Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đề xuất giải pháp xác định định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thông qua ứng dụng kỹ thuật nhìn trước công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.81 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP XÁC ĐỊNH ĐỊNH HƯỚNG
CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN TRONG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG QUA
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT NHÌN TRƯỚC CÔNG NGHỆ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI -2016


VIỆN HÀN LÂM
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP XÁC ĐỊNH ĐỊNH HƯỚNG
CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN TRONG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG QUA


ỨNG DỤNG KỸ THUẬT NHÌN TRƯỚC CÔNG NGHỆ
Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60.34.04.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐÌNH BÌNH

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:
Luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Nguyễn Đình Bình
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng
trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm
vi hiểu biết của tôi.
Hà Nội, ngày 28 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN
TRONG CHIẾN LƯỢC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ .............................. 8

1.1.Tổng quan chiến lược khoa học và công nghệ ...................................................... 8
1.2. Một số phương pháp định hướng công nghệ ưu tiên trong xây dựng chiến lược
khoa học và công nghệ .............................................................................................. 16
1.3 Tổng quan kỹ thuật Nhìn trước công nghệ ......................................................... 23
Chương 2:KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ XÁC ĐỊNH HƯỚNG CÔNG
NGHỆ ƯU TIÊN TRONG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ THÔNG QUAKỸ THUẬT NHÌN TRƯỚC CÔNG NGHỆ .. 35
2.1. Kinh nghiệm xác định hướng công nghệ ưu tiên của Nhật Bản ........................ 35
2.2. Kinh nghiệm xác định hướng công nghệ ưu tiên của Hàn Quốc ....................... 41
2.3. Kinh nghiệm xác định hướng công nghệ ưu tiên của Liên bang Nga................ 45
2.4 Kinh nghiệm của một số nước ........................................................................... 53
2.5. Bài học cho Việt Nam ........................................................................................ 55
Chương 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ỨNG DỤNG KỸ THUẬT NHÌN TRƯƠC
CÔNG NGHỆ TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH HƯỚNG CÔNG NGHỆ ƯU
TIÊN Ở VIỆT NAM ....................................................................................... 58
3.1 Thực trạng việc xác định hướng ưu tiên trong chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ trong thời gian qua ................................................................................... 58
3.2 Bối cảnh trong việc xác định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược phát
triển khoa học và công nghệ Việt Nam trong thời gian tới ....................................... 64
3.3. Đề xuất giải pháp ứng dụng kỹ thuật Nhìn trước công nghệ trong việc xác định
hướng công nghệ ưu tiên ở Việt Nam. ...................................................................... 69
KẾT LUẬN …………………………………… ………………………………..75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 76


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Khoa học và công nghệ (KH&CN) là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước. Vai trò của hoạt động
KH&CN đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước được coi là căn cứ và

giải pháp cho chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đất nước. Điều đó được thể hiện
rõ trong quan điểm phát triển KH&CN đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát
triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: “Phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là một trong những
động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một
nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các
ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước và tài năng,
tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định thành
công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ”. Chiến lược KH&CN đóng
vai trò là công cụ định hướng cho sự phát triển KH&CN trong từng giai đoạn, kết
quả thực hiện Chiến lược cần tiến tới đạt được mục tiêu đã đề ra và qua đó phát
triển KH&CN nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nước ta nói chung. Do đó, xây
dựng chiến lược phát triển KH&CN cần được quan tâm thích đáng, qua đó tăng
cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Thật vậy, công nghệ thay đổi nhanh chóng đòi hỏi đầu tư lớn và có độ rủi ro
cao và phải có sự hỗ trợ của Chính phủ về mặt ngân sách. Nhà nước không thể đáp
ứng mọi yêu cầu của KH&CN nên vấn đề phát triển có chọn lọc, xác định lựa chọn
công nghệ ưu tiên trong chiến lược KH&CN đều được cân nhắc. Tuy nhiên bằng
cách nào để lựa chọn trúng hướng công nghệ ưu tiên phù hợp với bối cảnh cụ thể,
mục tiêu phát triển của từng nước và khả năng nguồn lực của quốc gia? Các quốc
gia phát triển trên thế giới đã lựa chọn cách thức nào để xác định công nghệ ưu tiên
của mình? Thực tế, trong những năm trước đây, để xác định các công nghệ ưu tiên
người ta chú ý nhiều tới các ý kiến, đề xuất của giới khoa học, nhưng hiện nay đặc

1


biệt là các nước đang phát triển họ chú trọng đến sức kéo của thị trường (nhu cầu

của thị trường do các doanh nghiệp đưa ra) và phù hợp với mục tiêu ưu tiêu của
quốc gia. Dựa vào kỹ thuật Nhìn trước công nghệ có thể chủ động lựa chọn các
phương án phát triển cho tương lai và đến nay không chỉ một số tổ chức có uy tín
như UNIDO, UNESCO mà các quốc gia phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc,…và
nhiều quốc gia khác sử dụng kỹ thuật Nhìn trước để xác định ưu tiên công nghệ của
tổ chức, quốc gia mình.
Việt Nam với nguồn lực hạn chế, KH&CN còn nhiều yếu kém và chưa phát
triển tương xứng với vai trò của nó, áp dụng kỹ thuật Nhìn trước để xác định công
nghệ ưu tiên phục vụ xây dựng chiến lược phát triển KH&CN cần được thực hiện
như thế nào? Với mục đích như trên, đề tài luận văn tập trung vào việc: “Đề xuất
giải pháp xác định định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược phát triển
khoa học và công nghệ thông qua ứng dụng kỹ thuật Nhìn trước công nghệ”.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Nhìn trước công nghệ là một thuật ngữ đã được sử dụng rộng rãi bởi các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, nhà công nghiệp, nhà tư vấn và những
lĩnh vực khác trên thế giới. Theo Google Scholar đã có hơn 5000 bài báo chuyên
ngành sử dụng thuật ngữ này, trong khi Google đã đăng kí hơn 90.000 lần truy cập.
Khái niệm Nhìn trước ban đầu liên quan đến tương lai cụ thể hơn liên quan đến
công nghệ
Theo tác giả Ben R.Martin và Ron Johnston[24]đã viết: từ những năm 1990,
kỹ thuật Nhìn trước công nghệ đã lan truyền nhanh chóng. Tác giả đã nghiên cứu
kinh nghiệm Nhìn trước công nghệ ở Anh, Úc, New Zealand. Qua đây để thấy được
những lợi ích của quá trình Nhìn trước công nghệ, họ quan tâm đến mối quan hệ
hợp tác dài hạn giữa các công ty, các ngành công nghiệp, các trường đại học, chính
phủ và xã hội nói chung.
Theo A. Diana Woft- Albers [35] đã viết về định nghĩa Nhìn trước ở thế hệ
thứ 3 do Trung tâm APEC đề xuất rằng: “Nhìn trước liên quan đến nỗ lực có hệ
thống để nhìn vào tương lai của khoa học, công nghệ, xã hội và nền kinh tế, các


