Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.31 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN ĐÌNH THANH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 60340402

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị An

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học trong luận văn
chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hải Phòng, ngày

tháng 7 năm 2016

TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Trần Đình Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
VĂN HÓA .............................................................................................................. 6
1.1.Một số khái niệm ..................................................................................... 6
1.2. Nội dung thực hiện chính sách văn hóa ................................................. 10
1.3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách văn hóa ...................... 16
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hiệu quả các chính sách văn
hóa……. ........................................................................................................ 19
1.5. Một số thách thức trong thực hiện chính sách văn hóa ở Việt
Nam….. ............................................................................................... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............................................................. 27
2.1. Khái quát về thành phố Hải Phòng ........................................................ 27
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực
tiễn thành phố Hải Phòng .............................................................................. 34
2.3. Kết quả thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải
Phòng ............................................................................................................. 39
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG .................................................................................................................. 50
3.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải
Phòng ............................................................................................................. 50
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách văn hóa trên địa
bàn thành phố Hải Phòng .............................................................................. 56
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 66

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 70


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong phần đánh giá 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa VIII của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Trung ương đã khẳng định:
sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có những
chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng song chưa tương
xứng với các thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại và quốc phòng
an ninh; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn
hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống trong Đảng
và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi
còn nghèo nàn, đơn điệu...Chính từ những tồn tại, hạn chế như trên, nền văn hóa
Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề trong việc thực hiện vai trò, sứ mệnh của nó
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”.
Để thực hiện có hiệu quả các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước
trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã chủ
động, sáng tạo thực hiện các Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước,
trong đó có các chính sách về văn hóa được xác định sẽ góp phần quan trọng
thực hiện mục tiêu xây dựng con người Hải Phòng đáp ứng yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững của thành phố. Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải
Phòng đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ, phát triển toàn diện văn hóa, giáo dục,
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân”.
Thực trạng công tác văn hóa trong bối cảnh chung của đất nước và đặc
thù địa phương hiện nay đang rất cần có một cái nhìn, một hướng nghiên cứu
mới về thực hiện chính sách cụ thể. Từ các tiếp cận chính sách công về quá trình
thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, tác giả
chọn: “Thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải
Phòng” làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công nhằm

1


nghiên cứu và đưa ra những khuyến nghị trong thực hiện chính sách văn hóa của
thành phố Hải Phòng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách văn hóa trong đời sống
xã hội nói chung cũng như trong thực tiễn của thành phố Hải phòng dưới nhiều
góc độ khác nhau được thể hiện dưới các hình thức như: đề tài khoa học; giáo
trình; bài báo; bài đăng tạp chí... với những đánh giá chính sách văn hóa trong
tổng thể phát triển. Tuy nhiên các công trình đề tài nghiên cứu đánh giá chính
sách phát triển văn hóa cũng như thực hiện chính sách phát triển văn hóa chưa có
công trình nghiên cứu cụ thể nào đề cập tới vấn đề thực hiện chính sách phát triển
văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng dưới giác độ tiếp cận chính sách công.
Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề nghiên
cứu như sau:
Trong công trình Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020,
Những vấn đề phương pháp luận (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009), Phạm
Duy Đức đã bàn luận đến các vấn đề phương pháp luận nghiên cứu, thực trạng
và giải pháp để phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 theo
những định hướng và nhiệm vụ được chỉ ra trong Chiến lược phát triển văn hóa
đến năm 2020.
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TW5 khóa VIII, tác giả Nguyễn
Tri Nguyên đã có bài viết: Đối mới và hoàn thiện chính sách văn hóa, Báo Nhân
dân cuối tuần ngày 17/9/2013. Trong bài viết này, tác giả đã khẳng định vai trò
của chính sách văn hóa đối với sự phát triển văn hóa của dân tộc. Tác giả viết:
“Chính sách văn hóa hiện thực hóa được những tư tưởng cơ bản trong các nghị
quyết của Đảng ta về văn hóa, thực chất là ý chí, quan điểm và định hướng, tạo
điều kiện cơ bản để quản lý văn hóa của đất nước với tư cách là phương tiện
hiệu quả để thiết lập cuộc sống tốt đẹp đồng thời với việc phát triển một nền sản

