân sẽ được phản chiếu lên VHKD.
Vì vậy, đòi hỏi chủ thể KD phải vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là cơ sở
của tài. Tài năng, đạo đức, phong cách của chủ thể KD có vai trò quyết định
trong việc hình thành VHKD. Một số tiêu chuẩn được dùng để đánh giá VH
doanh nhân bao gồm: sức khỏe, đạo đức, trình độ và năng lực, phong cách và
thực hiện trách nhiệm xã hội [5].

Đạo đức doanh nhân
Đạo đức doanh nhân là một thành tố quan trọng tạo nên VH doanh
nhân. Có thể hình dung một số tiêu chuẩn không thể thiếu đối với đạo đức của
các doanh nhân như sau:
Thứ nhất, tính trung thực thể hiện ở sự nhất quán giữa nói và làm, danh
và thực. Tính cách này sẽ khiến các doanh nhân không có xu hướng dùng thủ
đoạn xấu xa để kiếm lời, ngược lại, họ coi trọng công bằng, chính đáng và
đạo lý trong KD.
Thứ hai, tôn trọng con người thể hiện từ việc coi trọng nhu cầu, sở
thích và tâm lý khách hàng, tôn trọng nhân viên, trọng chữ tín.

16


Thứ ba, vươn tới sự hoàn hảo: điều này giúp doanh nhân không ngừng
tu dưỡng bản thân, có hoài bão, có lý tưởng, giúp doanh nhân hình thành lý
tưởng nghề nghiệp và quyết tâm vươn lên để thành đạt bằng KD.
Thứ tư, đương đầu với thử thách: đức tính này giúp doanh nhân không
ngại khó, vượt qua những gian khổ mà nghề KD gặp phải.
Thứ năm, coi trọng hiệu quả gắn liền với trách nhiệm xã hội: doanh
nhân phải không ngừng nâng cao hiệu quả trong hoạt động KD, đồng thời
phải có những đóng góp xứng đáng cho xã hội.
Tài năng doanh nhân
Tài năng KD của các doanh nhân có thể được biểu hiện thông qua các
năng lực sau:
Thứ nhất, sự hiểu biết về thị trường: bao gồm hiểu biết về ngành hàng,
về thị trường, về khách hàng, về đối thủ cạnh tranh,..
Thứ hai, những hiểu biết về nghề KD: kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ kinh doanh như kiến thức về phương pháp quản trị, marketing, chất lượng
sản phẩm, tài chính, công nghệ,…

Thứ ba, hiểu biết về con người và khả năng xử lý tốt các mối quan hệ:
thể hiện qua khả năng giao tiếp, khả năng nuôi dưỡng và phát triển các mối
quan hệ phục vụ công việc KD.
Thứ tư, nhanh nhạy, quyết đoán và khôn ngoan: đây là năng lực cốt yếu
của các nhà KD trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường. Có được
năng lực này mới có thể nắm bắt được các cơ hội thuận lợi mà thị trường
mang lại.[5]
1.2.4. Văn hóa doanh nghiệp
1.2.4.1.Văn hóa trong ứng xử nội bộ
Letitia Basldrige, một chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực ứng xử tại Mỹ,
cho rằng: “Phép ứng xử khéo léo là hiệu quả có giá trị, chúng làm tăng phẩm
chất của đời sống, đóng góp cho đạo đức người lãnh đạo tốt nhất, làm đẹp
17


thêm hình tượng của DN, và do đó nó đóng một vai trò chủ yếu trong vấn đề
phát sinh lợi nhuận. Mặt khác, việc ứng xử không tốt, dốt nát, không cẩn thận
thì làm mất đi nhân cách con người, cũng như sự thăng tiến và ngay cả việc
làm”. Như vậy, cách ứng xử của cấp trên, cấp dưới trong nội bộ DN có tác
động qua lại với nhau trên tinh thần hợp tác thiện chí và cùng có phản ứng
tích cực như nhau ở tất cả các cá nhân, bộ phận trước những vấn đề cần giải
quyết của DN. Nếu mối quan hệ này được kết hợp hài hòa với mục tiêu vì lợi
ích chung của DN sẽ tạo nên sức mạnh đưa DN tiến lên phía trước [8].
Văn hóa ứng xử bao gồm: VH ứng xử của cấp trên đối với cấp dưới;
VH ứng xử của cấp dưới và cấp trên; VH ứng xử giữa các đồng nghiệp; VH
ứng xử với công việc.
Những người lao động và tập thể lao động trong DN đều phải dựa vào
nhau để tồn tại và phát triển. Họ cần gắn bó với nhau và cố gắng để làm sao
trong đời sống thường nhật, ranh giới giữa người quản lý và người bị quản lý
càng giảm bớt khoảng cách càng tốt. Một trong những yêu cầu có thể giảm

