Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại trường đại học hoa sen hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ ĐIỆP

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THANH THỦY

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin bày tỏ lịng biết ơn và sự kính trọng
tới Lãnh đạo Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam – Học Viện Khoa học
xã hội, quý thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy và cung cấp những kiến thức
cơ bản, sâu sắc, tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên
cứu tại học viện
Đặc biệt, với tấm lịng thành kính, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất
đến Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Thủy, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học
và tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.


Em xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, các trưởng khoa
và trưởng bộ phận các phòng ban, đồng nghiệp là giảng viên, nhân viên
trường Đại học Hoa Sen đã chia sẻ những tư liệu quan trọng, cần thiết cho
nghiên cứu của luận văn. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cấp lãnh đạo trực
tiếp và những người thân yêu đã tạo điều kiện cả về thời gian, vật chất và tinh
thần cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Trong q trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, mặc dù
bản thân đã luôn cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm
khuyết. Kính mong được sự góp ý, chỉ dẫn của quý Thầy, quý Cô và các bạn
đồng nghiệp.
Trân trọng và biết ơn!
Tp.HCM, Ngày …. tháng …năm 2016
Tác giả

Nguyễn Thị Điệp


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng nội dung của bản luận văn này chưa được nộp
cho bất kỳ một chương trình cấp bằng cao học nào cũng như bất kỳ một
chương trình đào tạo cấp bằng nào khác.
Tơi cũng xin cam kết thêm rằng bản Luận văn này là nỗ lực cá nhân
tơi. Các kết quả, phân tích, kết luận trong luận văn này (ngồi các phần được
trích dẫn) đều là kết quả làm việc của cá nhân tôi
Người viết luận văn

Nguyễn Thị Điệp

MỤC LỤC
Nguyễn Thị Điệp.............................................................................................................................2



MỤC LỤC........................................................................................................................................3
Chương 1........................................................................................................................................10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ............................................10
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.............................................................................................................10
1.1 Khái niệm về dân chủ cơ sở...................................................................................................10
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở..........................................................................13
1.3. Quy chế dân chủ cơ sở trong trường đại học hiện nay.........................................................23
Chương 2........................................................................................................................................29
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA
SEN HIỆN NAY............................................................................................................................29
2.1. Thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở của Trường Đại Học Hoa Sen hiện nay...........29
2.2. Kết quả đạt được và những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại
trường Đại học Hoa Sen hiện nay................................................................................................62
2.3. Một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại
trường Đại học Hoa Sen hiện nay:...............................................................................................69
KẾT LUẬN....................................................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................76

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 2.1. Sơ đồ tổ chức Trường Đại học Hoa Sen (Tháng 06/2016).......................33
Bảng 2.2. Các nội dung báo cáo của Khoa Đào Tạo Chuyên Nghiệp......... .……...41
Bảng 2.3. Các nội dung báo cáo của Khoa Khoa học công nghệ............................ 41
Bảng 2.4. Các nội dung báo cáo của Khoa Kinh Tế Thương Mại .......................... 42
Bảng 2.5. Các nội dung báo cáo của Khoa Ngơn ngữ văn hóa học..........................42

Bảng 2.6. Các nội dung báo cáo của Chương Trình Giáo Dục Tổng Quát.............. 43
Bảng 2.7. Các nội dung báo cáo của Phòng Nhân Sự........................................ .….43
Bảng 2.8. Các nội dung báo cáo của Phòng Hành Chính Quản Trị…..................... 43
Bảng 2.9. Các nội dung báo cáo của Phịng Truyền Thơng..................................... 44
Bảng 2.10. Các văn bản, quy chế quy định được nhà trường công khai ................. 47
Bảng 2.11. Hiểu biết của sinh viên về công tác đào tạo (đơn vị tính phần trăm)….52
Bảng 2.12. Tỷ lệ % các khoản chi của nhà trường…………………………..........56
Bảng 2.13. Phần hiểu biết của sinh viên về trường Đại Học Hoa Sen......................58
Bảng 2.14. Công khai quy chế, quy định, kết quả đào tạo........................................60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là
một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm. Đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã
hội từ cơ sở nhằm phát huy tính chủ động, tích cực tham gia giám sát quản lý nhà
nước của người dân, khắc phục được tình trạng quan liêu, tham ơ, tham nhũng và
mất dân chủ.
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng quy chế
dân chủ ở cơ sở góp phần quan trọng củng cố quyền làm chủ của nhân dân, nhằm phát
huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sau nhiều năm triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong thực tế đã cho thấy
kết quả bước đầu có ý nghĩa trong đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân. Tuy
nhiên, vẫn cịn bộc lộ những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị
vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Khơng ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình
thức, có nơi rất nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, gia trưởng còn nặng. Đồng thời cũng xuất
hiện khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không đi liền với thực hiện kỷ luật và

pháp luật. Tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh, tham ô, nhũng nhiễu gây phiền
hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa được đẩy lùi, phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở là chủ trương đúng đắn, phù hợp với ý Đảng lòng dân, phát
huy sức sáng tạo, tạo động lực trong lao động, sản xuất và kiến tạo xã hội mới ấm
no, hạnh phúc.
Để đáp ứng yêu cầu đó, trong Pháp lệnh về dân chủ cơ sở Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành các quy chế có nội dung pháp lý cho việc phát huy quyền làm chủ
của người lao động trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học. Trên cơ sở đó Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo ban hành quyết định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT của Bộ
trưởng Bộ giáo dục ngày 01/3/2000 về “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
nhà trường”, nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất những điều Luật Giáo dục
1