xuất và thị trường văn hóa lành mạnh…Có thể nói, một chính sách văn hóa tốt
2


và có hiệu lực xã hội rộng lớn phải làm sao cho sự phát triển văn hóa đi từ bên
ngoài vào bên trong, đi vào cấp tâm lý của con người và cơ chế tinh thần của vô
thức cộng đồng. Chính sách văn hóa phải làm sao cho mỗi cá nhân riêng lẻ thân
thiện hơn nữa với văn hóa. Chính sách đó phải làm cho văn hóa thấm sâu vào
tâm hồn và đánh thức tiềm năng của con người như chúng ta thường nói. Muốn
đạt được mục tiêu cao cả đó, chúng ta cần đổi mới tư duy văn hóa sao cho ngang
tầm với đổi mới tư duy kinh tế như chúng ta đã và đang thực hiện. Đổi mới tư
duy văn hóa ở đây có nghĩa phải biết đặt phát triển văn hóa ngang tầm với phát
triển kinh tế. Biến văn hóa thành nguồn lực nội sinh của quá trình phát triển kinh
tế và xã hội”.
Về việc thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng,
tác giả Hoàng Đình Thi, trong Luận văn tốt nghiệp Đại học Chính trị, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2004) với đề tài Báo chí Hải Phòng với
nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đã đề cập đến vai trò của báo chí trong việc thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Tác giả Nguyễn Quang Linh đã có
Luận văn thạc sĩ văn hóa học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh (năm 2006) với đề tài Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong
thời kỳ đổi mới hiện nay. Tác giả Trịnh Minh Hiên đã có chuyên khảo bàn về Lễ
hội truyền thống văn hóa tiêu biểu Hải Phòng (Nxb Hải Phòng, 2006).
Trong các công trình trên, vấn đề trong thực hiện chính sách phát triển
văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng để hình thành môi trường văn hóa
lành mạnh đáp ứng yêu cầu sự phát triển hình thành một nền văn hóa tiên tiến,
mang đậm bản sắc dân tộc của thành phố như nghị quyết Đảng bộ thành phố đã
đề ra thì vẫn chưa được bàn đến một cách có hệ thống. Trong luận văn này,
tác giả mong muốn được tiếp tục nghiên cứu, phân tích và đưa ra những giải

pháp, khuyến nghị về thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành

3


phố Hải Phòng góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển văn hóa, góp phần nâng
cao chất lượng đời sống tinh thần của nhân dân thành phố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát, đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa
bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách văn hóa
trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng xây dựng phát triển văn hóa trên địa bàn thành
phố Hải Phòng những năm gần đây.
- Những kết quả đạt được trong thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách văn hóa của Đảng, Nhà nước.
- Tiếp thu những điểm mới của Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) cùng
tình hình phát triển văn hóa tại địa phương, đề ra những giải pháp nâng cao việc
thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Việc thực hiện các chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố
Hải Phòng.
Phạm vi nghiên cứu: thành phố Hải Phòng.
Thời gian khảo sát: 2011- 2015
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng cách tiếp cận liên ngành văn hóa học, xã hội học và
chính sách công. Trong đó, cách tiếp cận chính sách công được xác định theo

quy trình: từ xác định vấn đề chính sách đến thực hiện và đánh giá chính sách
công có sự tham gia của chủ thể chính sách

4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin, số liệu từ các báo
cáo tổng kết của Thành ủy, UBND thành phố, ngành văn hóa và các đơn vị
liên quan.
Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn chủ thể tham gia vào quá trình
ban hành chương trình, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện chính sách.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Bằng việc sử dụng cách tiếp cận chính là tiếp cận chính sách công, kết
quả nghiên cứu làm sáng tỏ cho các lý thuyết liên quan đến chính sách công, từ
đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao
hiệu quả các chính sách đã ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện
những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và thực hiện chính
sách phát triển văn hóa nói riêng. cung cấp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền có
thêm một nguồn tư liệu tham khảo phục vụ cho công tác sơ tổng kết và thực
hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI và các chính sách văn hóa của Nhà nước
trong thời gian gần đây.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách văn hóa
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa

bàn thành phố Hải Phòng
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách văn hóa trong giai đoạn hiện nay

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VĂN HÓA
1.1. Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm Chính sách và Chính sách công
- Khái niệm chính sách
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể
nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính
chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính, “Chính sách là sách lược
và kế hoạch cụ thể để đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị
chung và tình hình thực tế”. Kinh tế gia Franc Ellis lại cho rằng: “Chính sách
được xác định như là đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với mọi
lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả mục tiêu mà Chính Phủ tìm kiếm và lựa chọn các
phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó”.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình
hình thực tế mà đề ra”.
Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được
thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo
ra sự ưu đãi một hoặc một nhóm xã hội, kích thích vào động cợ hoạt động của
họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của

một hệ thống xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống xã hội” được hiểu
theo mốt ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính,
một doanh nghiệp, một nhà trường…

6


Chính sách là chủ trương, định hướng cơ bản được cơ quan có thẩm
quyền xây dựng trên cơ sở đường lối, chiến lược của nhà nước trong tưng lĩnh
vực cụ thể hoặc trong quy hoạch phát triển tổng thể nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định.
Những quan điểm trên đề cập đến phạm trù chính sách theo những khía
cạnh khác nhau và theo những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, khi đề cập đến
phạm trù chính sách cần phải làm rõ: Chính sách là gì? Ai là người tạo ra nó?
Nó tác động đến ai, đến cái gì? Từ yêu cầu trên có thể hiểu rằng, chính sách là
công cụ, là biện pháp can thiệp của Nhà nước vào một ngành, một lĩnh vực hay
toàn bộ nền kinh tế theo những mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực
hiện nhất định và trong một thời gian xác định.
- Khái niệm Chính sách công
Khoa học về chính sách công được nghiên cứu ở phương Tây từ những
năm 1940 của thế kỷ XX. Nhưng phải đến những năm 1980, chính sách công
mới phát triển nhanh chóng và được coi như một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt
với các lý thuyết và các cách tiếp cận của mình. Ở Việt Nam, chính sách công
mới được nghiên cứu vào những năm cuối của thập niên 1990 và những năm
đầu của thế kỷ XXI.
Là một vấn đề mang bản chất xã hội - nhà nước, chính sách công được
nghiên cứu, nhìn nhận từ các góc độ sau:
(1) Chính sách công là sản phẩm của một quá trình thực thi quyền lực
chính trị.
(2) Quá trình hoạch định chính sách chủ yếu được diễn ra trong bộ máy