2


tương tác của họ để thúc đẩy lợi ích xã hội, kinh tế và môi trường”. Bối cảnh kinh
tế, xã hội và văn hóa của các quốc gia khác nhau và các ngành công nghiệp khác
nhau có thể ảnh hửng đến việc lựa chọn phương pháp Nhìn trước; kết hợp các
phương pháp có thể hiệu quả hơn, ví dụ kịch bản và Delphi. Kinh nghiệm của
Trung tâm APEC thì Nhìn trước là một công cụ hữu hiệu cho việc lập kế hoạch
chiến lược ở cấp độ đa nền kinh tế, quốc gia, công nghiệp.
Theo báo cáo của UNIDO thì từ những năm 1990 việc sử dụng Nhìn trước
được phổ biến ở các nước. Hầu hết các nước thành viên OECD, các nước châu Âu
và nhiều nước Châu Á, Nam Mỹ đã tiến hành nghiên cứu “Nhìn trước công nghệ”
quốc gia (Johnston 2002). Cách tiếp cận “Nhìn trước công nghệ” của UNIDO tập
trung vào vấn đề phát triển công nghiệp dựa trên nguồn tài nguyên đến dựa trên
công nghệ để thúc đẩy sản xuất tốt hơn trong nền kinh tế quốc tế. Cách tiếp cận này
là công cụ xác định rủi ro và cơ hội giúp cho chính phủ đáp ứng thành công hiện tại
và chuẩn bị thay đổi thách thức cho tương lai. Đã có những sự thay đổi ngày càng
tăng từ các nghiên cứu “Nhìn trước công nghệ” cho thấy rằng: sự đa dạng các công
cụ có sẵn của Nhìn trước thích hợp cho từng mục đích và những điểm mạnh, điểm
yếu khác nhau. Đa số phạm vi áp dụng Nhìn trước ở cấp quốc gia. Điều này phản
ánh một giai đoạn trong việc nghiên cứu “Nhìn trước công nghệ” để xác định ưu
tiên và mục tiêu chính sách. Nhìn chung, các nghiên cứu đã được xây dựng và thực
hiện bởi các tổ chức có trách nhiệm quốc gia về vấn đề khoa học và công nghệ
chẳng hạn như một cơ quan thuộc chính phủ hoặc một cơ quan tư vấn. Đến nay,
Nhìn trước công nghệ ở cấp độ quốc gia đã trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn
phát triển Nhìn trước đầu tiên xuất hiện đầu những năm 1980 với nội dung chủ yếu
đề cập đến việc xác định các công nghệ mới nổi lên, hoặc những lĩnh vực khoa học
mang tính quốc gia. Các nước ứng dụng Nhìn trước ở giai đoạn này chủ yếu nhằm
định hướng lại đầu tư cho khoa học- công nghệ của quốc gia. Giai đoạn phát triển
thứ hai vào đầu những năm 1990 thì Nhìn trước gắn việc kết hợp công nghệ với thị

trường, đặt nền móng cơ sở cho việc huy động sự tham gia của cộng đồng doanh
nghiệp và cả giới nghiên cứu hàn lâm. Giai đoạn phát triển Nhìn trước thứ ba vào
năm 1999 đến nay có thiên hướng xã hội hóa mạnh. Hoạt động Nhìn trước ở giai

3


đoạn này thu hút được sự tham gia của nhiều bên và cộng đồng, cả trên bình diện
quốc tế, khu vực, quốc gia và trong từng ngành cụ thể. Giai đoạn phát triển Nhìn
trước lần thứ 4 [23] chương trình Nhìn trước có vai trò phân phối trong khoa học và
hệ thống đổi mới, chứ không phải được sở hữu của một nhà tài trợ duy nhất. Giai
đoạn phát triển Nhìn trước lần thứ 5: Một sự kết hợp của các chương trình và các
bài tập nhìn xa được phổ biến trên các trang web, kết hợp với nhiều yếu tố khác hỗ
trợ cho quá trình ra quyết định của chiến lược.
Hiện nay, cách tiếp cận theo phương pháp luận của Nhìn trước không chỉ bó
gọn trong lĩnh vực Nhìn trước công nghệ mà đã lan tỏa sang các lĩnh vực khác bao
gồm cả khoa học xã hội, trong đó có khoa học kinh tế.
Keenan (2007) trong một nghiên cứu có tựa đề “xem xét về các phương pháp
được sử dụng trong Nhìn trước công nghệ” đã giới thiệu các nguồn lực (về tiền và
thời gian), số lượng người tham gia, mở rộng các chuyên gia và các đối tượng trong
dự án Nhìn trước công nghệ. Các phương pháp Nhìn trước công nghệ đa số liên
quan đến các dữ liệu định lượng, xử lý thu thập thông tin dựa trên bằng chứng, sử
dụng sự sáng tạo, năng lực kết hợp của các phương pháp truyền thống .
Tóm lại: Các nghiên cứu trên chủ yếu xoay quanh vấn đề liên quan đến cơ sở
lý luận kỹ thuât Nhìn trước công nghệ, các phương pháp được ứng dụng trong nó và
mục tiêu được dùng hỗ trợ cho quá trình xây dựng chiến lược và đặc biệt góp phần
quan trọng vào việc xác định hướng công nghệ ưu tiên.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam thì từ những năm 2000, Nguyễn Văn Thu [13],[14],[15] đã tiến
hành những nghiên cứu ban đầu về phương pháp luận Nhìn trước. Tác giả đã tổng

quan phân tích lý luận và phương pháp luận về Nhìn trước và kinh nghiệm áp dụng
Nhìn trước của một số nước dưới góc nhìn của người Việt Nam đang có ý định vận
dụng cách tiếp cận Nhìn trước như là một công cụ hỗ trợ nhằm nghiên cứu chất
lượng quá trình ra quyết định về chiến lược và chính sách KH&CN.
Năm 2004 tác giả Nguyễn Mạnh Quân [11] đã phân tích tổng quan kinh
nghiệm nghiên cứu vận dụng cách tiếp cận Nhìn trước trong lựa chọn các hướng
KH&CN ưu tiên ở Việt nam: trường hợp chế biến ngành thực phẩm. Liên quan đến