quy định theo phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong các
hoạt động của nhà trường thơng qua các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại
diện; đảm bảo cho công dân, cơ quan, tổ chức được quyền giám sát, kiểm tra, đóng
góp ý kiến tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục, làm cho giáo dục thực sự là của
dân, do dân và vì dân.
Trường Đại học Hoa Sen thành lập từ năm 1991 đến nay. Quy chế dân chủ cơ
sở của Trường được xây dựng và thực hiện trên cơ sở Chỉ thị 30-CT/TW và Nghị
định 71/1998 của Chính phủ, Quyết định 04/2000/QĐ-BGD&ĐT đã có những đóng
góp thiết thực cho hoạt động thực tiễn của nhà trường trong công tác quản lý, đào
tạo nhằm phát huy quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của người dạy và
người học, xây dựng nề nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà trường,
ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp
với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ thực
tiễn đó, học viên đã chọn đề tài "Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại trường Đại
học Hoa Sen hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân chủ cơ sở trở thành đối tượng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, có ý
nghĩa thiết thực đối với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong bối cảnh
hiện nay. Vì vậy, trong thời gian qua đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu, bài viết khoa
học đề cập đến vấn đề này theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Trong đó, chúng ta
có thể kể đến một số hướng tiếp cận và nghiên cứu về dân chủ cơ sở như sau:
2.1. Hướng tiếp cận trên phương diện lý luận như:
- PGS.TS Nguyễn Cúc (2002), Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình
hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và thực tiễn
của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay ở nước ta.
- TS. Lương Gia Ban (chủ biên) (2003), Dân chủ và việc thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu tương đối
cơ bản về một số tư tưởng dân chủ, về dân chủ xã hội chủ nghĩa, những nguyên tắc,
lý luận, quan điểm của Đảng ta về dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở
ở Hà Nội và một số địa phương ở miền Bắc.
2


- Trần Bạch Đằng (12/2003), Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của
dân tộc Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35. Trong bài viết này, tác giả khẳng định
thực hiện dân chủ ở cơ sở là một khâu rất quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế nhân
dân làm chủ xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo tác giả, đây là một
vấn đề khơng chỉ mang ý nghĩa thời sự mà cịn tiếp nối truyền thống, phát huy sức
mạnh của dân được hình thành trong lịch sử mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc ta.
- TS. Đoàn Minh Huấn (2004), Dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và quá
trình mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8.
Tác giả làm rõ vai trò, đặc trưng của dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, qua đó
khẳng định: trong giai đoạn hiện nay, muốn mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở

nước ta, cần phát huy đúng đắn ưu thế của mỗi hình thức dân chủ, đồng thời cần kết
hợp chặt chẽ dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
- PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh - Th.S. Tào Thị Quyên (2010), Dân chủ trực
tiếp ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Đây là kỷ yếu
Hội thảo Công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
dân chủ và dân chủ trực tiếp của một số nước và Việt Nam, các tác giả đã đánh giá
thực trạng thực hiện dân chủ trực tiếp và nêu ra các giải pháp nhằm phát huy các
hình thức dân chủ trực tiếp.
- PGS.TS Trần Khắc Việt (2004), Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay -Vấn
đề đặt ra và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9. Tác giả chỉ ra các vấn đề nảy
sinh trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta, đồng thời đưa
ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy dân chủ trong tình hình hiện nay.
- Nguyễn Thị Vy (2014), Mối liên hệ giữa hoàn thiện cơ chế thực hiện dân
chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở với việc thúc đẩy quyền con người, quyền công dân
theo tinh thần hiến pháp năm 2013, Kỷ yếu hội thảo “một số vấn đề lý luận, thực
tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên Thế Giới và ở Việt Nam” Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội. Trong bài viết tác giả lý giải về tính tất yếu phải xây dựng và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở nước ta hiện nay. Nhấn mạnh tầm quan trọng
về vai trò làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

3


- Đào Trí Úc (Chủ biên), Trịnh Đức Thảo, Vũ Công Giao (2014), Một số vấn
đề lý luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả trình bày các vấn đề về lý luận, thực tiễn và
các mơ hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt
Nam. Đề xuất những quan điểm, giải pháp hồn thiện khn khổ pháp luật và các
cơ chế bảo đảm dân chủ trực tiếp và dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.
Ngồi ra cịn những đề tài nghiên cứu, bài báo, bài viết của các tác giả đã làm

rõ cơ sở lý luận về dân chủ. Qua đó, khẳng định rằng: muốn xây dựng nhà nước
pháp quyền mà ở đó con người là trung tâm trong một xã hội dân chủ, công bằng và
văn minh; Đảng, Nhà nước và nhân dân ta một mặt phải kiên quyết khắc phục
những yếu kém; mặt khác phải xây dựng một xã hội có kỷ cương, pháp luật và thực
hành dân chủ như: Ban tổ chức – Cán bộ chính phủ (2001), Hướng dẫn triển khai
Qui chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Hồng Chí Bảo (1992),
Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Thông tin lý luận, số 9. Đỗ Mười
(1998), Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, Tạp chí cộng sản, số 20.
Trần Quang Nhiếp (1998), Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Tạp chí cộng sản, số 13. Lê
Khả Phiêu (1998), Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện
thiết chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí cộng sản, số 3. Đỗ Trung Hiếu (2002), Một số
khía cạnh của khái niệm dân chủ, Tạp chí Thơng tin khoa học xã hội, số 3. Trần
Hậu Thành (2000), Dân chủ và mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền với dân
chủ, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 10.
2.2. Những nghiên cứu về dân chủ cơ sở dưới góc độ thực tiễn tại các địa
phương ở nước ta hiện nay:
- TS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và
dân chủ hóa đời sống xã hội nơng thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả trình bày rõ
thực trạng, tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nơng thơn miền núi
trước u cầu của q trình dân chủ hóa đời sống xã hội, xem xét những nguyên
nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
4