Nhà nước.
(3) Quá trình hoạch định chính sách bao hàm sự trao đổi thông tin và các
nguồn lực, thảo luận, thương thuyết giữa và trong các thể chế nhà nước.

7


(4) Quá trình hoạch định chính sách cũng bao hàm sự tương tác với các tổ
chức bên ngoài nhà nước. Nội dung, sự khăng khít và thời gian của những tương
tác này cũng là những chủ đề quan trọng của việc nghiên cứu chính sách công.
(5) Mục đích căn bản của chính sách công là hướng tới việc làm tăng khả
năng có thể xảy ra của một hiện tượng xã hội đang khao khát.
(6) Các thể chế nhà nước có quyền và trách nhiệm đối với các vấn đề
công cộng thường chính thống hoá các hoạt động của họ bằng cách tuyên bố
rằng, những chính sách của họ là vì lợi ích chung chứ không thiên vị một nhóm,
một khu vực, hoặc một cá nhân nào.
TS. Đặng Ngọc Lợi trong bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo (số
tháng 1 năm 2012) tuy không đưa ra định nghĩa về chính sách công nhưng cho
rằng chính sách công là chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước,
do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói
chung của mỗi nước. So với các quan niệm trên thì điểm khác căn bản trong
cách tiếp cận nhận thức về chính sách công là tính công của chính sách, tính
công thể hiện trong quan niệm của TS. Đặng Ngọc Lợi là nhà nước, chính phủ
khác với quan niệm của các học giả Âu Mỹ xem tính công của chính sách là
công cộng (công chúng, đối tượng chịu sự điều chỉnh, tác động của chính sách);
PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng: “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về
định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất
trí rộng rãi”. Tuy vậy theo bà, chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất
như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ
là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi

thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn
đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách
công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau. Trong bài viết của
mình PGS.TS. Lê Chi Mai còn đưa ra khái niệm “chính sách tư” là chính sách
do các cơ quan, tổ chức ban hành nhằm giải quyết những vấn đề thuộc về nội bộ
8


cơ quan, tổ chức, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan, tổ
chức. Như vậy, so với các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng
trong quan niệm về chính sách công như: tính nhà nước, tính công cộng, tính
hành động thực tiễn (coi quá trình thực hiện là một phần của chính sách công).
Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết
các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng chính trị cầm quyền.
(Đỗ Phú Hải, Học viện Khoa học xã hội).
Bên cạnh việc nhìn nhận một cách toàn diện các khía cạnh của khái niệm
chính sách công từ nhiều góc độ, khái niệm “chính sách công” được định nghĩa
một cách ngắn gọn như sau: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ
bản của nhà nước với những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng
đồng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý
xã hội” (Võ Khánh Vinh, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm
2013 HVKHXH); hay chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị
có liên quan của nhà nước nhằm lưạ chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp
công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác
định" (Đỗ Phú Hải, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm 2014
HVKHXH).
Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính cũng đã có định nghĩa về chính sách
công như sau: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu
bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của Nhà nước. Chính sách

công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của
nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và bảo vệ an toàn Tổ quốc”.
1.1.2. Khái niệm Chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là những đường lối sách lược và những kế hoạch
được thể chế hóa bằng pháp luật để nhằm thực hiện các mục tiêu văn hóa của
quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Thực hiện chính sách văn hóa là một
9


khâu quan trọng trong chu trình chính sách công. Trong thực tiễn có nhiều loại
chính sách khác nhau, xuất phát từ tầm quan trọng của văn hóa do đó chính sách
văn hóa là một trong những chính sách quan trọng. Chính sách này nhằm phát
triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển
xã hội và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách văn hóa
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển văn hóa
Bất kỳ một chính sách nào đưa vào thực hiện trong thực tiễn đều phải xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách; trong kế hoạch thực hiện yêu cầu phải xác
định cụ thể các nội dung, nhiệm vụ, nguồn nhân lực, kinh phí thực hiện, cơ quan
chịu trách nhiệm chính, cơ quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện… đồng thời
xây dựng kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Trong những
chính sách quan trọng hoặc có sự kết hợp của nhiều cơ quan phải xây dựng nội
quy, quy chế tổ chức điều hành thực hiện chính sách. Nếu các kế hoạch trên
được xây dựng một cách chính xác và đảm bảo tính khả thi thì quá trình thực thi
chính sách sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao đồng thời trong quá trình thực hiện
sẽ không phải điều chỉnh, bổ sung kế hoạch. Để xây dựng được kế hoạch thực
hiện chính sách chính xác, có tính khả thi cao đòi hỏi cán bộ, công chức, viên
chức có nhiệm vụ tham mưu, xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách phải hiểu
và nắm chắc mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm
quan trọng của chính sách phát triển viên chức. Trên cơ sở đó, xác định mục

tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn lực (nhân lực và vật lực), thời gian và các
giải pháp tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở kế hoạch tổng thể thực hiện chính sách phát triển văn hóa, cần
phải xây dựng các kế hoạch cụ thể để bảo đảm cho việc triển khai như: kế hoạch
tổ chức, điều hành (bao gồm các dự kiến về hệ thống các chủ thể, cơ quan chủ
trì, phối hợp triển khai thực hiện); kế hoạch dự kiến các nguồn lực (bao gồm dự
kiến về các cơ sở vật chất, máy móc, xe cộ, phương tiện, điều kiện trang thiết bị
10


kỹ thuật, các nguồn lực tài chính, vật tư…); kế hoạch thời gian triển khai thực
hiện và kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách. Đây là một khâu quan
trọng trong quá trình thực hiện chính sách bởi nó quyết định đến khả năng thực
hiện chính sách, dự tính trước được các tình huống xảy ra và phương án xử lý,
đảm bảo cho chính sách được thực hiện trong thực tiễn một cách có hiệu quả.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển văn hóa
Việc phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách ngày càng được coi
trọng; thông qua việc phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển văn
hóa giúp cho viên chức hiểu rõ về mục đích, yêu cầu, nghĩa vụ và quyền hạn của
viên chức để viên chức tích cực tìm kiếm các giải pháp thực hiện.
Để phổ biến, tuyên truyền chính sách đạt hiệu quả cao đòi hỏi cán bộ,
công chức làm công tác tuyên truyền phải am hiểu chính sách, phải nắm chính
xác, đầy đủ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, phạm vi, đối tượng của chính
sách. Đồng thời, phải nhận thức được đầy đủ mục đích, yêu cầu, nội dung,
nhiệm vụ của việc tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển văn hóa. Trên cơ
sở đó, xác định lựa chọn các kỹ năng, các giải pháp phổ biến, tuyên truyền
chính sách phù hợp cho từng đối tượng viên chức tại địa bàn như: mở các lớp
tập huấn tập trung để quán triệt nghiên cứu các nội dung chính sách, bàn các giải
pháp và phân công thực hiện chính sách; tổ chức các lớp tuyên truyền chính
sách cho các cơ quan thông tấn, báo chí để họ tuyên truyền; xây dựng văn bản

hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính sách gửi cho các cơ quan, đơn vị
và cán bộ, công chức để họ thực hiện chính sách. Trong xây dựng các văn bản
hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách phát triển viên chức trên địa bàn cũng
như các văn bản phổ biến, hướng dẫn chính sách này phải đảm bảo chính xác,
đúng với các quy định trong chính sách, làm sao đơn giản, cụ thể, dễ hiểu, dễ
thực hiện; không được bổ sung các quy định mang tính chất thủ tục dườm rà,
khó thực hiện và làm sai lệch chính sách.

11


1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển văn hóa
Một chính sách được triển khai thường là sự phối kết hợp của nhiều cấp,
nhiều ngành; do vậy cần phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ để việc thực
hiện được đồng bộ, hài hòa và có hiệu quả; thông qua việc phân công, phối hợp
thực hiện chính sách một cách khoa học, hợp lý sẽ phát huy nhân tố tích cực góp
phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.
Để việc phân công có hiệu quả cần phải xác định tổ chức, cơ quan, cá
nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cá nhân, tổ chức, cơ quan tham gia
phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách. Trong phân công nhiệm vụ thực
hiện chính sách phát triển văn hóa cần đặc biệt chú ý đến khả năng, trình độ
năng lực chuyên môn và thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, cơ quan, hạn chế
tình trạng chồng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm. Hiệu quả thực hiện
chính sách phụ thuộc khá nhiều vào năng lực, khả năng, nhân công, phối hợp
trong tổ chức thực hiện chính sách.
1.2.4. Duy trì chính sách phát triển văn hóa
Duy trì chính sách phát triển văn hóa bảo đảm cho chính sách này tồn tại
và phát huy được tác dụng trong môi trường thực tế. Trong quá trình thực hiện
chính sách, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cần tham mưu, đề xuất
các giải pháp, các biện pháp bảo đảm cho chính sách được duy trì, tồn tại và

phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Khi thực hiện chính sách gặp những
khó khăn do môi trường thực tế biến động đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức
thực thi chính sách phải có năng lực hay kiến thức sử dụng hệ thống công cụ
quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách
này trên thực tế. Đồng thời, cần chủ động tham mưu, đề xuất với chủ thể ban
hành chính sách và áp dụng các giải pháp, biện pháp thực hiện chính sách phù
hợp với hoàn cảnh mới.
Việc duy trì chính sách phát triển viên chức có ý nghĩa vô cùng quan
trọng bảo đảm cho chính sách này tồn tại và phát huy tác dụng bền vững. Nếu
12


