Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đổi mới phương pháp học tập của sinh viên trường đại học nội vụ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.47 KB, 42 trang )

LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu khoa học là một môi trường rất tốt để sinh viên chúng em có
cơ hội được sáng tạo, được nghiên cứu và đề xuất những ý kiến của mình và trau
dồi thêm kiến thức và làm bước đệm cho việc nghiên cứu các đề tài về sau. Để
đẩy mạnh hiệu quả của hoạt động nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội nói chung và khoa Tổ chức và quản lí nhân lực nói chung và bộ môn
phương pháp nghiên cứu khoa học nói riêng đã phát động phong trào nghiên cứu
khoa học trong sinh viên nên em đã tham gia tìm hiểu với đề tài “ Đổi mới
phương pháp học tập của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội”.
Đây là lần đầu tiên em tham gia nghiên cứu khoa học vì vậy trong quá
trình nghiên cứu vẫn còn gặp nhiều bỡ ngỡ. Nhưng nhờ có sự hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình của cô giáo Lê Thị Hiền, giảng viên bộ môn cùng các thầy cô giáo
trong trường đã giúp chúng em hoàn thành đề tài này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong trường, và
lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Lê Thị Hiền đã theo sát và định hướng cho em
trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Do kinh nghiệm còn thiếu và kiến thức có hạn nên đề tài của em vẫn còn
nhiều thiếu sót. Em rất mong các thầy cô giáo góp ý để đề tài hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................1
Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
Lịch sử nghiên cứu........................................................................................2
Mục đích nghiên cứu.....................................................................................2
Đối tượng nghiên cứu....................................................................................3
Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................3


Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................3
Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
Giả thuyết nghiên cứu...................................................................................3
Ý nghĩa thực tiễn và khoa học.......................................................................3
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................3
CHƯƠNG I. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VỚI NHỮNG ĐỔI MỚI
VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CHO SINH VIÊN............................................4
Sơ lược về trường Đại học Nội vụ Hà Nội....................................................4
Cơ sở thực tiễn ..............................................................................................6
1.1.Một số khái niệm.....................................................................................6
1.1.1.Đổi mới là gì?.......................................................................................6
1.1.2.Phương pháp học tập............................................................................6
1.1.2.1.Phương pháp học tập truyền thống...................................................7
1.1.2.2.Phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo...........................7
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI...............................................................8
Thực trạng áp dụng phương pháp học truyền thống......................................8
Thực trạng áp dụng phương pháp học tích cực, chủ động, sáng tạo...........10
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI..................................................15


Một số phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.........................15
1.1. Phương pháp học nhóm........................................................................15
1.2.Phương pháp tự học...............................................................................17
1.3.Phương pháp thuyết trình .....................................................................20
1.4.Phương pháp học theo sơ đồ tư duy......................................................26
* Ưu điểm....................................................................................................28
1.5. Phương pháp P-O-W-E-R....................................................................28
1.6. Phương pháp sắm vai .........................................................................30

1.7. Viết nhật Kí học tập..............................................................................31
KẾT LUẬN.........................................................................................................35
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................37



PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, khối
lượng kiến thức của nhân loại ngày nay đang tăng hàng ngày theo hàm số mũ.
Đi cùng với nó là nền kinh tế TRI THỨC, đó là nền kinh tế mà tri thức của con
người chiếm phần lớn giá trị của sản phẩm chứ không phải chủ yếu dựa trên sức
cơ bắp của con người và máy móc như trong nền văn minh nông nghiệp và công
nghiệp. Trong công nghiệp, nếu như trước đây giá trị sản phẩm chủ yếu dựa trên
vật liệu, chế tạo và lắp ráp, thì ngày nay nó lại chủ yếu dựa trên thiết kế và
marketing. Ở nước ta, trong những năm 70 của thế kỷ trước, sau khi tốt nghiệp
đại học, người kỹ sư có thể sử dụng kiến thức học được trong trường để công tác
suốt cuộc đời. Còn ngày nay, nếu dừng lại, chúng ta sẽ bị tụt hậu nhanh chóng.
Vì thế, học tập trong trường Đại học trước kia chỉ đơn thuần là tích lũy kiến thức
thì ngày nay ngoài tích lũy kiến thức sinh viên phải biết tự phát triển kiến thức
đã tích lũy được một cách sáng tạo trong thực tiễn sản xuất. Hơn nữa, vì khối
lượng kiến thức học trong trường đại học trước kia còn ít nên sinh viên có thể
dựa hoàn toàn vào kiến thức của thầy truyền đạt trên lớp là đủ, lặp lại những
điều thầy nói, những điều thầy cho ghi và sáng tạo đôi chút là có thể được điểm
cao và đáp ứng được nhu cầu ít biến động của xã hội. Ngày nay, khối lượng kiến
thức trong trường Đại học tăng lên gấp bội vì nó vừa phải đảm bảo kiến thức cơ
bản, tính kế thừa, vừa phải liên tục cập nhật biết bao cái mới ,đặc biệt là học
theo hệ thống tín chỉ. Nếu như, sinh viên vẫn chỉ dựa vào thầy theo kiểu ngày
xưa thì làm sao thầy có đủ thời gian để giảng hết kiến thức của học phần trên
lớp, làm sao thầy có thời gian để đọc cho các em ghi hết nội dung học phần, làm

sao thầy có thể giải thích cho từng em một, đến từng đáp số như trước đây. Vậy
thì, sinh viên ngày nay có cần phải dựa vào thầy nữa hay không? và câu “Không
có thầy đố mày làm nên” còn đúng không? Tất nhiên, câu ngạn ngữ trên vẫn
đúng và sinh viên không những vẫn phải dựa vào thầy mà còn phải biết dựa một
cách thông minh hơn vì kho tàng kiến thức thì lớn mà thời gian thầy dành riêng
cho từng sinh viên thì có hạn. Chính vì thực tiễn này mà việc đổi mới phương
pháp học tập của sinh viên là vấn đề quan trọng cần phải được quan tâm và
mang tính cấp thiết hiện nay. Đó không chỉ tạo ra môi trường học tập mới cho
1