4


chủ đề của đề tài thì tác giả Nguyễn Mạnh Quân [10],[12] đã có nghiên cứu về
phương pháp, quy trình tổ chức xây dựng chiến lược phát triển KH&CN. Mục đích
của đề tài là đề xuất cách tiếp cận và quy trình tổ chức xây dựng chiến lược phát
triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Đề tài luận văn cũng xin được kế
thừa một số kết quả của nghiên cứu và chỉ tập trung xác định đinh hướng công nghệ
ưu tiên trong xây dựng chiến lược KH&CN (là bước thứ 3 trong 8 bước).
Năm 2013 Trần Thọ Đạt [6] đã trình bày lý thuyết chung về Nhìn trước,
phương pháp luận của cách tiếp cận Nhìn trước trong xây dựng chiến lược nói
chung, chiến lược phát triển nguồn nhân lực giảng dạy nói riêng. Tác giả đi sâu
phân tích kịch bản ngành công nghệ thông tin và nguồn lực giảng dạy công nghệ
thông tin, đồng thời đề ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực giảng dạy công nghệ
thông tin của Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 trên cơ sở tiếp cận Nhìn trước, đề xuất
cơ chế, chính sách, giải pháp.
Năm 2016 Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ KH&CN), Văn phòng
các Chương trình KH&CN quốc gia, Công ty cổ phần giống cây trồng Trung Ương
phối hợp tổ chức Hội thảo “Báo cáo kết quả xây dựng bản đồ công nghệ, lộ trình
đổi mới công nghệ áp dụng cho ngành chọn tạo giống lúa, sản xuất lúa gạo tại Việt
Nam”.
Tóm lại: Nhìn trước đã thực hiện ở trong nước mới tập trung xem xét về

phương pháp luận của cách tiếp cận Nhìn trước và một số nghiên cứu ban đầu về đề
xuất vận dụng Nhìn trước đối với ngành chế biến thực phẩm, ngành chè hay trong
xây dựng chiến lược nguồn nhân lực giảng dạy công nghệ thông tin. Gần đây Nhìn
trước công nghệ đã được ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, tương lai trong lĩnh
vực y tế, vật liệu.
3.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu nghiên cứu: Đề xuất giải pháp xác định hướng công nghệ ưu tiên
trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thông qua ứng dụng kỹ thuật
Nhìn trước công nghệ.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

5


Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề
sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về xác định hướng công nghệ ưu tiên trong việc xây
dựng chiến lược thông qua kỹ thuật Nhìn trước công nghệ.
- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về việc sử dụng kỹ thuật Nhìn trước công nghệ
để xác định hướng công nghệ ưu tiên trong việc xây dựng chiến lược.
- Đề xuất giải pháp xác định hướng công nghệ ưu tiên trong xây dựng chiến lược
KH&CN ở Việt Nam.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Tập trung nghiên cứu bản chất của công cụ Nhìn trước công nghệ định hướng
cho việc xác định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược phát triển KH&CN.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Xác định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược phát triển KH&CN
thông qua ứng dụng kỹ thuật Nhìn trước công nghệ
5.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Nghiên cứu cơ sở lý luận dựa trên tổng quan công
trình nghiên cứu, bài báo trong và ngoài nước, kế thừa kết quả từ một số đề tài về
chiến lược và lựa chọn ưu tiên trong xây dựng chiến lược KH&CN ở Việt Nam.
-Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích tài liệu: Thu thập những tài liệu
(các nghiên cứu, các công trình, các bài báo…) ở trong và ngoài nước về khái niệm
chiến lược và chiến lược KH&CN, công nghệ ưu tiên và kỹ thuật Nhìn trước công
nghệ.
6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Góp phần bổ sung, làm rõ hơn vai trò của kỹ thuật Nhìn
trước công nghệ trong hệ thống phương pháp xác định hướng công nghệ ưu tiên.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần vào quá trình xác định hướng công nghệ ưu tiên
trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thông qua ứng dụng kỹ thuật
Nhìn trước công nghệ.

6


7.Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và kiến nghị thì cơ cấu luận văn bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược
khoa học và công nghệ.
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế về xác định hướng công nghệ ưu tiên trong
chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thông qua kỹ thuật Nhìn trước công
nghệ.
Chương 3: Đề xuất giải pháp xác định hướng công nghệ ưu tiên trong xây
dựng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thông qua kỹ thuật Nhìn trước
công nghệ.

7



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH HƯỚNG CÔNG NGHỆ ƯU TIÊN
TRONG CHIẾN LƯỢC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Nhiều quốc gia ở các trình độ phát triển khác nhau trên thế giới từ mấy thập kỷ
gần đây đã có những thay đổi tư duy, quan điểm và cách tiếp cận chiến lược phát
triển quốc gia trong bối cảnh quốc tế hóa và toàn cầu hóa. Vậy chiến lược, chiến
lược KH&CN được hiểu như thế nào và định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến
lược quan trọng ra sao hay dùng kỹ thuật gì để giúp định hướng công nghệ ưu tiên
trong xây dựng chiến lược khoa học và công nghệ. Chương 1 của Đề tài luận văn sẽ
tìm hiểu và làm rõ các nội dung nêu trên.
1.1.Tổng quan chiến lược khoa học và công nghệ
1.1.1.Khái niệm chiến lược
Thuật ngữ “chiến lược” bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp cổ “stratagem” hoặc
“strateges” và nó mang ý nghĩa về tư tưởng chỉ đạo có tính cơ bản đối với các hành
vi để đạt được mục đích lớn nào đó mà người ta mong muốn.
Khái niệm chiến lược bắt đầu xuất hiện từ trong lĩnh vực quân sự với nghĩa
ban đầu là nghệ thuật lãnh đạo quân, tức là một kế hoạch cấp cao để đạt được một
hay nhiều mục tiêu trong điều kiện không chắc chắn.
Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật cũng như trình độ phát triển của xã hội
ngày càng đặt ra vấn đề mở rộng quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, tổ chức từ quy
mô nhỏ đến quy mô lớn. Cũng từ đó, khái niệm chiến lược dần được sử dụng phổ
biến trong nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Cách hiểu về khái niệm chiến lược theo
quan điểm của nhiều tác giả và các tổ chức trên thế giới vẫn còn khác nhau. Theo
tác giả Fêđôrenkô [21], “chiến lược là nguyên tắc bất kì, quy định những hành
động trong mỗi tình huống của quá trình nhận quyết định. Nguyên tắc đó cần bao
quát toàn bộ quá trình nhận quyết định và mọi trường hợp có thể xảy ra”. Như vậy,
theo khái niệm trên thì chiến lược bao gồm 3 yếu tố: mục tiêu, quan điểm, chính
sách (thực hiện). Quan điểm này được tiếp cận dưới góc độ toán học và điều khiển

học, vì thế khái niệm chiến lược được xem là nguyên tắc, thể hiện tính chắc chắn,
chính xác và mang tầm bao quát cao.