không duy trì chính sách sẽ dẫn đến hiệu quả chính sách thấp, gây lãng phí,
không đáp ứng được yêu cầu của chính sách. Việc duy trì và bảo đảm sự tồn tại
và phát huy tác dụng bền vững của chính sách đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức
thực hiện chính sách phải am hiểu sâu sắc về chính sách, phải nắm chắc mục
tiêu, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, đối tượng, công cụ thực hiện chính sách này.
Đồng thời, phải sử dụng các công cụ quản lý khác tác động đến việc thực hiện
chính sách, đề xuất các giải pháp hỗ trợ duy trì chính sách.
Để thực hiện tốt việc duy trì chính sách phát triển viên chức cần bảo đảm tốt
các nội dung. Thứ nhất, Cụ thể hóa nội dung triển khai thực hiện chính sách bằng
các văn bản mang tính pháp lý - quy định rành mạch, hợp lý trách nhiệm, quyền
hạn của các chủ thể thực hiện chính sách này; tránh tình trạng lẫn lộn quyền hạn,
trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm thực hiện chính sách. Thứ hai, tổ chức
phối hợp, thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan tổ chức thực thi chính sách và đội
ngũ cán bộ, công chức. Thứ ba: Bảo đảm các điều kiện về vật lực, nhân lực, tài lực
và các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ duy trì chính sách. Thứ tư: Bảo đảm kế hoạch
hóa về thời gian và quy trình thủ tục thực hiện. Thứ năm: Bảo đảm thông suốt về
thông tin trong quá trình thực hiện và duy trì chính sách.
1.2.5. Điều chỉnh chính sách phát triển văn hóa

Việc điều chỉnh chính sách phát triển văn hóa để chính sách phù hợp với
yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Trong quá trình thực hiện chính sách nếu
gặp khó khăn do môi trường thực tế thay đổi, do chính sách còn những bất cập,
hạn chế, chính sách không sát và không phù hợp với thực tiễn cần có những điều
chỉnh nhất định để đáp ứng yêu cầu, mục tiêu và phù hợp với tình hình thực tế.
Điều chỉnh các giải pháp, biện pháp, cơ chế chính sách để chính sách được thực
hiện có hiệu quả nhưng không làm thay đổi mục tiêu chính sách, nếu thay đổi
mục tiêu thì chính sách này coi như thất bại. Thẩm quyền điều chỉnh bổ sung
chính sách phát triển viên chức thuộc thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức ban

13


hành chính sách này nhưng việc điều chỉnh các biện pháp, các cơ chế thực hiện
chính sách diễn ra linh hoạt trong quá trình thực hiện chính sách.
Để điều chỉnh chính sách hợp lý đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức thực thi chính sách cần phải có năng lực và kiến thức, kỹ năng đề xuất các
giải pháp, biện pháp, cơ chế chính sách để chính sách được thực hiện có hiệu
quả, bảo đảm mục tiêu chính sách đề ra. Cán bộ, công chức, viên chức thực thi
chính sách phải am hiểu, nắm chắc các quy định, các công cụ thực hiện chính
sách, đông thời phải có kiến thức, kỹ năng phân tích các hạn chế, bất cập của
chính sách, các yêu cầu thực tiễn đặt ra trong thực hiện chính sách để có cơ sở
khoa học đề xuất điều chỉnh các giải pháp, biện pháp và cơ chế chính sách.
Đồng thời, phải để cao trách nhiệm trong tham mưu điều chỉnh biện pháp,
cơ chế chính sách, phải tôn trọng nguyên tắc khi điều chỉnh chính sách. Chính
sách phát triển văn hóa hiện nay có cần phải điều chỉnh hay không hoặc điều
chỉnh nhiều hay ít phụ thuộc vào tính hợp lý của chính sách và các vấn đề phát
sinh cần điều chỉnh trong quá trình thực hiện chính sách này trên thực tế.
1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
văn hóa

Đây là một khâu quan trọng trong thực hiện chính sách vì theo dõi, kiểm
tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển viên chức giúp kịp thời bổ sung
hoàn thiện chính sách đồng thời chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính
sách, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách. Để
theo dõi, kiểm tra, đốn đốc việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa cần phải
am hiểu sâu sắc mục tiêu của chính sách này, đối tượng thụ hưởng của chính
sách và các quy định, công cụ, giải pháp thực hiện chính sách.
Đồng thời, nắm chắc và chính xác các quy định trong kế hoạch thực hiện
chính sách, quy chế và nội quy thực hiện chính sách. Muốn theo dõi, kiểm tra,
đôn đốc thực hiện chính sách phát triển văn hóa cần thu thập, cập nhật đầy đủ
các nguồn thông tin, các cơ sở dữ liệu thông tin phản ánh về quá trình triển khai
14