sinh viên mà còn tạo cho sinh viên được sáng tạo theo cách học mới ,vận dụng
linh hoạt chuyên môn vào sát với thực tiễn từ đó sinh viên có thể chủ động hơn
trong học tập và lĩnh hội kiến thức,đồng thời để nâng cao kĩ năng chuyên môn
nghề nghiệp. Có thể khẳng định rằng đổi mới phương pháp học là một trong
những yếu tố quan trọng nhất của quá trình đổi mới trong xu hướng phát triển
của đất nước hiện nay. Đây chính là lí do mà em đã chọn “ Đổi mới phương
pháp học tập của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội” làm đề tài nghiên
cứu.
Lịch sử nghiên cứu
Đã có một số tác giả đã từng nghiên cứu về đề tài này,cụ thể là :
- Đề tài : “ Nghiên cứu các giải pháp đổi mới phương pháp học tập các
môn khoa học pháp lí của sinh viên chuyên ngành dịch vụ pháp lí” mã số 141
của Nguyễn Trung Hiếu –lớp dịch vụ pháp lí, tháng 11-2012.
- Đề tài : “ Nghiên cứu phương pháp xây dựng bài tập thực hành môn
văn bản giảng dạy tại trường Cao Đẳng văn thư lưu trữ trung ương I “ mã số
144 của Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Cường ,năm 2007.
Phần lớn các tác giả đã chỉ ra được một số phương pháp học tập tích cực
cho sinh viên như : Phương pháp thuyết trình,phương pháp sắm vai ,phương
pháp trải nghiệm thực tế,viết nhật kí học tập,tạo ra sự thay đổi thường xuyên ,lập

liên hệ góc,học bài theo tầng và phương pháp xây dựng bài tập thực hành…Mà
hiện tại đang đặt ra là sự thay đổi về chương trình đào tạo của trường ta là từ
liên chế lên tín chỉ,đòi hỏi sinh viên cần có những phương pháp học tập tích
cực , chủ động, sáng tạo để thích nghi với sự thay đổi trên đồng thời bắt kịp với
lượng kiến thức đồ sộ.Do đó việc nghiên cứu đổi mới phương pháp học tập của
sinh viên là công việc rất cần thiết và đáng được quan tâm nhiều hơn nữa,không
chỉ giúp người học hiểu sâu và nắm rõ hơn về kiến thức chuyên môn mà còn tạo
cho sinh viên có sự hứng thú,đam mê việc học tập hơn.
Mục đích nghiên cứu
Đưa ra những phương pháp học tập tích cực,hữu ích nhằm góp phần làm
phong phú phương pháp học tập cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà
Nội ,để từ đó học tập và nghiên cứu có hiệu quả hơn.

2


Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp học tập của sinh viên
Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
- Thời gian: Khoá 2013-2017
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội với những đổi mới về
phương pháp học tập cho sinh viên
- Nghiên cứu thực trạng đổi mới phương pháp học tập của sinh viên
Trường Đại học Nội vụ hà Nội.
- Giải pháp đổi mới phương pháp học tập của sinh viên Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên hệ thống các phương pháp sau:

- Phương pháp biện chứng kết hợp giữa lí luận với thực tiễn
- Phương pháp thu thập và xử lí thông tin
- Phương pháp phân tích,tổng hợp,so sánh
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp khảo sát thực tế bảng hỏi
Giả thuyết nghiên cứu
Nếu đổi mới phương pháp học tập thì sẽ mang lại hiệu quả học tập tốt
hơn,tạo hứng thú ,đam mê cho người học.
Ý nghĩa thực tiễn và khoa học
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu về phương pháp học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo đưa ra có thể áp dụng cho sinh viên Đại học Nội vụ Hà
Nội nhằm tạo sự hứng thú cho sinh viên và nâng cao hiệu quả học tập.
- Ý nghĩa khoa học: Góp phần làm giàu, phong phú phương pháp học
tập cho sinh viên.

PHẦN NỘI DUNG
3


CHƯƠNG I. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI VỚI NHỮNG ĐỔI
MỚI VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CHO SINH VIÊN.
Sơ lược về trường Đại học Nội vụ Hà Nội
Trường Đại học Nội vụ 42 năm truyền thống và phát triển.
Năm 1971 Trường trung học Văn thư Lưu trữ được thành lập theo
Quyết định số 109/BT ngày 18/12/1971 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng với
nhiệm vụ đào tạo cán bộ trung học chuyên nghiệp của nghành Văn thư, Lưu
trữ ; Bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ đang làm công
tác văn thư, lưu trữ ở các cơ quan nhà nước.
Ngày 11/5/1994 nhằm tháo gỡ những khó khăn cho nhà trường trong đào
tạo và tạo dựng vị thế, Bộ trưởng Trưởng ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (nay là