trong thực hiện dân chủ, nêu lên những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở.
- TS. Nguyễn Thị Ngân (2002 - 2003), Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. Tác giả

nghiên cứu thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở các tỉnh đồng bằng
sông Hồng, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực
hiện quy chế dân chủ ở đồng bằng sông Hồng.
- Nguyễn Văn Sáu – Hồ Văn Thông (2003), Thể chế dân chủ và phát triển nông
thôn Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong đó, các nhà nghiên cứu
lý luận ở nước ta hiện nay đã phân tích hết sức sâu sắc những lý luận chủ yếu về dân chủ,
về đổi mới hệ thống chính trị, về những nội dung và phương hướng phát triển nông thôn
Việt Nam hiện nay.
- PGS. TS. Hồng Chí Bảo (2008) Dân chủ và dân chủ ở nơng thơn trong tiến
trình đổi mới”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cơng trình này tác giả đã
nêu lên tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở, nhất là tầm quan trọng của
thực hiện dân chủ ở nông thôn; thực trạng và những hạn chế trong thực hiện dân
chủ ở nông thôn trong thời gian qua. Qua đó tác giả đề ra các giải pháp thực hiện
dân chủ trong tiến trình đổi mới ở nơng thơn.
- Phạm Ngọc Trâm 2012, Nhìn lại q trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở 1998 - 2012, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11. Bài viết đã bổ sung nhận thức mới, đề
xuất cách làm mới để xây dựng, thực hiện dân chủ phù hợp với truyền thống của
dân tộc, đặc điểm lịch sử và của thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
- Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã
phục vụ xây dựng nông thôn mới, Nxb Tư pháp, Hà nội. Tác giả trình bày chủ
trương, đường lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân
chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Phân tích lý luận vấn đề thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới. Đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nơng thơn mới qua thực tế của
tỉnh Thái Bình. Đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.

5



- Nguyễn Văn Phương (2014), Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc xã, phường,
thị trấn tỉnh Bắc Ninh trong thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay, Luận án Tiến sĩ,
Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trên cơ sở luận giải làm rõ những vấn đề cơ
bản lý luận về dân chủ ở cơ sở và thực tiễn hoạt động của Mặt trận tổ quốc trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở, góp phần xây dựng Mặt trận tổ quốc ở xã, phường, thị
trấn tỉnh Bắc Ninh vững mạnh và xã, phường, thị trấn nói chung của nước ta trong
việc thực hiện dân chủ ở cơ sở hiện nay.
- TS. Đỗ Hương Giang (chủ nhiệm), Một số vấn đề về dân chủ cơ sở ở nông
thôn Nam bộ trong phát triển bền vững 2011-2020. Viện Phát triển Bền vững vùng
Nam Bộ cơ quan chủ trì. Trong đề tài này với cách tiếp cận đa chiều, sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau, tác giả đã chỉ ra được mối quan hệ giữa dân chủ cơ sở và
quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội tại
vùng Nam bộ, trong đó có các tỉnh khu vực đồng bằng sơng Cửu Long.
Ngồi ra cịn các cơng trình nghiên cứu, bài viết, luận văn của các tác giả đã
tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, thực hiện và đưa ra
các biện pháp để quy chế dân chủ cơ sở thực sự nhanh chóng đi vào đời sống ngày
càng trở thành nhân tố tích cực, thúc đẩy q trình dân chủ hóa như: PGS. TS
Dương Xn Ngọc (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Minh Thi (2000), Thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tại các vùng nông thôn miền núi của tỉnh Bắc Giang
hiện nay, Luận văn thạc sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2.3 Những nghiên cứu về dân chủ cơ sở từ thực tiễn các cơ quan, trường
học ở nước ta hiện nay:
- Nguyễn Thị Xuân Mai (2004), “Thực hiện quy chế dân chủ ở trường học”
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Giáo dục, số 100. Tác giả đưa ra
một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng, trách nhiệm
của hiệu trưởng trong việc triển khai, tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tổ chức cơng đồn trường học thực hiện tốt chức năng của mình trong phối hợp,
giám sát, đơn đốc việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.


6


- TS. Nguyễn Quốc Vinh (2011), Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với đối
tượng người học - sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn Tp. Hồ
Chí Minh, Tham luận hội thảo, Nxb Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả phân
tích rõ thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở ở các trường Cao đẳng, Đại học nước ta
từ đó cho thấy rõ tầm quan trọng trong việc triển khai và thực hiện dân chủ cơ sở
trong các hoạt động của nhà trường.
- Vũ Khắc Tùng (2014), Thực hiện quy chế dân chủ trong các trường phổ
thơng thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ. Tác giả làm rõ được
cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường trung học phổ thơng ở thành phố Móng Cái hiện nay và đề xuất một số biện
pháp thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở và đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục trung học phổ thông của thành phố.
- TS. Đồng Văn Quân (2014), Thực hiện dân chủ trong các trường đại học
nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả phân tích cơ sở lý luận
của việc thực hiện dân chủ ở các trường đại học nước ta hiện nay; làm rõ thực trạng
nguyên nhân những thành tựu và yếu kém trong quá trình thực hiện dân chủ ở các
trường đại học; trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quá trình thực hiện dân chủ ở các trường đại học nước ta hiện nay.
Nhìn chung, từ các nghiên cứu với hướng tiếp cận khác nhau đều là những
cơng trình nghiên cứu khoa học có giá trị. Đây là nguồn tài liệu q và hữu ích để
tham khảo. Tuy nhiên, có rất ít các cơng trình nghiên cứu về thực hiện Quy chế dân
chủ trong các trường đại học, cao đẳng. Đặc biệt là nghiên cứu về dân chủ cơ sở
trong các trường đại học tư thục. Và chưa có đề tài nào nghiên cứu về việc triển
khai và thực hiện dân chủ cơ sở trong các hoạt động của trường Đại học Hoa Sen
Thành phố Hồ Chí Minh. Và đây là khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu. Đề tài
nghiên cứu nhằm góp phần làm sáng tỏ về việc vận dụng lý luận vào thực tiễn thực

hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại trường đại học tư thục đầu tiên ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm hiểu thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại trường học Hoa Sen
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
7