và kết quả thực hiện chính sách từ các cơ quan, tổ chức hữu quan trong và ngoài
ngành. Trên cơ sở đó, xử lý phân tích thông tin, đối chiếu so sánh với các quy
định trong chính sách, các quy định trong kế hoạch, trong quy chế, nội quy thực
hiện chính sách để có cơ sở phát hiện phòng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có),
phát hiện sơ hở trong quản lý, trong tổ chức thực hiện, đề xuất các giải pháp
chấn chỉnh việc thực hiện, điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách góp phần
hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả chính sách.
1.2.7. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách
phát triển văn hóa
Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát triển
văn hóa là việc làm cần thiết và là một khâu, một nhiệm vụ rất quan trọng không
thể thiếu được trong quá trình thực hiện chính sách này. Đánh giá, tổng kết thực
hiện chính sách là quá trình xem xét kết luận về sự chỉ đạo, điều hành tổ chức
thực hiện chính sách của chủ thể thực hiện chính sách (các cơ quan, tổ chức và
đội ngũ cán bộ, công chức viên chức có chức năng thực hiện chính sách) và việc
chấp hành, thực hiện của người dân là đối tượng thụ hưởng chính sách. Để đánh

giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính chính sách một cách chính xác cần phải căn
cứ vào các tiêu chuẩn, tiêu chí và các nguyên tắc nhất định. Cơ sở để xây dựng
tiêu chí đánh giá công tác chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là kế hoạch và
các quy định, quy chế kèm theo. Ngoài ra, còn phải sử dụng các văn bản liên
tịch giữa các cơ quan trong và ngoài ngành, các văn bản quy phạm pháp luật,
các báo cáo kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên
quan. Để tổng kết, đánh giá chính xác, ngoài các tiêu chí ra còn phải căn cứ vào
các nguyên tắc đã được xác định, thống nhất giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị
liên quan. Các nguyên tắc đó là toàn diện, công bằng và khách quan. Việc đánh
giá, tổng kết, rút kinh nghiệm phải chỉ ra được chính xác các ưu điểm, nhược
điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách.

15


Cùng với việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành thực hiện của
các cơ quan trong đơn vị sự nghiệp, hành chính và các cơ quan chủ trì thực hiện
chính sách, còn phải xem xét, đánh giá kết quả thực hiện của đối tượng thụ
hưởng trực tiếp của chính sách văn hóa.
Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách nói chung và
chính sách phát triển văn hóa nói riêng là công việc khó, phức tạp trong quá
trình thực hiện chính sách. Điều đó đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và
ngoài ngành và cán bộ, công chức, viên chức tại địa bàn tham gia vào công việc
này phải có trình độ năng lực, kiến thức và kỹ năng nhất định, nếu không khó có
thể đánh giá được chính xác kết quả thực hiện chính sách, khó có thể rút ra được
bài học kinh nghiệm trong thực hiện chính sách này.
1.3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách văn hóa
1.3.1. Vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn
hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ

của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa
các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về các quyền liên quan, phù
hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam.
Tại Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Ngày
9/6/2014 đã thông qua Nghị quyết số 33 - NQ/TW về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Một
trong giải pháp quan trọng để thực hiện hiệu quả Nghị quyết trên là Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã định hướng “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về văn hóa”. Đây là vấn đề hệ trọng cần được sự quan tâm của toàn ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các ngành liên quan, chính quyền các cấp trong
việc nhận thức, quán triệt, triển khai. Trong những chia sẻ bước đầu từ những
định hướng của Nghị quyết đề ra về vấn đề cốt yếu của ngành Văn hóa, Thể thao
16


và Du lịch. Nghị quyết chỉ rõ: “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh
việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa,
về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực
tiễn Việt Nam”.
Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa cần
tiếp tục nhận thức về bối cảnh và tác động của nền kinh tế thị trường hiện nay,
sự vận động của kinh tế thị trường (trong nước và quốc tế) thường xuyên, liên
tục tác động đến bộ máy, cơ chế chính sách với những dạng thức phong phú với
những nhân tố tích cực và tiêu cực đến hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa.
Trên tầm vĩ mô và những hoạt động cụ thể việc ý thức, nhận thức được những
tác động đó của kinh tế thị trường liên quan đến đánh giá hiệu quả và giá trị của

hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. Trên bình diện lý luận cần làm rõ hơn
bối cảnh tác động của kinh tế thị trường đối với hoạt động quản lý nhà nước về
văn hóa có ý nghĩa đến hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; trên bình diện
thực tiễn cần có tổng kết đánh giá trên tinh thần mới của Nghị quyết số 33/NQTW đã chỉ ra.
Hội nhập quốc tế, sự bùng nổ công nghệ thông tin và truyền thông trong
thời kỳ hiện nay vừa mang lại những giá trị văn hóa mới của dân tộc, đồng thời
cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong quản lý nhà nước về
văn hóa. Trong nhiều vấn đề quản lý nhà nước về văn hóa trước sự tác động của
bối cảnh hội nhập quốc tế và thời đại công nghệ thông tin, truyền thông một vấn
đề quan trọng có ý nghĩa đặt ra là nâng cao năng lực, khả năng trình độ của cán
bộ công chức ngành Văn hóa một cách tương ứng để hội nhập và sử dụng công
nghệ thông tin, xử lý thông tin một cách hiệu quả. Bối cảnh, tình hình trên đặt ra
những vấn đề mới có ý nghĩa “thời cuộc” của đất nước nói chung và trong lĩnh
17