Bộ Nội vụ) đã ban hành Quyết định số 50/TCCB-VP về việc chuyển địa điểm
Trường Trung học Văn thư Lưu trữ về Hà Nội (Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội).
Quyết định số 50 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tạo cơ hội tốt cho
Trường trong việc tuyển sinh, tiếp nhận giáo viên có chuyên môn cao, cũng như
tạo thuận lợi trong việc đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hoá đội ngũ
cán bộ công chức của ngành và của đất nước.
Sau 2 lần đổi tên thành Trường Trung học lưu trữ và Nghiệp vụ văn
phòng I (1996); Trường Trung học văn thư Lưu trữ Trung ương I (2003), ngày
15/6/2005 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết địnhsố 3225/QĐBGDĐT về việc thành lập Trường Cao đẳng Văn thư Lưu trữ Trung ương I
nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội về nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trường trực thuộc Bộ Nội vụ,
chịu sự quản lí nhà nước về giáo dục của Bộ giáo dục và Đào tạo. Năm 2008,
Trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội.
Ngày 14/11/2011 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
2016/QĐ-TTg về việc thành lập Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
Trong suốt chặng đường phát triển 42 năm qua nhà trường đã vinh dự
nhận được nhiều phần thưởng cao quý: Huân trương Lao động hạng Ba (1996);
Huân chương Lao động hạng Nhì (2001), huân chương Lao động hạng Nhất
4


(2006); Huân chương Độc lập hạng Ba (2011), và nhiều bằng khen cuat Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Công an, Bộ Nội vụ,…
Cơ cấu tổ chức trường Đại học Nội vụ Hà Nội
- Hiệu trưởng và các Phó Hiệu trưởng
- Hội đồng Khoa học và Đào tạo và các Hội đồng tư vấn khác
- Phòng chức năng (6 phòng): Đào tạo, Hành chính Tổ chức, Kế hoạch
Tài chính, Quản lý khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế, Công tác học sinh
sinh viên, Quản trị;
- Khoa chuyên môn (7 khoa): Văn thư Lưu trữ, Văn hoá thông tin và Xã

hội, Quản trị văn phòng, Quản lý nhân lực, Hành chính học, Lý luận chính trị,
Đào tạo tại chức;
- Trung tâm (3 trung tâm): Tin học ngoại ngữ, Đào tạo nghề, Thông tin thư
viện
- Cơ sở đào tạo tại TP Đà Nẵng.
Ngành nghề đào tạo có 22 ngành nghề, trong đó 12 ngành học bậc cao
đẳng: Hành chính văn thư, Lưu trữ học, Quản trị văn phòng, Thông tin thư viện,
Thư ký văn phòng, Quản trị nhân lực, Quản lý văn hoá, Văn thư - Lưu trữ, Tin
học, Hành chính học,Dịch vụ pháp lý và cao đẳng nghề văn thư hành chính; 7
ngành học bậc trung cấpchuyên nghiệp: Lưu trữ, Thư ký văn phòng, Hành chính
Văn thư, Hành chính văn phòng, Thông tin Thư viện, Tin học văn phòng, Hành
chính; 3 ngành học trung cấp nghề: Văn thư đánh máy, Thư ký văn phòng, Tin
học văn phòng.
Ngày 04 tháng 10 năm 2010, Bộ trưởng Bộ Nội vụ ký Quyết định số
1121/QĐ-BNV phê duyệt Đề án “Quy hoạch Trường Cao đẳng Nội vụ Hà Nội
từ năm 2010 đến năm 2020”, trong đó Trường có nhiệm vụ xây dựng Dự án
nâng cấp trường lên đại học.
Đến cuối năm 2009, Trường có 86 giảng viên, giáo viên cơ hữu trên tổng
số 157 cán bộ viên chức, trong đó có 13 giảng viên chính, 47 giảng viên, 26 giáo
viên. Trong số giảng viên giáo viên có 7 phó giáo sư, tiến sĩ, 4 NCS, 30 thạc sĩ,
24 học viên cao học và hàng chục giảng viên kiêm chức khác.
5


Cơ sở thực tiễn
1.1.

Một số khái niệm

1.1.1. Đổi mới là gì?

Theo nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê Nin thì mọi vật đều không
ngừng vận động, vì vậy mà sự vận động đã làm cho hành tinh của chúng ta trở
thành hành tinh duy nhất có sự sống. Từ những sinh vật đầu tiên với cấu tạo đơn
giản, con người qua hàng triệu năm tiến hoá và cho đến nay đã đạt đến sự phát
triển và hoàn thiện cao nhất. Tuy nhiên con người khi sinh ra không phải hoàn
thiện về mọi mặt mà cần có cả một quá trình sống thích nghi với môi trường đổi
mới, đổi mới tù cách làm việc, cách sống cho đến cách tư duy sao cho nhanh
nhẹn hơn, lôgic hơn đáp ứng yêu cầu của môi trường sống. Do đó nếu không xó
sự đổi mới thì chính con người sẽ tự đào thải mình ra ngoài xã hội.
Vậy đổi mới là gì? Tại sao phải đổi mới? Theo từ điển Tiếng Việt thì đổi
mới là thay đổi làm cho sự thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước đáp ứng
được yêu cầu của sự phát triển. Như vậy đổi mới có nghĩa là thay đổi cái cũ cái
vốn có theo hướng khác tích cực hơn, tiến bộ hơn để phù hợp với xu thế chung
của xã hội và môi trường. Đổi mới không đồng nghĩa với việc vứt bỏ những cái
cũ mà là dựa trên nền tảng đã có, kế thừa phát huy những gì vốn có từ trước đểm
phát triển đi theo một hướng tích cực hơn, hay nói một cách khác việc đổi mới
là sự dung hoà giữa cũ và mới nhằm tạo ra sự tiến bộ trong giai đoạn phát triển
của con người.
1.1.2. Phương pháp học tập
Phương pháp học tập là kĩ năng đòi hỏi rèn luyện lâu dài thông qua quá
trình học và tự học chứ không phải truyền thụ một cách đơn giản, ngắn gọn bằng
một khoá học. Chẳng hạn không thể qua một lớp huấn luyện viết mà sinh viên
có thể viết tốt tiểu luận. Muốn được như vậy, anh ta nhất thiết phải qua một quá
trình viết đi viết lại các tiểu luận khác nhau và được chỉnh sửa đối chiếu thì mới
hình thành nên một lối viết vững vàng.
Phương pháp học là một hệ thống những kĩ năng mang tính cá nhân cao.
Tính cá nhân ở đây bị chi phối bởi nhân cách, mục đích học, tương quan cá
6



nhân đó với môi trường xã hội. Đây là yếu tố làm cho phương pháp học không
thể rập khuôn từ người này sang người khác.
1.1.2.1.