8


Trung tâm kinh tế của Ôxtrâylia (CIE) [1]cho rằng, “chiến lược gồm chiến
lược trung hạn và chiến lược dài hạn, nội dung chiến lược phải xác định được điểm
xuất phát và mục tiêu cuối cùng của một giai đoạn phát triển, phải xây dựng các thể
chế và tận dụng yếu tố thị trường để đạt được các mục tiêu phát triển, trong đó nhấn
mạnh chiến lược phải tính đến các khía cạnh vĩ mô và vi mô cũng như các khía
cạnh chính trị xã hội của các mục tiêu phát triển và chỉ ra cần phải làm gì để đạt
được các mục tiêu đề ra”. Có thể thấy, quan điểm này về khái niệm chiến lược vừa
thể hiện tầm bao quát, vừa cụ thể và chi tiết trong việc hoạch định mục tiêu và cách
thức để đạt được mục tiêu đó.
Tổ chức phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) cho rằng:
“Thông thường, một chiến lược phát triển có thể mô tả như bản phác thảo quá trình
phát triển nhằm đạt những mục tiêu đã định cho một thời kì từ 10-20 năm; nó
hướng dẫn các nhà hoạch định chính sách trong việc huy động và phân bổ các
nguồn lực. Như vậy, có thể nói chiến lược cung cấp một “tầm nhìn” của một quá
trình phát triển mong muốn và sự nhất quán trong các biện pháp tiến hành. Chiến
lược có thể là cơ sở cho các kế hoạch phát triển toàn diện ngắn hạn và trung hạn,
hoặc là một nhận thức tổng quát không bị ràng buộc của những người trong cuộc
trong thời kỳ đó về những triển vọng, những thách thức và những đáp ứng mong
muốn”. Như vậy, quan điểm của UNIDO xác định thời hạn cụ thể của một chiến
lược (10-20 năm), nhấn mạnh đến việc phân bổ nguồn lực để đạt được mục tiêu.
Hơn nữa, khái niệm này đã đề cập đến chủ thể xây dựng chiến lược.
Năm 2003, trong một số công trình nghiên cứu của PSG.TS.Ngô Doãn Vịnh
[17] cũng đề cập đến nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nghiên cứu chiến lược,
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, lý giải những vấn đề lý luận cơ bản

về tăng trưởng phát triển; về chiến lược, quy hoạch phát triển và bàn luận việc vận
dụng chúng vào điều kiện Việt Nam. Phần hai của tác phẩm với tựa đề “Chiến lược,
quy hoạch phát triển: Kế sách và hành động”, tác giả đã đưa ra quan điểm khái
niệm chiến lược và làm rõ những vấn đề cốt lõi về khái niệm này. Theo tác giả,
“phàm những vấn đề có tính chất toàn cục thì chúng được xem là chiến lược. Do
nhiệm vụ có tính chất toàn cục đều không thể thực hiện ngay trong một lúc được, vì

9


thế nó có tính chất lâu dài; hơn nữa, những vấn đề có tính chất toàn cục và lâu dài
thường là những vấn đề quan trọng”. Cũng trong phần này, tác giả luận giải một số
vấn đề về lý luận chiến lược, trong đó phân tích rằng, một chiến lược thường gồm
hai yếu tố tạo nên là tư tưởng chỉ đạo chiến lược và mục tiêu chiến lược. Theo quan
điểm này, khái niệm chiến lược mang tính chất chung chung, chỉ tính đến tính chất
toàn cục và lâu dài của vấn đề, chưa thể hiện rõ về nội hàm khái niệm.
Năm 2007, nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh đã định nghĩa chiến lược
[8] như sau: “Chiến lược là sự bố trí tổng thể các nguồn lực, các giải pháp để đạt
mục đích – mục tiêu tổng quát do người lãnh đạo định ra”. Ở đây, tác giả đưa ra
quan điểm về khái niệm chiến lược bao gồm: Mục tiêu, giải pháp và nguồn lực.
Một số chuyên gia [2] cho rằng, “chiến lược chỉ nên là một bản về tầm nhìn
dài hạn với những dự báo xu hướng phát triển, các quan điểm phát triển, trong đó
những ý tưởng và quan điểm có tầm quan trọng hàng đầu”. Họ chỉ ra hai hướng lựa
chọn trong cách hiểu đối với một chiến lược: thứ nhất là lựa chọn về phạm vi rộng
hay hẹp của chiến lược được xây dựng theo thời gian, thứ hai là chiến lược được
xác định theo mục tiêu. Với quan điểm về cách thể hiện chiến lược thứ hai, thì mục
tiêu không đưa vào nội dung nội hàm khái niệm chiến lược. Theo đó, chiến lược chỉ
là công cụ, phương tiện, con đường để đạt tới mục tiêu đặt ra. Hay nói cách khác,
mục tiêu là cái cần đạt được trong tương lai, còn chiến lược là cách thức để đạt tới
mục tiêu đó.

Trong một số nghiên cứu [9];[11] của tác giả Nguyễn Mạnh Quân cũng đã
đưa ra quan điểm về chiến lược như sau: “Một chiến lược nên được hiểu là cả một
“gói” tổng thể bao gồm cả các dự báo dài hạn, các mục tiêu, phương tiện và các
nguồn lực được bố trí sử dụng theo các quy hoạch, kế hoạch trung hạn và ngắn hạn,
các lộ trình, chương trình, dự án cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu dài hạn đã xác
định”. Có thể thấy, quan điểm này đã thống nhất được các yếu tố và xác lập mối
quan hệ không tách rời giữa chiến lược với các quy hoạch, kế hoạch, chương trình
và dự án cụ thể. Hơn nữa, với việc lựa chọn khái niệm chiến lược mang tính tổng
thể và toàn diện như thế có giá trị thực tiễn hóa chiến lược qua sự hiện diện của nó
trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án. Qua đó, vai trò thiết thực của

10


chiến lược được thấy rõ hơn ngay trong nội hàm khái niệm này, bao quát từ mục
tiêu đến phương tiện, từ ý tưởng đến diễn biến thực hiện.
Dựa vào tổng thể các khái niệm chiến lược được tổng quan trên đây, có thể
nhận ra rằng, các quan điểm khác nhau về khái niệm chiến lược nằm ở việc xác
định mối quan hệ giữa Mục tiêu và Phương tiện (trong đó phương tiện gồm giải
pháp và nguồn lực) bao gồm các nhóm sau:
Chiến lược không bao gồm mục tiêu, nghĩa là chiến lược chỉ là công cụ,
phương tiện, con đường để đạt tới mục tiêu đặt ra. Hay nói cách khác, mục tiêu là
cái cần đạt được trong tương lai, còn chiến lược là cách thức để đạt tới mục tiêu đó.
Chiến lược chỉ gồm mục tiêu và giải pháp, không bao hàm nguồn lực thực
hiện. Và trong thực tiễn, hầu hết các bản chiến lược được xây dựng chỉ nói đến mục
tiêu dài hạn, giải pháp dài hạn.
Chiến lược gồm cả mục tiêu và phương tiện (trong đó phải thể hiện được cả
giải pháp và nguồn lực thực hiện). Với những quan điểm theo cách tiếp cận này,
nhiệm vụ của một chiến lược phải giải quyết cả ba vấn đề: Định rõ mục tiêu cần đạt
tới; Chỉ rõ con đường cần đi; Hướng phân bổ nguồn lực để đạt được mục tiêu đã

chọn. Do đó, nhiệm cụ của chiến lược phải tìm ra được phương thức lựa chọn ưu
tiên và sử dụng nguồn lực làm sao để có thể đạt được mục tiêu cao nhất. Đây là việc
đặt ra đối với việc phân tích và lựa chọn chiến lược.
Những yêu cầu đặt ra đối với vai trò thực thi của chiến lược đã dẫn đến việc
hình thành một hệ thống quan niệm gần đây, coi chiến lược là cả một gói tổng thể
từ dự báo, xác định mục tiêu, giải pháp, nguồn lực, đến tổ chức thông qua các quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án nhằm xác định các mục tiêu dài hạn.
Chiến lược do Nhà nước ban hành như một công cụ quản lý- dù ở cấp nào,
trong lĩnh vực nào cũng có thể coi là một dạng can thiệp của nhà nước. Do vậy,
chiến lược cũng nằm trong phạm trù về chính sách và là một loại can thiệp về chính
sách [16].
1.1.2. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
Chiến lược chung được hiểu như vậy, vậy chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ nói riêng được hiểu như nào. Đến nay, chưa có công trình nào làm rõ