vực quản lý nhà nước về văn hóa nói riêng trong việc mang lại những giá trị
đích thực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các mục tiêu văn hóa
trong hội nhập và phát triển của đất nước theo hướng bền vững.
Việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn
hóa trong tình hình hiện nay và sắp tới là yêu cầu quan trọng đã, đang tiếp tục
đặt ra trong tư duy mới. Đây là hoạt động đòi hỏi các cơ quan chức năng, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch phải tiếp cận, xử lý nhiều loại, bình diện thông tin
(trong nước, quốc tế, kinh tế, văn hóa, luật pháp…) với quan điểm lập trường
đúng đắn, kiên định vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
1.3.2. Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Coi trọng quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm
công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở.
Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ

bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học,
trên đại học trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế.
Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội
nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa,
nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ
sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại
địa phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các
chuyên ngành văn hóa.
Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ
trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh
chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ
thuật đặc thù.
Mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng
trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn đầu tư của Nhà
18


nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần
bảo tồn, phát huy.
Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ, hiến tặng
cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.
Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với
các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở
vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát
triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất
bản... Xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm. Các địa phương, các cơ
quan, công sở, trường học, khu công nghiệp, doanh nghiệp, khu dân cư... có
thiết chế văn hóa phù hợp (thư viện, nhà văn hóa, công trình thể thao...).
Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để

nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, xây dựng con
người. (theo Pham Tuyên- Tạp chí Tuyên giáo số 12)
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hiệu quả các chính sách
văn hóa
1.4.1. Yếu tố khách quan
Bối cảnh xã hội: những thay đổi về điều kiện xã hội có thể tác động đến
cách thực hiện chính sách. Khi xã hội càng văn minh hiện đại, nhận thức của
con người càng tiến bộ, trình độ dân trí càng cao thì sẽ tạo nên những thuận lợi
cho việc thực hiện chính sách văn hóa. Chẳng hạn xu hướng dân chủ hoá hiện
nay đòi hỏi chính sách văn hóa phải được phổ biến và tranh thủ sự hưởng ứng
của dân, đòi hỏi Nhà nước phải thu hút sự tham gia của công dân, của các tổ
chức đoàn thể và các tổ xã hội dân sự đối với quá trình thực thi chính sách.
Bối cảnh kinh tế: những thay đổi về điều kiện kinh tế có tác động tương tự
đối với việc thực hiện chính sách văn hóa. Kinh tế tăng trưởng cao thì Nhà nước
sẽ bớt khó khăn hơn trong việc thực hiện các chính sách công, nhất là các chính
19


sách phát triển văn hóa.Việc thực hiện chính sách văn hóa đòi hỏi phải có một
nguồn kinh phí nhất định. Nguồn kinh phí này thường do ngân sách Nhà nước
cấp, do các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp, hoặc do nước ngoài tài trợ.
Trong quá trình thực hiện chính sách văn hóa, cần phải khai thác triệt để các
nguồn đầu tư, nhất là các nguồn kinh phí ngoài ngân sách Nhà nước. Ngày nay,
nhiều nước trên thế giới đã chú trọng vào việc khai thác các nguồn lực trong dân
nhằm giảm bớt chi phí cho ngân sách, nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội của
dân cư. Nếu chúng ta không có hoặc không đủ kinh phí thì không thể thực hiện
hiệu quả chính sách văn hóa. Vì vậy, việc thực hiện chính sách văn hóa phải đi
liền với việc đảm bảo đủ nguồn lực. Mặt khác, nguồn kinh phí cho thực hiện
chính sách văn hóa cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan nhà
nước cần có thẩm quyền và chế tài để giám sát, kiểm tra chặt chẽ và định kỳ xem

xét việc sử dụng kinh phí, đánh giá hiệu quả sử dụng kinh phí được giao.
Bối cảnh chính trị: những biến động trong bối cảnh chính trị có tác động
tới quá trình thực hiện chính sách văn hóa. Một đất nước mà tình hình chính trị
rối ren không ổn định (nhiều phe phái, đảo chính, nội chiến, chiến tranh) thì tất
yếu sẽ gặp khó khăn trong quá trình thực hiện chính sách nói chung và chính
sách văn hóa nói riêng. Mặt khác, khi nền chính trị ổn định, đảng cầm quyền
luôn xem việc phát triển nguồn nhân lực là nhân tố hàng đầu để xây dựng đất
nước thì sẽ tạo ra sự thuận lợi nhất định trong việc thực hiện chính sách văn hóa.
Bối cảnh quốc tế: cùng với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá, các biến
động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng có
tác động đáng kể đến việc thực hiện một chính sách văn hóa chính trị của mỗi
quốc gia. Đối với Việt Nam, kể từ khi hội nhập với quốc tế, các chính sách văn
hóa đã có những thay đổi căn bản. việc du nhập văn hóa tiến bộ từ các nền văn
hóa tiên tiến và việc tiếp cận các luồng văn hóa của người dân được thuận tiện
thông qua du nhập trực tiếp hay công nghệ thông tin là Cơ hội để việc gia thoa