Phương pháp học tập truyền thống

Phương pháp học tập truyền thống nên hiểu là một cách học thụ động chị
sự chi phối, tác động từ bên ngoài là chính, là chủ yếu; hiểu một cách chung
nhất sinh viên như một cái bình chưa kiến thức được người dạy rót vào đó.
Phương pháp học thụ động là kiểu học tập thiếu sự độc lập cho suy nghĩ và tiếp
nhận, hầu như không có sự tìm tòi sáng tạo, kiến thức mà người học thu được
khó trở thành tài sản riêng của họ như: học thuộc, phân tích so sánh, phát vấn.
1.1.2.2.

Phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo

Phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo là tự đề cao sự tự giác,
chủ động lĩnh hội kiến thức của người học nói chung và sinh viên nói riêng, sinh
viên không lệ thuộc vào kiến thức người dạy truyền tải trên lớp. Tính tích cực
học tập – về thực chất là sự nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng
trí lực và có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực đó
liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng
thú là tiền đề của sự tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích
cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống
sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển
tự giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập.
Các phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo đem lại hiệu quả
cao cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có thể kể đến như: học nhóm,
thuyết trình, tự học, viết nhật kí học tập, sơ đồ tư duy, phương pháp P-O-W-ER và phương pháp sánh vai.


7


CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI.
Thực trạng áp dụng phương pháp học truyền thống
Từ xưa đến nay, cách dạy thầy đọc – trò chép là một phương pháp giảng
dạy phổ biến ở hầu hết các cấp bậc học, được nhiều thế hệ giáo viên sử dụng.
Do đó mà nhiều thế hệ học sinh cũng đã áp dụng nhiều phương pháp học thụ
động có tâm lí ỷ lại vào giáo viên, không chủ động tự học tìm tòi kiến thức.
Nhiều sinh viên khi lên lớp không biết hôm nay sẽ học phần nào và tiếp cận môn
học ra sao. Hiện nay, sinh viên học rất thụ động chỉ lắng nghe một phía từ giáo
viên giảng dạy mà không chú trọng đến việc suy nghĩ phân tích những kiến thức
mà giáo viên giảng. Những kiến thức trên lớp khá nhiều, có nhiều môn học
lượng kiến thức rất lớn và thời gian học lại hạn chế, vì vậy mà nhiều sinh viên
không tiếp thu kịp những kiến thức mới nên tạo ra cảm giác mệt mỏi,lười suy
nghĩ, cứ phụ thuộc vào việc chép do giáo viên đọc, đa số sinh viên đều không
tiếp cận với giáo trình, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, phần ít có bạn lại chỉ đọc
những gì mà giáo viên đã đọc chép trên lớp và coi đó là những gì cần thiết. Nếu
chỉ đọc những gì mà giáo viên chắt lọc thì hiệu quả sẽ không cao, thậm chí
người học sẽ không hiểu vấn đề mình cần học là gì? Ngoài ra người học còn có
thói quen học thuộc lòng, học rất nhiều nhưng lại không hiểu hết, việc học như
vậy có thể mang lại điểm số cao nhưng nếu nói là áp dụng vào thực tế thì lại rất
khó. Như chúng ta đã biết việc học lí thuyết là một điều quan trọng nhưng để
vận dụng vào thực tiễn một cách dễ dàng và có hiệu quả thì đòi hỏi người vận
dụng phải có kiến thức và am hiểu về những điều cơ bản nhất, chính vì thế mà
ngay khi học chúng ta cần xác định cho mình một cách học sao cho phù hợp với
khả năng tiếp thu của bản thân và đem lại hiệu quả. Nói đến cách học truyền
thống hay học theo phương pháp tích cực ta không thể phủ nhận vai trò quan
trọng của giáo trình trong việc giúp sinh viên hiểu rõ hơn về môn học của mình,

tuy nhiên những kiến thức mà giáo trình cung cấp không phải là tất cả mà đó chỉ
là một phần rất nhỏ so với những điều mà người học cần biết và tiếp cận, muốn
8


hiểu sâu về lĩnh vực chuyên môn hay có cái nhìn khái quát về một môn học đại
cương nào đó thì giáo trình không phải là tài liệu duy nhất để học và tham khảo
mà bên cạnh đó người học cần tìm hiểu kiến thức ở nhiều bộ môn thuộc nhiều
lĩnh vực khác, thế nhưng đa số người học hiện nay lúc nào cũng chăm chăm vào
việc học trong giáo trình hoặc do sức ỳ quá lớn mà chính người học đã tự tạo ra
cho mình một cảm giác e sợ môn học, ngại tìm hiểu, thụ động dẫn tới tình trạng
phụ thuộc nhiều vào kiến thức giáo viên giảng trên lớp. Mặt khác, cách giảng
dạy cũng một phần làm ảnh hưởng đến cách học của từng sinh viên, các phương
pháp này hiện nay vẫn chưa có thiên hướng đổi mới rõ rệt, vẫn lệ thuộc vào cách
giảng cũ, đối với những môn học ở bậc cao đẳng, đại học lượng kiến thức lớn lại
mang tính trừu tượng nên các bài giảng không gây được hứng thú cho người
học, điều đó phần nào cũng gây tâm lí nhàm chán. Do đó, sinh viên không tiếp
thu được nhiều kiến thức khi học và hiện tượng khó hiểu là tình trạng chung của
cách học theo phương pháp học truyền thống. Hiện nay đa số các sinh viên của
trường đều áp dụng các phương pháp học truyền thống đã và đang tồn tại nhiều
vấn đề cần khắc phục.
Trong phương pháp học truyền thống người học rất thụ động trong việc
tiếp thu kiến thức chỉ chăm chú lắng nghe bài giảng, ghi chép lại lời giảng của
giáo viên mà không chịu chủ động tìm hiểu sâu và nắm rõ những nội dung mình
học nên dẫn đến tình trạng không hiểu đúng hoặc khó nhớ nội dung môn học.
Bên cạnh đó kết quả của cách học này còn làm người học dễ lâm vào tình trạng
lười suy nghĩ, thiếu tính sáng tạo trong quá trình học tập, nhiều người chỉ tìm
cách học đúng, học đủ ý đã chép để hoàn thành những nội dung mà giáo viên
dự định ra đề thi. Như vậy người học chỉ học trên lí thuyết mà không có sự tìm
hiểu về thực tiễn dẫn đến hệ quả không biết cách ứng dụng kiến thức vào tình