11


khái niệm chiến lược phát triển khoa học và công nghệ mà chỉ đề cập đến chiến
lược phát triển hay chiến lược khoa học và công nghệ. Chẳng hạn như trong cuốn
“Chiến lược phát triển bàn về tư duy và hành động có tính chiến lược” của Ngô
doãn Vịnh [17] đã cho rằng “chiến lược phát triển hay chiến lược về phát triển, là
“tinh thần cơ bản” của đường lối phát triển do con người định ra, nó thể hiện chủ
đề tư tưởng và gắn liền với chủ đề tư tưởng ấy là phạm vi bao quát và nội dung
chủ yếu (hay trọng tâm) của chiến lược được thể hiện thông qua mục tiêu, hệ
thống các quan điểm, biện pháp cơ bản có tính chiến lược về phát triển của một đối
tượng (hay một hệ thống) mà các nhà lãnh đạo đề ra; nó chỉ đạo hành động thống
nhất của một cộng đồng hay một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nhằm đạt tới
mục tiêu cao nhất, lớn nhất, tổng quát nhất đã xác định. Nói như thế mỗi quốc gia
phải gắn với một chiến lược cụ thể.

Theo tác giả B. Benev: “Chiến lược KH&CN được hiểu là sự xác định các
phương hướng chủ yếu, các con đường phát triển, các vấn đề KH&CN ưu tiên và
các nỗ lực hướng đích của Nhà nước trong lĩnh vực KH&CN” [10].
Nhìn chung, theo cách hiểu này chiến lược KH&CN được hiểu theo như sau:
- Chiến lược phải xác định mục tiêu dài hạn phát triển KH&CN.
- Trọng điểm ưu tiên về KH&CN.
- Con đường để thực hiện mục tiêu theo hướng ưu tiên.
- Các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước để thực hiện mục tiêu đã xác định.
Theo cách hiểu này, đối tượng của chiến lược KH&CN mặc nhiên được
hiểu là các hoạt động KH&CN. Hoạt động KH&CN theo mô hình tuyến tính được
hiểu chỉ bao gồm các hoạt động nghiên cứu khoa học (trong đó bao gồm nghiên cứu
cơ bản và nghiên cứu định hướng ứng dụng) và phát triển công nghệ, tức là các
hoạt động diễn ra trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo ra các sản phẩm vật chất,
hay nói cách khác là những hoạt động nằm bên ngoài hoạt động sản xuất và
kinh doanh.
Tác động của chiến lược KH&CN chỉ cung cấp đầu vào dưới dạng các tri
thức khoa học, các ý tưởng công nghệ và các sáng chế công nghệ cho quá trình
sản xuất kinh doanh và không quan tâm đến quá trình và kết quả áp dụng những

12


sản phẩm nghiên cứu KH&CN vào trong sản xuất kinh doanh như thế nào. Nhiệm
vụ chủ yếu của chiến lược KH&CN là lựa chọn hướng nghiên cứu KH&CN trọng
điểm, lựa chọn các mục tiêu xây dựng tiềm lực KH&CN.
Nhược điểm của cách quan niệm này về đối tượng và phạm vi của
chiến lược KH&CN là dễ thấy và hậu quả lớn nhất là chiến lược KH&CN
không đi vào thực tế và gắn những hoạt động phát triển kinh tế-xã hội, sản xuất
và kinh doanh với những sản phẩm và dịch vụ mới mà xã hội có thể nhận biết.
Chủ thể tham gia xây dựng chiến lược KH&CN :các cơ quan là nhà nước,

các tổ chức nghiên cứu Chiến lược, cộng đồng KH&CN, tổ chức KT-XH, chính trị.
Sản phẩm đầu ra của “chiến lược KH&CN”thường là một văn bản bao gồm:
- Các quan điểm chỉ đạo.
- Các mục tiêu cần đạt tới.
- Các trọng điểm ưu tiên về KH&CN.
- Các con đường/ cách đi để đạt tới mục tiêu theo các hướng ưu tiên đã lựa
chọn
- Các biện pháp tác động của nhà nước để thúc đẩy phát triển KH&CN
Như vậy, mục tiêu của chiến lược KH&CN theo cách tiếp cận truyền thống
hướng đến “trong lĩnh vực KH&CN”, “đáp ứng nhu cầu phát triển của bản thân
KH&CN”.
Chiến lược KH&CN theo nghĩa “đổi mới- Innovation”
“Innovation” là quá trình “chuyển ý tưởng thành sản phẩm mới hoặc sản phẩm hoàn
thiện đưa ra thị trường, thành quy trình đưa vào hoạt động hoặc hoàn thiện trong
công nghiệp và thương mại, hoặc đưa ra cách tiếp cận mới về dịch vụ xã hội”
(Nelson, 1993). “ Đổi mới là một quá trình biến đổi bao gồm trong đó các hoạt
động phát minh khoa học, nghiên cứu ứng dụng, triển khai công nghệ, đào tạo
nhân lực, đầu tư tài chính, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm” ( Arthur J. Carty, 1988) [9]
Điểm khác biệt về cơ bản giữa hoạt động KH&CN với hoạt động đổi mới ở
chỗ, đầu ra của các hoạt động KH&CN là các kết quả nghiên cứu như phát minh,
sáng chế thì sản phẩm đầu ra của hoạt động đổi mới là các sản phẩm, dịch vụ mới
được xã hội và thị trường chấp nhận.