3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại cơ
quan trường học
- Làm rõ những nội dung và lĩnh vực về dân chủ cơ sở đang được thực hiện tại
trường Đại học Hoa Sen hiện nay.
- Phân tích để thấy được những kết quả đạt được và một số vấn đề đặt ra trong

quá trình triển khai và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại trường Đại học Hoa Sen.
Đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở
trong trường Đại Hoa Hoa Sen – Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong trường Đại
học Hoa Sen hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Các văn bản, quy định, quy chế đối với đoàn thể, cán
bộ quản lý, giảng viên nhân viên và sinh viên của Nhà trường
- Phạm vi về thời gian thực hiện quy chế dân chủ của trường Đại Học Hoa Sen
từ 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được tổng
kết trong các văn kiện của Đảng; Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị định số 29/CP và Nghị định số
71/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường và trong
hoạt động của cơ quan; Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) về việc
thực hiện Quy chế dân chủ trong các nhà trường và các văn bản khác có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử - lơgíc, phân tích và tổng hợp các
văn bản và số liệu báo cáo, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế về việc triển khai
8


thực hiện dân chủ trong nhà trường. Bên cạnh đó tác giả còn dùng phương pháp
phỏng vấn sâu, quan sát, tham dự trực tiếp vào các hoạt động của nhà trường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn góp phần luận chứng căn cứ
khoa học của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường Đại học Hoa
Sen nói riêng, đại học tư thục và các trường cao đẳng, đại học trong cả nước nói
chung. Nêu lên những yêu cầu mới về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong
các trường đại học trong xu hướng hội nhập và quốc tế hóa hiện nay.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơng trình
khoa học, cơng tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên quan đến
vấn đề dân chủ hiện nay ở các trường đại học, cao đẳng ở nước ta và vấn đề thực
hiện quy chế dân chủ nói chung ở các liên ngành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại trường Đại Học

Hoa Sen hiện nay và những vần đề đặt ra.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1 Khái niệm về dân chủ cơ sở
Dân chủ là vấn đề có vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Dân chủ vừa là động lực, vừa là mục đích vươn tới của xã hội lồi người. Năng
lực trí tuệ của con người càng phát triển thì xu hướng dân chủ càng mạnh mẽ. Môi
trường xã hội dân chủ càng cao sẽ càng thúc đẩy năng lực sáng tạo của con người.
Ngày nay, vấn đề dân chủ đang được đặt ra như một nền tảng cần thiết, cơ
bản, là môi trường sinh thái không thể thiếu cho sự phát triển bền vững của mọi
quốc gia. Giải quyết đúng vấn đề dân chủ vẫn là nhu cầu sống còn khơng chỉ của
các nước đã phát triển, mà cịn của các nước đang phát triển. Khi đời sống kinh tế xã hội phát triển càng cao thì tư duy và nhận thức về quyền lực chính trị của nhân
dân càng sâu sắc, người dân ngày càng đòi hỏi phải được tham gia giải quyết trực
tiếp các công việc của Nhà nước dưới hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện.
Ở Phương Tây, thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện đầu tiên trong ngôn ngữ Hy Lạp
cổ đại với cụm từ “δημοκρατία”(democratia) với nghĩa là quyền lực thuộc về nhân
dân,

được

ghép

từ


hai

chữ

là:“δήμος” (dēmos)

nghĩa



nhân

dân

và “κράτος” (kratos) là "quyền lực" ra đời vào khoảng giữa thế kỷ thứ V đến thế kỷ
thứ IV trước cơng ngun để chỉ hệ thống chính trị tồn tại ở một số thành bang Hy
Lạp, nổi bật nhất là Anthena sau cuộc nổi dậy của dân chúng vào năm 508 TCN.
Như vậy, với nguyên nghĩa của thuật ngữ trên thì dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng quyền lực để tổ chức, quản lý
xã hội và phát triển con người.
Ở Phương Đông, khái niệm “dân chủ” được biểu hiện đặc thù dưới hình thức
“lấy dân làm gốc”. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên trong Kinh thư: “Đối với dân
nên gần và có tình thân, khơng nên sơ tình mà coi như đệ hạ. Dân là gốc nước. Gốc
có vững thì nước mới an bình” [33, tr.11]. Khái niệm “dân chủ” được hiểu là “Dân”
là chỉ người trong một nước; “Chủ” là người làm chủ. “Dân chủ” là chế độ chính trị
trong đó quyền quản lý nhà nước do nhân dân nắm giữ.
10