huống cụ thể.
Nếu trong quá trình học mà người học tuyệt đối quá cách học này có thể
sẽ không mang lại hiệu quả cao cho việc học, thậm chí làm tâm lí người học mệt
mỏi hơn. Thực tế cho thấy việc học thụ động sẽ làm cho người học thấy nhàm
chán môn học, vì trên lớp đa phần thời gian sinh viên phải dành hết thời gian
9


lắng nghe mà không được phản biện nhiều về những thắc mắc của cá nhân. Trải
qua việc khảo sát, tìm hiểu thực tiễn về phương pháp học truyền thống kết quả
mà chúng tôi nhận thấy được là khả năng nhớ kiến thức của người học không
cao, thậm chí có nhiều người không còn nhớ gì về kiến thức cơ bản, một điều
đáng chú ý là thời gian quên lại diễn ra nhanh do thói quen học thuộc lòng của
người học, đa phần sinh viên khi kết thúc môn học xong đã quên kiến thức vừa
học, cũng có nhiều sinh viên vẫn nhớ được nhưng chỉ ở mức độ trung bình. Có
thể nói, đây là một thực tế đáng buồn nhưng chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa
nhận rằng nếu người học chỉ sử dụng các phương pháp học tập theo cách truyền
thống thuần tuý mà không có sự kết hợp đổi mới các phương pháp học tập mới
thì việc tạo niềm đam mê, tình yêu với môn học. Xét ở khía cạnh khác ngày này
cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì người học tiếp nhận kiến thức
bằng phương pháp học cũ sẽ khiến cho người học trở nên chậm hơn và không có
sự sáng tạo khi tìm hiểu vấn đề. Như vậy nguyên nhân cũng như nhược điểm khi
người học áp dụng phương pháp học truyền thống này không chỉ nằm trong
những yếu tố chủ quan của người học, của bản thân phương pháp mà còn nằm
trong những nguyên nhân khách quan đó là môi trường đã có sự thay đổi hiện
đại tinh xảo hơn.
Do đó, nếu phương pháp học truyền thống không có sự kết hợp với
phương pháp hiện đại, tích cực, sáng tạo, không có sự ứng dụng của khoa học
công nghệ thì không ai khác mà tự chúng ta đào thải chính mình.
Thực trạng áp dụng phương pháp học tích cực, chủ động, sáng tạo.

Các phương pháp học tích cực hình thành và phát triển từ lâu, tuy nhiên
do những yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những con
người phát triển , năng động và sáng tạo, nên các phương pháp này ngày càng
được đặc biệt quan tâm hơn.
Phương pháp học tích cực không phải là một phương pháp học cụ thể,
chuyên biệt nào đó cũng không phải là sự phủ nhận các phương pháp học truyền
thống mà là muốn nhấn mạnh một định hướng khai thác mặt tích cực của các
phương pháp học hiện có.Những phương pháp như thuyết trình,đàm thoại…Vẫn
10


rất cần thiết trong quá trình học của sịnh viên vì thông qua việc áp dụng các
phương pháp học này sẽ giúp cho sinh viên nhớ bài lâu hơn, chủ động nắm kiến
thức tìm hiểu được các thông tin phục vụ cho môn học của mình. Ngoài ra việc
sinh viên thường xuyên sử dụng kĩ năng thuyết trình, đối thoại với sinh viên ở
trên lớp sẽ tạo ra sự tương tác giữa hai bên, như vậy, giữa thầy và trò sẽ có nhiều
cơ hội để chủ động tìm hiểu kiến thức về môn học. Tuy nhiên điều cốt yếu là
phải lựa chọn và vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung của
môn học và đặc biệt phù hợp với khả năng tiếp thu của bản thân, tránh trường
hợp tiếp thu ồ ạt kiến thức cùng một lúc không tìm ra cách xử lí và hệ thống
những kiến thức mà mình tiếp thu khiến cho tâm lí sinh viên cảm thấy quá tải và
tạo ra áp lực khi học môn học đó. Tuy nhiên bên cạnh việc tìm ra một phương
pháp tốt cho riêng bản thân mình ta cũng cần phải chú ý khai thác và áp dụng
các kĩ năng học nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức và phát triển tư duy của
mình. Hình thành cho mình khả năng tư duy độc lập, năng động, sáng tạo trong
việc tiếp thu và xử lí thông tin, cũng như trong việc giải quyết những công việc
cụ thể sau này. Một trong những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp học tích
cực mà bản thân sinh viên sử dụng trong các giờ học, mục đích là để tiếp thu tốt
những kiến thức học trên lớp.
Khi học bậc cao đẳng hay đại học, sinh viên cần tự rèn luyện cho mình