13


Đối tượng của “chiến lược đổi mới” được hiểu là hoạt động đổi mới bao
gồm cả R&D và ngoài R&D như ứng dụng và phát triển công nghệ, sản xuất, chế
tạo và tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ xã hội.
Chủ thể tham gia xây dựng “chiến lược đổi mới” là các doanh nghiệp

vì các kết quả nghiên cứu là một đầu vào, là một phương án để doanh nghiệp
xem xét, cân nhắc và lựa chọn chứ không phải là phương án duy nhất để đáp ứng
nhu cầu của họ. Vì thế cần biết được nhu cầu của họ cần gì, mục tiêu họ muốn gì
để có thiết kế chiến lược phù hợp với từng thời kì, từng giai đoạn. Chính các
doanh nghiệp sẽ là người đưa ra các nhu cầu thật sự cho các ứng dụng kết quả
hoạt động KH&CN, liên kết giữa hoạt động KH&CN với sản xuất kinh doanh trong
các hệ thống đổi mới.
Sản phẩm đầu ra của “chiến lược đổi mới” mục tiêu về xây dựng
tiềm lực KH&CN, chiến lược phát triển KH&CN theo cách tiếp cận hệ thống đổi
mới (lấy các hoạt động đổi mới làm đối tượng của chiến lược) phải được cụ thể
hóa bằng một số chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng một số ngành và
sản phẩm quốc gia với sự tham gia của các bộ ngành, tập đoàn doanh nghiệp
và các tổ chức KH&CN có liên quan.
Như vây, mục tiêu chiến lược đổi mới phải gắn với chính sách nhằm phục vụ
các mục tiêu của chiến lược kinh tế xã hội. Qua đó, đã thể hiện hệ quan điểm xác
định mục tiêu chiến lược KH&CN không tách rời mục tiêu phát triển KT-XH, thực
sự đưa chiến lược KH&CN gắn liền với thực tiễn.
Qua đây có thể thấy chiến lược được đề cập nhiều đến trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội và chiến lược KH&CN. Các nhà nghiên cứu lịch sử KH&CN
thường lưu ý tới hai chức năng cơ bản của KH&CN, đó là [5]:
-

Chiến lược phục vụ kinh tế-xã hội

-

Chiến lược dẫn đường cho kinh tế- xã hội
Chiến lược không chỉ là mục tiêu, mà bao gồm cả chương trình, hành động

và giải pháp để hướng tới mục tiêu. Vậy làm sao để đạt được mục tiêu đề ra? Thì

việc xác định định hướng công nghệ ưu tiên là vô cùng quan trọng đối với các quốc
gia trong tình trạng khan hiếm nguồn lực và hạn chế về ngân sách.

14


1.1.3. Định hướng công nghệ ưu tiên trong chiến lược khoa học và công nghệ.
Ưu tiên không chỉ có nghĩa là việc người ta làm trước các việc khác theo thứ
tự thời gian mà quan trọng và thiết thực hơn còn thể hiện ở các nguồn lực (đặc biệt
là về tài chính) được bố trí, phân bổ cho lĩnh vực ưu tiên phải nhiều hơn, lớn hơn
các lĩnh vực khác [11].
Do có thay đổi về phạm vi xem xét của các hoạt động KH&CN nên ưu tiên
KH&CN cũng thay đổi và không còn chỉ được hiểu các những ưu tiên về các chủ đề
chuyên môn KH&CN thuần túy, có nghĩa tự thân chỉ nhằm giải quyết những vấn đề
nội tại của bản thân KH&CN. Thêm vào đó, ưu tiên KH&CN có xu hướng được mở
rộng, gắn kết và lồng ghép trong những ưu tiên về kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa,
môi trường, nhằm giải quyết những vấn đề không thuần túy hoặc là nằm bên ngoài
KH&CN. Ưu tiên KH&CN có thể được xác định dưới 3 dạng [11]:
- Ưu tiên theo các lĩnh vực KH&CN chuyên môn thuần túy dưới dạng các bộ
môn khoa học (toán học, vật lý học, sinh học, vv..), lĩnh vực khoa học (nghiên cứu cơ
bản hoặc nghiên cứu ứng dụng) và ưu tiên theo các lĩnh vực công nghệ (công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ tự động hóa,vv..)
- Ưu tiên KH&CN gắn với các ngành và lĩnh vực, thí dụ như: KH&CN trong
nông nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm, trong sản xuất, quản lý và phân phối
điên năng…Đặc điểm của dạng ưu tiên KH&CN này thường bao gồm hoặc liên quan
đến nhiều bộ môn khoa học, nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau để giải quyết những
vấn đề của cả một ngành kinh tế chứ không chỉ riêng một bộ môn khoa học hay lĩnh
vực công nghệ nào. Mục tiêu của việc xác định ưu tiên KH&CN loại này chủ yếu
nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế của một ngành, một lĩnh vực ví dụ như vấn đề cạnh
tranh, chất lượng sản phẩm, tiêu dùng hàng hóa..

- Ưu tiên KH&CN được lồng ghép trong các mục tiêu phát triển KT-XH, các ưu
tiên chiến lược và chính sách phát triển các lĩnh vực KT-XH. Thí dụ các vấn đề y tế,
giáo dục, phòng và chống thiên tai, chống khủng bố. So với hai loại ưu tiên trên , loại
ưu tiên này có phạm vi tập hợp rộng rãi hơn và liên quan nhiều đến hoạt động quản lý
của các nhà nước, các chính phủ và liên quan đến chi tiêu tài chính công.

15


Xét về bản chất xác định công nghệ ưu tiên là tìm kiếm sự đồng thuận về các
hoạt động nhằm xác định đâu là các hoạt động có tầm quan trọng hơn, cần ưu tiên
thực hiện. Xác định đúng thứ tự ưu tiên vừa là đòi hỏi khách quan là mục tiêu của
quá trình quản lý, mọi quốc gia, mọi ngành, mọi cấp đều phải đối mặt với tình trạng
nguồn lực có hạn.
Công nghệ ưu tiên ở đây có nghĩa rằng nhà nước sẽ tập trung đầu tư từ ngân
sách để xây dựng năng lực hoạt động cho lĩnh vực đó để đón trước một số hướng có
lợi thế và triển vọng hỗ trợ khu vực doanh nghiệp trong tương lai.
Vậy có thể hiểu công nghệ ưu tiên là tổng hợp các năng lực, nguồn lực cho
phát triển đồng thời tập trung vào một số sản phẩm, một số công nghệ then chốt và
ưu tiên phân bổ nguồn lực đầu tư và nghiên cứu hiệu quả hoạt động KH&CN.
Việc xác định hướng công nghệ ưu tiên cho chiến lược phát triển KH&CN là
một nghệ thuật. Nghệ thuật này xuất phát từ hiểu biết sâu sắc về năng lực nội sinh của
KH&CN. Đó là một dạng năng lực tổng hợp, không tuân theo những suy diễn cơ học
máy móc, tuyến tính, mà rất biện chứng, khách quan, toát lên tinh thần vận dụng sức
mạnh tổng hợp trong thời đại toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế sâu rộng như ngày nay.
Ví dụ, ở một giai đoạn nhất định của phát triển tiềm lực, không nhất thiết phải chờ đợi
đến khi ta tự làm được tất cả thì nước ta mới được thụ hưởng những thành tựu của
công nghệ hiện đại, ví dụ như vệ tinh, công nghệ thông tin-viễn thông. Ngược lại, có
những lĩnh vực nhậy cảm, cạnh tranh cao, thì chúng ta bắt buộc phải xây dựng tiềm
lực vững chắc, ví dụ liên quan đến an ninh, quốc phòng.