20


và hội nhập văn hóa phát triển. Đây là những nhân tố hết sức thuận lợi trong
việc thực hiện chính sách văn hóa ở nước ta hiện nay.
1.4.2. Yếu tố chủ quan
Các định hướng và hoạch định được chính sách văn hóa phải cụ thể, phù
hợp và khoa học Đây là điều kiện tiên quyết để việc thực hiện chính sách văn
hóa hiệu quả, điều kiện này được xác định ngay từ quá trình hoạch định chính
sách. Làm tốt công tác hoạch định chính sách văn hóa sẽ tạo ra sự thuận lợi
trong quá trình thực hiện. Ngược lại, nếu chính sách bất hợp lý thì cho dù công
tác tổ chức thực hiện chính sách đó sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là thất
bại trong thực tế.
Bộ máy và đội ngũ cán bộ tổ chức thực hiện chính sách văn hóa Chính

sách phụ thuộc vào bộ máy, cơ chế, đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách. Bộ
máy càng gọn nhẹ, cơ chế làm việc càng minh bạch, không chồng chéo, sự phối
hợp giữa các bộ phận rõ ràng, thì việc triển khai chính sách bao giờ cũng thuận
lợi hơn. Thành công của một chính sách văn hóa phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng và sự hoạt động của cơ quan và cán bộ thực thi chính sách, thông thường là
các cơ quan trong bộ máy hành pháp - những người chủ yếu và trực tiếp thực
hiện chính sách. Nếu bộ máy hành chính quan liêu, hoạt động kém hiệu lực, hiệu
quả và các cán bộ công chức thiếu năng lực, trách nhiệm thì sẽ gây khó khăn
đến việc thực hiện chính sách; làm cho chính sách đó không phát huy tác dụng
trên thực tế, bóp méo các mục tiêu hoặc đi ngược lại ý đồ của chính sách. Một
chính sách hợp lý nhưng nếu bộ máy và cán bộ tổ chức thực thi kém năng lực và
phẩm chất thì cũng không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả. Mặt
khác, các thủ tục hành chính cũng tác động lớn đến hiệu quả của thực hiện chính
sách văn hóa. Các thủ tục này tạo ra môi trường thực hiện chính sách, mỗi cơ
quan có những quy định về thủ tục hành chính, các thủ tục này sẽ tạo điều kiện
cho việc thực hiện chính sách được thuận lợi. Các thủ tục hành chính phải có
tính ổn định tương đối để không gây nhiều xáo trộn cho quá trình thực hiện
21


chính sách. Khi những thủ tục hành chính đã trở nên lỗi thời, kìm hãm việc thực
hiện trong thực tế, thì cần phải thay thế bằng những thủ tục mới hợp lý và thuận
tiện hơn.
Sự hưởng ứng, ủng hộ của người dân đối với chính sách văn hóa là nhân
tố hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Một chính sách chỉ có thể thành
công khi có sự ủng hộ, hưởng ứng của nhân dân. Nếu bản thân chính sách đó
không đem lại lợi ích cho đất nước và cho đa số nhân dân hoặc nếu nhân dân
chưa hiểu đúng ý đồ và lợi ích của chính sách đó thì họ sẽ không ủng hội và
không thực hiện chính sách. Yếu tố có tính quyết định nhất là chính sách đó tác

động như thế nào đến lợi ích của nhân dân, sự tương quan giữa những người
được hưởng lợi và nhưng người không được thụ hưởng do việc thực hiện chính
sách này. Nếu chính sách đáp ứng được những nhu cầu của nhân dân thì nó sẽ
được ủng hộ, duy trì và phát triển.
Sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý cũng như các chính
sách khác của Đảng và Nhà nước, chính sách văn hóa bao giờ cũng thể hiện
quan điểm chính trị, lợi ích giai cấp. Vì vậy, rất có thể một chính sách đưa ra sẽ
vấp phải sự phá hoại, sự chống đối của các lực lượng thù địch trong và ngoài
nước; sự kìm hãm của những yếu tố bảo thủ, lạc hậu... Đây là những khó khăn,
phức tạp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành chính sách và quá trình
thực hiện. Điều đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo đất nước - những người có quyền
quyết định chính sách cũng như quyết định tổ chức thực hiện chính sách phải
cương quyết, có đủ quyết tâm và bản lĩnh để thực hiện và đưa chính sách đi đến
thắng lợi cuối cùng nếu thấy rằng đó là một chính sách đúng đắn và hợp lòng
dân. Mặt khác, đội ngũ các nhà quản lý là những người có trách nhiệm cao trong
việc tổ chức thực hiện chính sách, có quyết tâm khắc phục khó khăn, vượt qua
thách thức thì quá trình thực hiện chính sách văn hóa cũng sẽ diễn ra thuận lợi
và đạt được kết quả.
22


×