phương pháp tự học đây không chỉ là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học mà
còn là mục tiêu của dạy học. Trước hết người học cần phải năng động, tích
cực,có khả năng tự học và nghiên cứu. Vì kiến thức thường xuyên thay đổi để
phù hợp với sự phát triển của xã hội nên người học phải tự làm mới kiến thức
bằng cách tự học,tự cập nhật kiến thức trên các phương tiện công cụ như mạng
internet, đọc sách…
Mặt khác, trong một thời gian ngắn nhà trường cũng như các giáo viên
không thể kịp trang bị cho sinh viên những kiến thức cần thiết trong kho tàng
kiến thức của nhân loại đang ngày một phong phú thêm. Do vậy, người học phải
tìm cách học riêng tự mình chủ động để tìm đến kiến thức mà mình đang học,
trau dồi kĩ năng từ đó hình thành nên cho mình một phương pháp và năng lực tự
11


học, tự nghiên cứu để có thể tự chiếm lĩnh kiến thức và hoàn thiện bản thân sau
này. Nếu như người học không rèn luyện cho mình ý thức tự học cho mình thì
khó có thể theo kịp với lượng tri thức ngày nay. Qua cuộc khảo sát cho thấy bên
cạnh chương trình học tập hiện nay đã nặng nề, thì công cụ để truyền tải kiến
thức hiện nay cũng chưa lấy gì làm hài lòng. Số sinh viên tìm đến thư viện
không nhiều: có tới 61,3% sinh viên chưa bao giờ lên thư viện, 37,1% là thỉnh
thoảng lên và chỉ có 1,61% là thường xuyên lên , chỉ lác đác vài bạn đến thư
viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi đến mùa thi. Nhân
viên quản lí thư viện cho biết một ngày bình thường thư viện chỉ có vài em đến
ngồi học hoặc tìm tài liệu. Trong mỗi giờ học chuyên sinh viên phát biểu ý kiến
là rất ít, thay vào đó là giảng viên nêu vấn đề sinh viên cúi mặt vào bàn, đó
thông thường không phải là những câu hỏi khó mà đều nằm trong phạm vi hiểu
biết và có thể trả lời của sinh viên, thế nhưng rất ít cánh tay giơ lên. Điều này
ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp, nó gây ra một cảm giác áp
lực mỗi khi thầy cô đọc câu hỏi, sinh viên thì cảm thấy áp lực còn giảng viên thì
cảm thấy chán nản vì chỉ có sự làm việc một chiều. Phải nhìn nhận rằng sự vô

trách nhiệm, thụ động, ỷ lại đang thực sự tồn tại ở một bộ phận lớn của những
người chủ nhân tương lai của đất nước.
Thực tế hiện nay cho thấy một trong những nhiệm vụ của đổi mới giáo
dục ở bậc cao đẳng,bậc đại học Việt Nam là việc đổi mới phương pháp theo
hướng tích cực trong quá trình dạy và học để hướng tới mục tiêu đào tạo ra một
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, đủ đức, đủ tài đáp ứng công việc. Đối
với sinh viên Trường Đại học Nội vụ nói riêng và sinh viên cả nước nói chung
thì việc học làm sao cho tốt, nắm vững kiến thức chuyên ngành và kĩ năng
chuyên môn là một điều nhận được sự quan tâm rất lớn cả về phía người học và
người dạy. Thế nhưng, hiện nay mặc dù đã có nhiều phương pháp học theo
hướng đổi mới được áp dụng và đồng thời cũng có nhiều cách kết hợp đan xen
giữa phương pháp học cũ và mới. Tuy nhiên còn đó là những hạn chế cần nhìn
nhận lại và khắc phục để mang lại hiệu quả cao cho người học. Phương pháp
không phải là một khái niệm quá đỗi trừu tượng mà đó đơn giản chỉ là cách thức
12


ta đưa ra và thực hiện để đạt được mục tiêu nào đó. Trong thực tế, nói đến
phương pháp học ta có thể biết đến rất nhiều phương pháp, mới có và truyền
thống cũng rất phổ biến thế nhưng không phải phương pháp nào sinh viên cũng
biết và áp dụng, ví dụ như phương pháp học theo sơ đồ tư duy, qua cuộc khảo
sát ta thấy 62.9% sinh viên trường là thỉng thoảng áp dụng, 12,9% sinh viên
thường xuyên áp dụng và 24,2% sinh viên là chưa biết tới và không bao giờ áp
dụng, phương pháp học nhóm thì thường xuyên học là 29%, thỉnh thoảng học là
66,1% và 4,9% là không bao giờ học nhóm…Dựa trên phương pháp học đã có
người học hoàn toàn có thể đổi mới hoặc kết hợp với các phương pháp học hiện
đại để tạo ra cách học phù hợp hơn với từng cá nhân. Có thể nói phương pháp
chính là cách thức mà người học lựa chọn thực hiện mục tiêu của mình. Mặc dù,
không phải phương pháp nào cũng được áp dụng thành công cho mọi cá nhân,
tuỳ thuộc vào năng lực và khả năng tiếp thu của từng người học mà có những