Có thể thấy nguồn ngân sách của các nhà nước để đầu tư cho KH&CN là không
thể đáp ứng được hết yêu cầu đặt ra. Vấn đề phát triển có chọn lọc, lựa chọn ưu tiên
trong khoa học và công nghệ đặt ra với mọi quốc gia. Lựa chọn công nghệ ưu tiên là
một trong những bước quan trọng của xây dựng Chiến lược. Vậy phương pháp nào ưu
việt hơn cả để xác định công nghệ ưu tiên?
1.2. Một số phương pháp định hướng công nghệ ưu tiên trong xây dựng chiến
lược khoa học và công nghệ
Với cách hiểu Chiến lược KH&CN như đã đề cập ở phần trên, thì làm cách
nào để xây dựng được chiến lược KH&CN theo quan niệm như vậy. Dưới đây tác

16


giả luận văn sẽ tìm hiểu một số phương pháp xây dựng chiến lược KH&CN nhưng
tập trung lựa chọn và nhấn mạnh vào phương pháp nào ưu việt hơn được dùng để
xác định định hướng công nghệ ưu tiên trong xây dựng chiến lược KH&CN:
1.2.1.Phương pháp phân tích SWOT
SWOT là một công cụ phân tích có thể được sử dụng để kiểm tra
những điểm mạnh và điểm yếu bên trong mỗi quốc gia, ngành và doanh
nghiệp cũng như các cơ hội thách thức bên ngoài đối với các quốc gia, ngành và
doanh nghiệp đó. Phân tích SWOT có liên quan đến việc thu thập các yếu tố bên
trong và bên ngoài mà có thế có tác động đến sự phát triển của quốc gia, ngành
và doanh nghiệp. Kỹ thuật này giúp cho các quốc gia, ngành và doanh nghiệp tự
phân tích điểm mạnh, điểm yếu và biết chớp thời cơ một cách thuận lợi. Chất
lượng phân tích của mô hình SWOT phụ thuộc vào chất lượng thông tin thu thập
được. Phân tích SWOT được chia thành 3 phần: phân tích điều kiện bên trong, phân
tích điều kiện bên ngoài, phân tích điều kiện cả bên trong- bên ngoài của đối
tượng [12].
Sản phẩm của bản phân tích SWOT là các yếu tố tích cực và tiêu cực tiềm
năng được nhận dạng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của quốc gia. Vì vậy đây

là công cụ trọng tâm trong các phân tích chiến lược để từ đó xác định công nghệ
nào cần ưu tiên đối với một quốc gia.
Ưu điểm: của phương pháp SWOT
-

Là quá trình kết quả để lựa chọn và sắp xếp trật tự công nghệ ưu tiên
trên các yếu tố liên quan.

-

Bản kết quả phân tích SWOT là một chỉ dẫn quan trọng để xây dựng
các kế hoạch ở tầm nhìn dài hạn.

Hạn chế:
- Chất lượng các yếu tố ưu tiên còn nhiều tranh luận.
-

Không dễ dàng phân tích khi gặp phải các yếu tố phức tạp hoặc yêu cầu

các chuyên gia công nghệ và chuyên môn cao.
Vấn đề là ở chỗ thông tin nào sẽ được điền vào ma trận đó. Để có những
thông tin mang tính chất đánh giá, so sánh như vậy, lại cần phải huy động sự tham

17


gia phân tích của những chuyên gia am hiểu tình hình thực tiễn, tương quan so
sánh giữa các đối tượng được đem ra so sánh. Do đó, thực tiễn đã chỉ ra đây là
phương pháp ít được sử dụng để xác định ưu tiên trong xây dựng chiến lược, các
lựa chọn chiến lược khó có thể được xem là được luận cứ tốt.


1.2.2.Phương pháp xây dựng kịch bản
Ban đầu thuật ngữ kịch bản được dùng trong các nhà hát và trong kỹ thuật
làm phim ảnh. Thuật ngữ này có nghĩa là các bản thảo chức năng của một vở kịch
hoặc một bộ phim. Một bản thảo như vậy không chỉ bao gồm các đoạn văn với các
câu văn và các đoạn hội thoại của diễn viên, mà nó còn bao gồm các ghi chú và lời
khuyên của đạo diễn, diễn viên, quay phi, biên tập viên và thiết lập trang trí cho các
hành động, dàn dựng, cảnh quan và các vật dụng trang trí. Nó cũng mô tả sự chuyển
động mà các diễn viên phải thực hiện, vị trí của họ trên sân khấu và có lẽ cả những
chi tiết về nhân vật, sự xuất hiện của nhân vật.
Theo Anita Rubin [28] trong nghiên cứu tương lai, có hai cách hiểu khác
nhau cho khái niệm “kịch bản”. Đầu tiên, suy nghĩ kịch bản là một cách hiểu về
tương lai, dựa trên cơ sở các nghiên cứu tương lai như là một lĩnh vực của các cuộc
điều tra. Các kịch bản nhằm xem xét khả năng sẽ mang đến những cơ hội đến các
tương lai khác nhau và thay thế, để nó trở thành hiện thực. Suy nghĩ kịch bản với
những tương lai thay thế của nó làm tăng tính linh hoạt trong việc đưa ra lựa chọn
chiến lược và do đó làm tăng khả năng chuẩn bị cùng một lúc cho nhiều lựa chọn
khác nhau trong tương lai. Như vậy, suy nghĩ kịch bản là một công cụ có thể sử
dụng hầu hết trong các công việc theo định hướng tương lai và đưa ra quyết định,
cho nhiều nhà tương lai học; Nghĩa thứ hai của khái niệm “kịch bản” được dùng
trong các nghiên cứu tương lai liên quan đến phương pháp. Chúng ta thường gọi là
các phương pháp kịch bản và thực hiện kịch bản. (Bell, 1997a, 316) nói rằng một
kịch bản có thể được xem như là một cách để tóm tắt kết quả của nghiên cứu tương
lai, nó dựa trên các phương pháp định lượng mà căn cứ trên các dữ liệu cứng.
Một định nghĩa được đưa ra bởi Van Notten 2005 [27]: “Các kịch bản là
những mô tả phù hợp và súc tích của tương lai về giả thuyết thay thế mà phản ánh