Cùng với sự phát triển và hoàn thiện dân chủ với tính cách là một giá trị to lớn

của văn minh nhân loại, một phương thức tồn tại của xã hội hiện đại. Dân chủ được
vận dụng vào hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định. Trong
đó, dân chủ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực như: Chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo
dục và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tuy nhiên, để làm mọi lĩnh vực hoạt
động đều được phát huy tính dân chủ chúng ta phải thực hiện dân chủ hóa, dân chủ
từ cơ sở. Từ đây, có thể hiểu dân chủ nước ta theo hai nghĩa sau:
Dân chủ theo nghĩa rộng: Dân chủ được hiểu như một mục tiêu phấn đấu của
dân tộc Việt Nam đã được ghi trong Hiến pháp là “Thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những mục tiêu này đều có mối
quan hệ gắn bó với nhau. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Có dân chủ thì mới có
cơng bằng xã hội. Dân chủ thực sự thì dân mới giàu, quốc gia mới mạnh.
Dân chủ theo nghĩa hẹp: Dân chủ có thể hiểu là một cách thức và những điều
kiện kèm theo để mọi người dân tham gia bình đẳng vào các cơng việc chính trị,
kinh tế, xã hội với vai trò là người làm chủ xã hội.
Như vậy, “dân chủ” vừa là bản chất của chế độ, vừa là đặc điểm cơ bản nhất
của một xã hội tiến bộ, văn minh. Dân chủ vừa là chính trị vừa là văn hố. Một xã
hội thiếu dân chủ là một xã hội phản tiến bộ và phản văn minh. Dân chủ có nhiều
cách hiểu và cách làm khác nhau. Song, nếu hiểu chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa là nấc
thang phát triển lịch sử xã hội cao hơn chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa thì nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa cũng phải có chất lượng cao hơn nền dân chủ tư bản chủ nghĩa. Dân
chủ phải là đặc trưng số 1 của xã hội ta.
Cơ sở là thành tố, đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc của một hệ thống các sự vật,
hiện tượng. Khái niệm này cũng được hiểu như sau:
Cơ sở là đơn vị xã hội nhỏ nhất mà nhân dân tổ chức nên. Hoặc hiểu theo cách
khác: các tổ chức, cơ quan, đơn vị nhất định nào đó có tư cách pháp nhân đầy đủ thì
đều là tổ chức cơ sở. Vì thế, cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Hay nói cách khác, dân chủ là q
trình hiện thực hóa các quy định của pháp luật về dân chủ trong đời sống xã hội
nhằm đảm bảo cho các quyền cơ bản của công dân được thực thi trong thực tế.

11


Dân chủ ở cơ sở là nơi dân sinh sống như ở cấp xã, phường, thị trấn và thôn,
làng, ấp, bản, khóm, tổ dân phố. Ngồi ra cịn là nơi dân làm việc như doanh
nghiệp, trường học, bệnh viện… Dân chủ ở cơ sở được thực hiện thông qua các tổ
chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và trình độ nhận thức đúng đắn với khả năng
thực hiện của mỗi người cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở dựa
vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự của quần chúng vào
tất cả đời sống của nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân …. Chính quyền từ xã đến
chính phủ Trung ương đều do dân cử ra”; “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân”[21, tr.590]; “nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ…”[20, tr.515] Trong Tun ngơn độc lập, Hồ
Chí Minh đã từng khẳng định: con người có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc” và con người “phải ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Chỉ
có dân chủ xã hội chủ nghĩa mới được xây dựng trên nguyên tắc mỗi người vì mọi
người, mọi người vì mỗi người, trên cơ sở cơng hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu cá
nhân tồn tại bên cạnh và bên trong sở hữu xã hội.
Dân chủ cơ sở khơng phải là một hình thức dân chủ mà là cấp độ thực hiện
dân chủ thơng qua hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ đại
diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà thông qua
đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ thể quyền lực (tức nhân dân) vẫn giữ
cho mình quyền và chức năng tác động, giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan
đại diện. Dân chủ trực tiếp là một phương thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân
– chủ thể quyền lực duy nhất có thể bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào
đó trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm
tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên. Kết quả của sự bày tỏ ý chí
đó có thể có ý nghĩa quyết định, bắt buộc phải thi hành ngay như trưng cầu ý dân,

bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử; hoặc chỉ có ý nghĩa tham khảo như các hình thức
tham khảo ý kiến nhân dân, kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước...nhân dân thực
hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện qua quy chế dân chủ ở cơ sở.

12


Thực hiện dân chủ cơ sở là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên các
quyền làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa nhà nước
và cơng dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân cấp cơ sở.
Chính vì thế, để dân chủ được mở rộng trong tất cả các mặt của đời sống xã hội thì
cần có một quy chế. Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là văn bản quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính
quyền cơ sở với cơng dân trong việc phải thông tin kịp thời và công khai những
việc để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp những việc dân tham
gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định hoặc nhân dân được quyết định và
những việc nhân dân được giám sát, kiểm tra, nhằm phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo của nhân dân. Việc ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở là một chủ trương
hết sức đúng đắn của Nhà nước; đáp ứng kịp thời tâm tư, nguyện vọng, những vấn
đề bức xúc của người dân, được nhân dân hưởng ứng rất nhiệt tình và tích cực thực
hiện.
Tóm lại, dân chủ luôn mang một giá trị nhân văn và là một vấn đề mang tính
chính trị xã hội căn bản. Dân chủ không chỉ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ,
quốc gia, dân tộc mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, đời sống của người dân.
Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi, đặc biệt thực hiện dân chủ cơ sở là việc làm
khôn ngoan, cấp bách cho mỗi quốc gia trong q trình tồn cầu hóa và hội nhập
quốc tế. Trải qua những thử thách của thực tiễn đời sống và sự thẩm định khắt khe
của lịch sử, những tư tưởng đó vẫn đang được hiện thực hóa sinh động trong đời
sống chính trị thế giới, trong đó có Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở

Nếu như dân chủ được thực hiện trên cả một hệ thống từ Trung ương đến địa
phương, thì dân chủ ở cơ sở giống như là gốc của hệ thống đó. Có làm tốt dân chủ
cơ sở thì nền dân chủ của đất nước mới bền vững và phát triển lên cao được. Trên
cơ sở quan điểm “lấy dân làm gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra” của Đại hội VI, Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nội dung cơ bản đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
13


Nhà nước”. Tư tưởng quan trọng này chính là cơ sở của Chỉ thị 30/CT-TW ngày
18/2/1998 về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đảng ta khẳng định
“khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi
nhất”. Quy chế dân chủ cơ sở là một bước cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta về bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt chế độ dân chủ đại diện kết hợp với
dân chủ trực tiếp ở cơ sở, gắn chặt quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở với chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cơng khai hóa những điều dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trên cơ sở đó, quy chế dân chủ cơ sở phải đảm bảo 3
các tiêu chí sau:
- Quy định rõ những nội dung cần được công khai tạo điều kiện cho các cá
nhân có được thơng tin đầy đủ về các vấn đề mà họ quan tâm;
- Quy định rõ những nội dung người dân tham gia ý kiến;
- Quy định cụ thể hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Quyền dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật và các
văn bản dưới luật. Cụ thể là, Hiến pháp năm 1946 ghi: “Tất cả quyền bính thuộc về
nhân dân”, Hiến pháp năm 1959 và năm 1980 ghi: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân”, Hiến pháp năm 1992 ghi cụ thể hơn: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân”. Như vậy, bản chất của Nhà nước ta được khẳng định trong Hiến pháp là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để thực hiện quyền dân chủ của cơng dân địi
hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cán bộ công nhân viên chức nhà nước
và mọi công dân phải tuân thủ theo pháp luật. Việc thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở
được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân
chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được
khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo.
Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt
vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều. Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra”
[19, tr.224]. Chính vì thế, Bác Hồ đã từng nhắc nhở và yêu cầu phải thật sự tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ thực sự. "Thực hành dân chủ là chìa
14


khố vạn năng để giải quyết mọi khó khăn” [22, tr. 249]. Hồ Chí Minh xác định chế
độ dân chủ ở Việt Nam thì cách mạng phải là sự nghiệp của quần chúng nhân dân,
kháng chiến và kiến quốc, công cuộc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm và cơng
việc của tồn dân.
Quy chế dân chủ cơ sở cần được xây dựng phù hợp với từng cơ sở. Các cơ
quan nhà nước, đơn vị, tổ chức cơ sở phải có trách nhiệm thực hiện, tổ chức cho
nhân dân thực hiện các quyền làm chủ. Nội dung dân chủ cơ sở cịn bao hàm cả
hình thức, thủ tục, trình tự thực hiện việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
Vì vậy, Đảng ta chủ trương vừa phải đi sâu nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về cơ
sở lý luận vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để tìm ra hình thức biện pháp tổ
chức thực hiện phù hợp. Nhà nước phải bảo đảm cơ chế để lắng nghe, phải tạo điều
kiện để người dân được quyết định hoặc tham gia quyết định những vấn đề liên
quan đến cuộc sống và sự phát triển của mỗi người, của cả cộng đồng. Điều này có
ý nghĩa thực tiễn quan trọng ở các cấp cơ sở mà cụ thể là xã, phường, thị trấn.
Những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà Nước ban hành nhằm giữ vững và phát

huy được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thu hút nhân dân tham gia quản lí Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm sốt Nhà nước
khắc phục tình trạng suy thối quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.
Quy chế dân chủ ở cơ sở càng khẳng định cho sự đúng đắn quan điểm của
Đảng trong việc xây dựng chính quyền nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Phát
huy vai trò làm chủ thực sự của nhân dân để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra đi vào thực tiễn cuộc sống. Phát huy vai trò chủ động và khơi gợi tính tích cực
trong đời sống – xã hội của người dân. Tạo ra bước chuyển biến về chất trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Từ đây, dân chủ khơng cịn là những mệnh đề
trừu tượng, những khẩu hiệu trống rỗng mà là những vấn đề cụ thể: Đảng làm gì?
Nhà Nước làm gì? Dân cần biết, bàn, làm, kiểm tra cái gì? và phải tiến hành như thế
nào? Qua thực tế chúng ta thấy rằng, thực hiện dân chủ là quyền và nghĩa vụ của
công dân. Để dân chủ đi vào cuộc sống với nhân dân, phát huy quyền làm chủ thực
sự của nhân dân, quy chế dân chủ ở cơ sở được quy định thành thể chế, quy phạm
pháp luật. Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần sàng lọc, đào tạo cán bộ là yếu tố
trực tiếp tham gia xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh trong sạch. Trong hệ
15


thống chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản đóng vai
trị lãnh đạo. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với tính ưu việt của mình, tạo
điều kiện cho sự thể hiện một cách trực tiếp quyền lực của nhân dân bằng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bằng việc tạo môi trường cho
quyền làm chủ của nhân dân và hệ thống phản biện xã hội của nhân dân được phát
huy. Về phần mình, các phương thức và cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở lại đóng vai
trị củng cố nhà nước pháp quyền, đồng thời thẩm định tính hiệu quả của Nhà nước
trong quản lý. Khơng thể phát huy tốt quyền dân chủ của nhân dân nếu bộ máy nhà
nước, hệ thống chính trị hoạt động kém hiệu quả. Đồng thời, vì nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân, nên chính nhân dân là
người quyết định sự tồn tại và phát triển của nó. Một nhà nước biết lắng nghe và

học hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, thì chắc chắn
sẽ được lòng dân.
Dân chủ được thực thi và đảm bảo bằng nhiều biện pháp. Việc thực hành dân
chủ luôn gắn liền với mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Ở nước ta hiện nay,
hệ thống chính trị có cơ chế hoạt động là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”. Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, là sự thống nhất biện chứng
giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm . Dân chủ vừa là động lực vừa là
mục tiêu của sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước, của công cuộc đổi
mới của nước ta đã được ghi trong Hiến pháp 1992:“Thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Điều 3, chương I). Những mục
tiêu trên có mối quan hệ gắn bó với nhau: dân có giàu thì nước mới mạnh, có dân
chủ thì mới tạo ra được xã hội cơng bằng, khi đất nước giàu mạnh thì người dân
mới có cuộc sống đầy đủ, văn minh.
Dân chủ là mục tiêu phấn đấu của dân tộc Việt Nam và thực hiện được điều đó
phải bắt đầu từ cơ sở. Nhân dân ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ, tham gia kiểm tra,
giám sát sẽ tích cực trong xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể trong sạch, vững
mạnh, tích cực đấu tranh bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết
kiệm. Do vậy, việc ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý để mọi tổ
chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện.
16


Xây dựng một chế độ thật sự do nhân dân lao động làm chủ, Đảng ta đã rất coi
trọng việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đó không chỉ là những nội dung
thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là quy luật phát triển
của hệ thống chính trị Đảng và Nhà nước ta xác định quyền khiếu nại, tố cáo là một
trong những quyền cơ bản của dân và phương thức kiểm tra, giám sát cơ quan quản
lý nhà nước của nhân dân là hình thức phản biện xã hội đối với bộ máy nhà nước do
chính nhân dân lập ra. Cơ sở lý luận của phương thức này được thể hiện không chỉ
trong các bản Hiến pháp, trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc mà sau này

cịn được cụ thể hóa trong Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo năm 1991 và Luật khiếu nại,
tố cáo năm 1997.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới
về kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt
được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước khơng ngừng hồn thiện phương thức kiểm
tra, giám sát của nhân dân thông qua quyền khiếu nại, tố cáo cho phù hợp với tiến
trình đổi mới của đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiên
phong trong việc xây dựng cơ chế nhằm đảm bảo cho hoạt động kiểm tra, giám sát
của nhân dân được thực hiện dễ dàng. Văn kiện nhấn mạnh: “Thực hiện tốt quy chế
dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, đảm bảo cho dân tiếp xúc dễ dàng các
cơ quan cơng quyền, có điều kiện kiểm tra cán bộ, công chức, nhất là những người
trực tiếp làm việc với dân”. Và “Thực hiện quy chế dân chủ và cơng khai tài chính ở
cơ sở, và các cấp chính quyền; thực hiện chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh
đạo các cấp, các ngành. Phát huy vai trị của các đồn thể nhân dân và phương tiện
thông tin đại chúng”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII (tháng 6-1997) đã nhấn mạnh, lúc này để giữ vững và phát huy
được bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu
hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm sốt nhà nước,
khắc phục tình trạng suy thối, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.
Ngoài ra, hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn bước đầu được thực hiện và có
những bước chuyển đáng ghi nhận từ nửa sau nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX, cho thấy
Đảng ta đề cao trách nhiệm của các đại biểu trước sự giám sát trực tiếp của nhân
17


dân. Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng
rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp

lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện. Quy
chế dân chủ cần được xây dựng cho từng loại cơ sở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh
viện, trường học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính, v.v. phù hợp với đặc điểm
của từng loại cơ sở.
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà
nước ta chủ trương phải thực hiện chế độ lấy ý kiến của nhân dân trong xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật; các cơng trình trọng điểm quốc gia;
trong việc sắp xếp, tổ chức và bố trí cán bộ. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và
cách làm cụ thể để thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt quyền
làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua các tổ chức, cơ quan đại diện, làm chủ
trực tiếp trong các hình thức tự quản tại cơ sở
Thực hiện chủ trương đó, cán bộ, đảng viên thường xuyên tiếp xúc với nhân
dân, lắng nghe ý kiến nhân dân, kịp thời giải quyết hoặc phản ánh lên cấp trên và cơ
quan chức năng những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đồng thời,
phát huy vai trò của hệ thống thanh tra nhân dân để cùng với hệ thống thanh tra Nhà
nước giám sát, kiểm tra việc thi hành pháp luật và chủ trương, chính sách của Nhà
nước, phát hiện và tham gia xử lý những vụ việc tiêu cực trong Đảng, bộ máy nhà
nước và trong xã hội. Các cấp chính quyền thường xuyên thực hiện tốt chế độ định
kỳ báo cáo cơng việc của mình trước các cơ quan dân cử, trước nhân dân và tiếp thu
ý kiến phê bình xây dựng của nhân dân. Chính quyền và đoàn thể các cấp phải
hướng dẫn nhân dân xây dựng và thực hiện các quy chế, quy ước; đặc biệt là Quy
chế dân chủ ở cơ sở và những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ và lợi ích của nhân
dân. Montesquieu, nhà tư tưởng khai sáng thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII, cho rằng:
“Trong chính thể dân chủ, theo một cách nhìn nào đó, có thể coi dân chúng như
vua, mà cũng có thể coi là thần dân. Dân là “vua” bởi họ được thể hiện ý chí của
18