phương pháp khác nhau. Bởi vậy tìm ra phương pháp mới chưa phải biện pháp
tối ưu nhằm giúp người học tiếp thu kiến thức hiệu quả mà điều đó phụ thuộc
vào người học phù hợp với cách học như thế nào?. Đối với nhiều người học thì
phương pháp học truyền thống vẫn đem cho họ những hiệu quả rất tích cực,
nhưng đối với những cá nhân khác lại không như vậy, họ phù hợp với cách học
mới năng động và phát huy được sự sáng tạo của bản thân mình hơn. Do đó,việc
áp dụng phương pháp học mới vào xu thế hiện nay không chỉ mang lại những
thành tựu bước đầu mà còn có những khó khăn theo sau. Qua cuộc khảo sát cho
thấy đa số sinh viên trong trường cho rằng khó khăn lớn nhất gặp phải là phương
pháp học còn khá mới mẻ, sinh viên chưa thể làm quen, thích nghi ngay được, vì
đa số vẫn đang quen với các cách học cũ, nên khi tiếp cận với phương pháp mới
luôn cho rằng nó khó áp dụng hơn nhiều, ví dụ như nói đến phương pháp học
theo sơ đồ tư duy các bạn cho rằng chưa quen và khó. Khó khăn thứ hai cần kể
đến nữa là vấn đề về thời gian, lịch học, giờ học không ổn định, hay bị thay đổi
liên tục khiến sinh viên khó có thể sắp xếp thời gian, một số ý kiến cho rằng khó
khăn trong vấn đề tìm, tiếp cận tài liệu, điều kiện vật chất, khoa học công nghệ
hoặc chưa có người hướng dẫn nên nản chí, cũng có một số sinh viên là không
13


quan tâm đến việc đổi mới phương pháp học tập của bản thân mình.
Để khắc phục những khó khăn trên chúng tôi đã tổng hợp một số ý kiến
như sau: cần có thời gian để làm quen và thích ứng với các phương pháp mới,
nhà trường tạo điều kiện cho sinh viên tự đăng kí lịch học để sinh viên chủ động
hơn về thời gian, cần có người hướng dẫn, tham khảo ý kiến bạn bè, một số ý
kiến khác là bổ sung tài liệu cho thư viện trường, mở cổng thông tin điện tử để
sinh viên nghiên cứu hoặc phải có ý chí, quyết tâm, nghiêm túc trong việc học
tập.Nếu như chúng ta không thể hiểu rõ về phương pháp học tập thì rất dễ làm
sai lệch đi cách suy nghĩ về đổi mới phương pháp học tập, phương pháp học tập
mới sẽ không thực sự mang lại hiệu quả, sự tiến bộ nếu như mỗi cá nhân không

tìm ra cho mình một cách tiếp cận phù hợp, phương pháp học phải thực sự thiết
thực vì nó liên quan trực tiếp đến chất lượng của từng sinh viên và hơn nũa là
đội ngũ cán bộ sau này. Phương pháp đưa ra phải cụ thể hoá, đơn giản hoá cách
tiếp cận, cách áp dụng cho mọi sinh viên.

14


CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI.
Một số phương pháp học tập tích cực, chủ động, sáng tạo.
1.1. Phương pháp học nhóm
Là sinh viên được đào tạo theo phương thức tín chỉ chắc hẳn các bạn đã
biết và quen với những khái niệm như: bài tập nhóm, thảo luận nhóm, làm việc
theo nhóm… Nhưng không phải với bất kì sinh viên, hay nhóm sinh viên nào
cũng khai thác hết được tính tích cực của phương pháp học tập này. Nguyên
nhân của tình trạng trên xuất phát từ chính những người sinh viên, hay đôi khi từ
những lí do khách quan khác.
Những ưu thế từ phương pháp học tập này hầu như sinh viên nào cũng
nhận thức được và không thể phủ nhận. Học tập trong môi trường nhóm sẽ thúc
đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo sự gắn kết trong một cộng đồng. Trong
khi làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh từ đó sinh viên phải giải quyết
“xung đột”. Từ đó, họ sẽ có khả năng giải quyết những mâu thuẫn, thuyết phục
người khác trong những hoàn cảnh có thể bắt gặp trong cuộc sống sau này.
Tinh thần học hỏi và khả năng lắng nghe người khác cũng sẽ là điều mà
sinh viên sẽ học hỏi được. Những kĩ năng này là rất quan trọng khi các bạn bước
ra môi trường làm việc và đây sẽ là tiền đề tốt để biết cách làm việc trong một
môi trường tập thể.
Làm việc, thảo luận theo nhóm không chỉ đơn thuần là do yêu cầu của
giảng viên đề ra cho sinh viên mà quan trọng hơn nó còn là cách học tập, nghiên

cứu của sinh viên. Học tập nhóm sẽ tập hợp được những ý kiến sáng tạo của
từng cá nhân, từ đó sản phẩm học tập sẽ giàu tính sáng tạo. Những phương pháp
tối ưu nhất sẽ được lựa chọn từ những ý kiến được nêu ra. Sản phẩm học tập lúc
này cũng sẽ là kết quả của tất cả các thành viên.
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 5 đến 7 người. Tuỳ theo mục
đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có
chủ định được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của môn học, được
15


giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Khi làm việc nhóm các
thành viên phải làm việc theo quy định do giảng viên hoặc do chính nhóm đặt
ra. Các thành viên đều phải làm việc chủ động không thể ỷ lại vào một vài người
hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau và tìm
hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Khi có một nhóm
nào lên thuyết trình các nhóm còn lại phải đặt ra câu hỏi phản biện hoặc câu hỏi
làm sáng tỏ vấn đề. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong
nhóm chia sẻ những băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng
nhận thức mới bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận
rõ được trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi
thêm những gì? Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là
sự tiếp nhận thụ động từ giảng viên.
Đặc điểm của hoạt động nhóm là:
- Phụ thuộc lẫn nhau một cách tích cực
- Có tính tương tác trực tiếp
- Đảm bảo trách nhiệm nhóm và trách nhiệm cá nhân
- Dạy cho sinh viên những kĩ năng giữa cá nhân với nhau và kĩ năng
nhóm
- Rèn kĩ năng xử lí nhóm
Cách phân nhóm