18



những quan điểm khác nhau về quá khứ, hiện tại và sự phát triển tương lai, có thể
cung cấp như là một cơ sở cho hành động.”
Định nghĩa của Van Notten (2005) đã được các nhà nghiên cứu chấp nhận
như một định nghĩa chung nhất về phương pháp kịch bản, nói rõ nội dung của các
kịch bản và mục đích của các kịch bản được đưa ra.
Theo Rialland [27] Mục đích của kịch bản cũng như công việc lập kế hoạch kịch
bản, xây dựng các kịch bản là: đưa ra tầm nhìn tương lai, hạn chế và loại bỏ tính
không chắc chắn của tương lai và thực sự trở thành công cụ đắc lực phục vụ cho
quá trình hoạch định chính sách hiện tại để đạt hiệu quả cao nhất
Nội dung của một kịch bản thường được thể hiện theo một dàn bài lô gic như sau:
• Xác định và mô tả những diễn biến và tình hình của đối tượng xem xét trong
tương lai bao gồm cả những diễn biến tích cực và tiêu cực.
• Đưa ra những luận cứ, lý giải những nguyên nhân dẫn đến tính hình tương lai
đó xuất phát từ các động lực và các bất định tính đến trong kịch bản.
• Xác định, lựa chọn những ưu tiên và chiến lược hành động cần theo đuổi để
khai thác những yếu tố tích cực và hạn chế yếu tố tiêu cực.
Ưu điểm: của phương pháp kịch bản
- Việc xây dựng kịch bản sẽ cung cấp thông tin để suy nghĩ và đề xuất các
chiến lược, giúp xác định xem những công nghệ ưu tiên nào là quan trọng cho các
kịch bản trong tương lai.
- Công nghệ ưu tiên được đề xuất theo cơ chế đồng thuận do vậy khả năng
thực thi sẽ lớn hơn.
Hạn chế:
Kết quả của kịch bản phụ thuộc vào khả năng tổ chức thực hiện của nhóm điều
hành, ở chất lượng chuyên gia được mời tham dự và đặc biệt là vai trò của người
chủ trì hội thảo.

1.2.3.Phương pháp xây dựng lộ trình công nghệ (Techonology roadmap)
Lộ trình công nghệ (TRM) [12] là công cụ toàn diện giúp các doanh nghiệp
nắm bắt thị trường tốt hơn và ra quyết định đầu tư công nghệ hữu hiệu hơn. Đấy là

một quá trình kế hoạch hóa của ngành công nghiệp nhận dạng sản phẩm tương lai,

19


công nghệ và dịch vụ cần thiết của mình đồng thời đánh giá và lựa chọn các công
nghệ đáp ứng được các nhu cầu đó. Thông qua TRM, các doanh nghiệp liên kết với
giới khoa học, chính phủ, tạo ra nhiều đối tác mới và phát triển các giải pháp sáng
tạo cho các công nghệ và nhu cầu nghiên cứu hiện hành
Mục đích của TRM là đem lại lợi ích cho quốc gia, nền công nghiệp và
doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch đổi mới công nghệ để tăng cường sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Trong chiến lược phát triển công nghiệp của Canada, người
ta đã khẳng định “những ngành công nghiệp đã có TRM đang vươn lên đến một giai
đoạn mới, nơi mà những sáng kiến, cải tiến công nghệ sẽ đáp ứng được nhu cầu mà
thị trường đòi hỏi”
Lộ trình công nghệ: là phương pháp xác định những công nghệ quan trọng
cần thiết từ việc đánh giá thị trường trong tương lai, thông qua các mốc thời gian (3
năm, 10 năm, hoặc lâu hơn nữa) để đáp ứng đòi hỏi của thị trường; đồng thời đưa ra
các biện pháp phối hợp để triển khai TRM và các hoạt động sau khi triển khai TRM
đó.
Lộ trình công nghệ ở Việt Nam đã được Bộ KH&CN ứng dụng vào ngành
chọn tạo giống lúa. Đây là bộ tư liệu hiểu rõ về hiện trạng công nghệ Việt Nam gắn
với thị trường và sản phẩm [4].
Trong lĩnh vực lúa gạo, những năm qua, việc ứng dụng và đổi mới công nghệ
đã giúp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn ở top 3 các nước
xuất khẩu hàng đầu thế giới. Nhưng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt
cùng với biến đổi khí hậu phức tạp, sản xuất lúa gạo cần có chiến lược mới, hướng
tới nền nông nghiệp sản xuất theo chuỗi hàng hóa, giá trị tăng cao.
Bản đồ công nghệ chọn tạo giống lúa được hoàn thành sẽ cung cấp thông tin
định hướng công nghệ tương lai để sản xuất chất lượng cũng như chống lại loại

bệnh, chống chịu hạn mặn. Cụ thể, bản đồ này đã chỉ ra, Việt Nam có khả năng đáp
ứng 100% nhu cầu giống lúa thuần, còn với giống lúa lai chỉ đáp ứng được 33%,
còn lại phải nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ với giá trị nhập khẩu xấp xỉ 35
triệu USD. Trong đó tỷ trọng xuất khẩu các giống lúa chất lượng cao còn thấp, chưa
có giống xuất khẩu mang thương hiệu Việt Nam. Yêu cầu đặt ra trong thời gian tới

20


là Việt Nam phải tạo ra giống có chất lượng tốt, năng suất cao, chống chịu với
những yếu tố bất lợi như rầy nâu, đạo ôn, bạc lá, virus, hạn mặn, ngập.Nhờ định
hướng trên, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua đã tập trung nghiên
cứu và tạo ra được một số giống lúa chịu hạn mặn, có năng suất chất lượng và
chống chịu sâu bệnh như MO137, OM10373...
Bên cạnh bản đồ trong tạo giống lúa, trong năm nay, Bộ Khoa học tiếp tục
hoàn thiện bản đồ công nghệ trong lĩnh vực sản xuất văcxin; đến 2017-2018 là bản
đồ lĩnh vực công nghệ gene; tế bào gốc; ngành sản xuất vật liệu và linh kiện điện tử,
bán dẫn. Đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản hình thành hệ thống bản đồ công nghệ
các ngành, lĩnh vực sản xuất quan trọng.
1.2.4. Phương pháp điều tra Delphi
Phương pháp điều tra Delphi là phương pháp dự báo bằng trưng cầu ý kiến
điển hình do hai nhà khoa học Mỹ là O.Helmer và D.Gordon đề xướng và lấy
tên một thành phố cổ Hy Lạp.
Phương pháp này được tiến hành nhằm tìm kiếm sự đồng thuận của các
chuyên gia thông qua việc một số vòng hỏi ý kiến về những phán đoán, nhận định,
đánh giá một vấn đề tương lai bằng các phiếu hỏi.
Phương pháp này có các đặc điểm chủ yếu sau [36]:
- Có tính khuyết danh: Điều này loại trừ hoàn toàn hình thức thảo luận trực
tiếp và công khai, loại trừ được yếu tố tâm lý. Cuộc trưng cầu được tiến hành
thông qua bản tự khai khuyết danh và có ý kiến thông báo cho các chuyên

gia, không nêu rõ của ai.
- Sử dụng tích cực các mối quan hệ ngược để điều chỉnh các câu trả lời, điều
đó được thể hiện ở chỗ cuộc trưng cầu được tiến hành qua nhiều giai đoạn.
Kết quả trưng cầu ở giai đoạn trước được thông báo cho giai đoạn sau. Dựa
vào các thông tin đã được thông báo này mà các chuyên gia đánh giá điều
chỉnh câu trả lời của mình. Liên hệ ngược cho phép loại bỏ những thông tin
không có ích và giảm độ tản mạn trong câu trả lời, hạn chế những tác động
bên ngoài của tập thể
Công dụng: phương pháp này thường sử dụng với các dự báo có tính dài hạn.

21


×