được khoảng cách là họ phải hiểu nhau, đồng cảm cùng nhau, quan tâm đến
nhau và biết cách giúp đỡ nhau khi cần thiết. Từ đó xây dựng những nét VH
riêng có trong DN, làm sao cho các thành viên cảm nhận được tình cảm gắn
bó lẫn nhau trong một gia đình lớn là DN. Ngoài giờ lao động, họ có nhiều lý
do để giao tiếp, ứng xử. Có thể xây dựng VH trong DN qua việc xây dựng và
giữ gìn truyền thống của DN, thể hiện sự quan tâm đến nhau như tổ chức kỷ
niệm ngày sinh, ngày cưới, ngày về nhà mới...; thăm hỏi khi đồng nghiệp ốm
đau, sinh con; chia buồn khi đồng nghiệp có người thân qua đời. Sự chia vui
và chia buồn, tính chất của từng sự việc rất rõ ràng, VH ứng xử phải phù hợp
với cách thức thực hiện rất khác nhau giữa các DN [8].
1.2.4.2. Văn hóa trong xây dựng và phát triển thương hiệu
Hình ảnh thương hiệu là tất cả những sự liên tưởng khi khách hàng
nghĩ đến một thương hiệu, là một tập hợp những liên kết có tổ chức dưới dạng
18


hình ảnh hiển thị hay hình ảnh trong tâm thức đối tượng tiêu dùng. Tạo dựng
hình ảnh thương hiệu là một việc làm mang tính chiến lựoc và dài hạn. Vì vậy
nó đòi hỏi phải có sự đồng lòng và cam kết xuất phát từ cấp lãnh đạo cao nhất
của DN. Nếu hiểu thương hiệu là những giá trị của DN mà khách hàng, xã hội
nhận thức được thì VHDN là một phần không thể thiếu để cấu thành nên hình
ảnh thương hiệu. Việc xây dựng thương hiệu phải là công việc đồng bộ từ cấu
trúc đến môi trường VHDN, chăm lo các sản phẩm, dịch vụ đồng thời cũng
không được quên quảng bá hình ảnh và tên tuổi của mình [4].
Một DN sẽ trở nên danh tiếng bởi chất lượng sản phẩm, tinh thần, thái
độ phục vụ khách hàng v.v... Đặc biệt trong lĩnh vực KD dịch vụ thì điều này
thể hiện rất trực giác, trực diện, khách hàng cảm nhận một cách dễ dàng.
Cung cách giao tiếp, thái độ ứng xử, sự thể hiện các mối quan hệ xã hội – tất
cả đều tạo ra những cảm nhận tiêu cực hay tích cực đối với một thương hiệu
và qua một quá trình trải nghiệm, khách hàng sẽ có ấn tượng tốt hay xấu về

một thương hiệu. Tất cả những điều nói trên đòi hỏi DN phải xây dựng
VHDN, phải có triết lý KD, đạo đức KD ... Trước khi tạo dựng lòng tin nơi
khách hàng, nội bộ DN phải tin vào chính mình, tin vào sản phẩm, dịch vụ
của mình. DN cần phải thể hiện tính nhân văn, triết lý lấy con người làm gốc
ngay trong các mối quan hệ nội bộ cũng như chiến lược phát triển KD của
mình. Đó là điều mà người ta gọi là xây dựng thương hiệu từ bên trong[4].
VHKD còn thể hiện qua việc xây dựng các sản phẩm hàng hóa có
thương hiệu. Một khi các sản phẩm hàng hóa đã khẳng định được thương hiệu
thì sản phẩm hoặc hàng hóa đó giữ gìn được qua rất nhiều đời, có khi hàng
trăm năm. Điều này rất quan trọng, qua thương hiệu của sản phẩm nói lên
được mức độ phát triển và sự văn minh của xã hội đó. Trong một xã hội văn
minh và ổn định, người tiêu dùng chỉ mua và sử dụng những hàng hóa nào có
thương hiệu. Đây chính là điều mà VHDN đã làm được bởi bản chất của VH
là cái đẹp, cái tốt, là cái có chất lượng được tin cậy. Một thị trường có số hàng
19


hóa có thương hiệu nhiều bao nhiêu thì nó sẽ làm diện mạo của thị trường đó
sang trọng, văn minh và ổn định vững vàng lên bấy nhiêu. Một bản chất VH
nữa của VHDN là chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm tạo ra được uy
tín nhất định cho DN và từ đó góp phần tạo nên nét VH cho DN và bản sắc
riêng của từng DN. Một sản phẩm có bề dày thời gian càng lâu càng chứng tỏ
được chất lượng của nó, bởi trải qua bao nhiêu thời gian thì sản phẩm đó có
bấy nhiêu lần cải tiến cả về chất lượng lẫn mẫu mã và ngày càng tốt lên, đẹp
lên, hoàn thiện hơn. Các sản phẩm mà DN làm ra góp phần tạo nên diện mạo
của chính DN đó [4].
1.2.4.3. Văn hóa trong hoạt động marketing
*Văn hóa trong quảng bá thương hiệu
Thương hiệu chính là linh hồn, là sức sống của một DN. Thương hiệu có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của DN. Thương

hiệu là một thành phần phi vật thể, nhưng là thành phần thiết yếu của DN.
Thương hiệu xét từ góc độ VH chính là sự tích hợp ở trình độ cao của VHKD.
Như vậy thương hiệu là một quan hệ VH giữa người với sản phẩm, giữa
người sản xuất và người tiêu dùng, hay đó chính là mối quan hệ giữa thương
hiệu với khách hàng. Ý nghĩa thực sự của thương hiệu là sự nâng cao và thăng
hoa không ngừng của chính thương hiệu, hiệu quả và VH trong quá trình cạnh
tranh [7].
*Văn hóa trong định giá sản phẩm
Chính sách giá thường bị ảnh hưởng bởi các thái độ VH đối với sự thay
đổi thông qua “giá tâm lý”. Ở một số nơi, sự thay đổi thường xem là tích cực
nên hàng thời trang mốt được đặt giá rất cao vì nó tượng trưng cho sự thay
đổi. Nhưng ở nơi khác sự thay đổi có thể được xem là không tốt, một mức giá
cao hơn cho sản phẩm mới thường chỉ làm sản phẩm thêm quá đắt cho người
tiêu dùng bình thường.

20


×