mình bằng các cuộc bầu phiếu” [16, tr. 48]. Một nhà nước hoạt động có hiệu quả
trước hết phải đảm bảo dân chủ và cơng khai. Thiếu những điều đó nhà nước rơi
vào tình trạng “tha hóa chính trị”. Nghệ thuật quyền lực, trong sự phân tích của
Montesquieu, chỉ thực sự phát huy tác dụng tích cực nếu gắn với đạo đức quyền lực,
thứ đạo đức không chỉ dành cho nhà cầm quyền, mà cho cả dân chúng. Thật thấm
thía trước lời cảnh báo của Montesquieu về sự sa đọa của dân chủ, khi mà “cái
trước đây được coi là luật thì nay họ (cơng dân) coi là phiền nhiễu…Cách sống
thanh đạm bị coi là thói hà tiện”, chính thể tốt đẹp biến thành “cái túi cho người ta
bòn rút, và sức mạnh quốc gia chỉ còn là quyền lực của một vài cơng dân” [16, tr.
55]. Đạo đức chính trị biến chất dẫn đến sự băng hoại đạo đức xã hội lẫn gia đình.
Nguyên nhân cơ bản nằm ở sự tha hóa của bộ phận cầm quyền: “Nhân dân rơi vào
tình trạng tai họa khi mà những kẻ được dân giao phó muốn che giấu sự sa đọa của
bản thân họ, đang tìm mọi cách làm bại hoại dân chúng. Để dân chúng khơng nhìn
thấy sự tham lam của họ, họ chỉ ca ngợi sự vĩ đại của dân chúng. Để dân chúng
khơng nhìn thấy sự thiển cận của họ, họ cứ ca ngợi tính tằn tiện của dân” [16, tr.
86]. Montesquieu cho rằng nạn tham nhũng, hối lộ lẽ ra không nên hiện diện trong
chế độ dân chủ: “Trong một nước dân chủ, chuyện đút lót, quà cáp là điều ơ nhục,
vì đạo đức chính trị khơng cần đến động tác đó” [16, tr. 73]. Ơng cho rằng: “ưu thế
lớn của các đại biểu là họ có thể bàn cãi về mọi cơng việc. Dân chúng thì khơng thể
làm như thế được. Đây là một trong những điều bất tiện lớn nhất của dân chủ” [17,
tr.103 -104].
Thực tiễn đã cho thấy rằng, tuy dân chủ cơ sở đã được triển khi và có vai trị
rất quan trọng trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và ngày càng mở rộng, nhưng
trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, bước đi và biên
độ mở rộng dân chủ cơ sở cần được xác định phù hợp với trình độ kinh tế - xã hội
và trình độ dân trí. Dân chủ cơ sở có ưu điểm là thể hiện trực tiếp hoặc đại diên cho
những việc làm thiết thực ở từng đơn vị có khả năng thực thi, bảo đảm được sự sáng
suốt của các quyết định quản lý. Cá nhân và tập thể cơ quan đại diện do dân tín
nhiệm lựa chọn bầu ra, nên trong chừng mực nhất định đã tiêu biểu về trí tuệ và
phẩm chất, do đó sẽ đảm bảo chất lượng hoạt động khi thực hiện chức trách xã hội.

Thực tế cho thấy hiện nay dân chủ cơ sở cịn nhiều hạn chế của nó. Cụ thể như:
19


nguyện vọng của người dân muốn đến được đúng địa chỉ phải thông qua “bộ lọc”
của người khác. Trong nhiều trường hợp, do rất nhiều nguyên nhân khác nhau như
trình độ nhận thức, quan điểm, lợi ích mà người đại diện khơng làm trịn sứ mệnh là
“sứ giả”, thơng tin bị bưng bít và bóp méo nên người dân bị thiệt thịi. Đặc biệt,
trong điều kiện cơ chế kiểm sốt quyền lực thiếu hiệu quả, chủ nghĩa cá nhân chi
phối, dễ đẩy quyền lực do các cơ quan và cá nhân đại diện nắm giữ đi chệnh khỏi
cái gốc xuất phát ban đầu mà chủ thể quyền lực đã ''ủy quyền”. Một khía cạnh khác,
nếu cá nhân và cơ quan đại diện thiếu thông tin, phong cách không dân chủ, thiếu
quy trình, cơ chế và phương pháp làm việc khoa học..., thì các quyết định quản lý
dễ mang dấu ấn chủ quan duy ý chí, phản ánh khơng đầy đủ và thiếu thực tiễn cuộc
sống.
Tình hình thực tế dân chủ cơ sở nước ta được Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nêu
ra trong một báo cáo vào tháng 3/1998 như sau: “Quyền làm chủ của người dân còn
bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền,
tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng
mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành pháp luật, cho nên
chậm đi vào cuộc sống. Trình trạng mất dân chủ, không để dân bàn bạc quyết định
những công việc cụ thể liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, bắt dân đóng
nhiều khoản vượt q khả năng, lại khơng minh bạch về tài chính, thậm chí xà xẻo
vào những khoản tiền dân đóng góp như một số xã thuộc tỉnh Thái Bình và vài nơi
khác; tình trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không giải quyết
hoặc giải quyết khơng kịp thời, khơng đúng; tình trạng quan liêu, quản lý lỏng lẻo
để thất thoát một số ngân hàng hoặc gây lãng phí lớn trong xây dựng…chẳng những
làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền mà cịn làm triệt
tiêu động lực của nhân dân và xâm phạm vào bản chất tốt đẹp của chế độ” [2]

Nhằm mở rộng và phát huy dân chủ dựa trên xu hướng khách quan của tiến bộ
xã hội, nhất là hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế,
mở rộng nâng cao dân chủ, cụ thể là dân chủ cơ sở sẽ góp phần nâng cao vị thế của
nước ta trên trường quốc tế. Người dân được thực hiện các quyền dân chủ sau:
20


×