- Nhóm gồm những người tự nguyện, cùng mối quan tâm
- Các nhóm ngẫu nhiên
- Các nhóm cố định trong một thời gian dài
- Nhóm có sinh viên khá hỗ trợ sinh viên yếu
- Nhóm với các bài tập khác nhau
- Các nhóm với những đặc điểm chung
- Phân chia theo các dạng học tập
Người học làm việc nhóm
- Cử nhóm trưởng, thư ký trình bày ý tưởng nhóm hay biên bản thảo
luận.
16


- Khuyến khích mọi thành viên tham gia, các thành viên cần có kỹ năng
làm việc nhóm. (Lắng nghe, Bàn bạc trao đổi ý kiến cá nhân, nhận xét (không
phê phán hay đánh giá người nói mà cần quan tâm nội dung đưa ra, ý kiến giải
pháp nào là tốt nhất nên lựa chọn để tránh xúc phạm và tổn thương lẫn nhau);
Biết sử dụng lý lẽ để thuyết phục, bảo vệ ý kiến cá nhân; Biết phục tùng: “Dân
chủ tập trung”. Chấp nhận ý kiến của nhóm).
- Người hướng dẫn cần quan tâm tới tất cả các nhóm.
- Xác định rõ vấn đề cần thảo luận chưa? Có thể gợi ý để các nhóm xác
định chính xác vấn đề.
- Có ai là người chưa tham gia? Ai nói quá nhiều? Ai không quan tâm?
- Kiểm soát thời gian làm việc của các nhóm cả lớp.
Kết quả
- Giúp giải thích các câu trả lời thu thập được trong một cuộc khảo sát
- Cung cấp cái nhìn sâu sắc về những kết quả thống kê
- Giúp nhận ra trình độ của từng thành viên
Và cuối cùng, tinh thần học hỏi, chịu khó lắng nghe, hết mình vì tập thể
đó sẽ là chìa khóa giúp một bài tập nhóm thành công. Học nhóm chỉ đạt hiệu

suất cao khi nó được thực hiện trên cơ sở có sự chuẩn bị chu đáo cả về mặt nội
dung lẫn phương pháp tổ chức của mọi thành viên.
1.2.

Phương pháp tự học

- Khái niệm
Bàn về khái niệm tự học các tác giả đã đưa ra một số ý kiến:
Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “lí
luận dạy học đại học” thì “tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại
học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri
thức và kĩ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp,
theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được quy định.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tạo: “ Tự học phải là công việc tự giác của mỗi
người do nhận thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến
thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ
17


của xã hội.
Từ những ý kiến trên đưa ra kết luận định nghĩa của việc tự học: tự học là
quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở
một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt
được mục đích nhất định.
- Các hình thức của tự học:
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau:
Hình thức 1: Cá nhân tự mày mò theo sở thích và hứng thú độc lập không
có sách và sự hướng dẫn của giáo viên nhằm mục đích học hỏi và bổ trợ thêm
kiến thức cho bản thân.
Ví dụ: Ngoài việc hoc tập ở trên lớp và trong trường sinh viên còn có

những sở thích riêng. Chẳng hạn như sở thích kinh doanh, vì vậy nhiều bạn sinh
viên theo đuổi sở thích của mình bằng cách giao bán hàng qua mạng. Một mặt
nhằm học hỏi thêm kinh nghiệm và kiếm thêm thu nhập.
Hình thức 2: Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
Ví dụ: Hàng ngày sinh viên phải chuẩn bị bài tập trước khi lên lớp dựa
vào giáo trình và đề cương mà chưa có sự hướng dẫn của thầy cô giáo.
Hình thức 3: Tự học có sách, có thầy giáp mặt một số tiết trong ngày, sau
đó sinh viên về nhà tự học dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giao viên.
Ví dụ: Ngoài những giờ hướng dẫn học tập trên lớp, giáo viên thường
giao bài tập cho sinh viên về tự học ở nhà, làm bài tập ở nhà.. có hướng dẫn và
ví dụ cụ thể cho sinh viênlàm theo.giúp sinh viên tiếp thu kiến thức và hiểu bài.
- Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp tự học:
Ưu điểm
+ Nâng cao ý thức tự giác học tập
+ Giúp sinh viên chủ động,tự hoạch định kế hoạch học tập
+ Không bị giới hạn về thời gian và địa điểm
+ Giúp sinh viên hiểu bài tiếp thu nhanh kiến thức
+ Hấp dẫn đói với các sinh viên có động cơ thúc đẩy học tập.
+ Tạo cho sinh viên có thể linh động, học tập theo đúng khả năng sở thích
18


và thời khóa biểu riêng.
Nhược điểm:
+ Sinh viên tự học hay bị mất tập chung
+ Lượng kiến thức trên lớp nhiều làm cho việc tự học găp khó khăn
+ Cơ sở vật chất phục vụ việc tự học còn hạn chế
+ Cần nhiều thời gian cho việc tìm tài liệu
+ Cần có quyết tâm giải quyế khó khăn
+ Môi trường để sinh viên tự học còn hạn chế đa số sinh viên tự học ở nhà

và ở lớp.
- Vai trò của tự học:
Tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng trong quá trình học tập của
người học. Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả của hoạt động
học tập.
+ Tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kĩ năng kĩ sảo nghề nghiệp
trong tương lai. Tạo điều kiện cho sinh viên hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức,
…vận dụng tri thức giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
+ Tự học giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả
học tập, mà còn giúp có được hứng thú thói quen phương pháp học tập làm
phong phú hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình.
+ Tự học thường xuyên tích cực tự giác, độc lập giúp sinh viên đào sâu
kiến thức hình thành các phẩm chất trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình.
+ Bồi dưỡng ý chí và năng lực tự học, khơi dậy ở sinh viên tiềm năng to
lớn vốn có của họ, tạo động lực nội sinh của quá trình học.
- Ý nghĩa của việc tự học:
+ Bằng con đường tự học người học mới có thể nắm vững tri thức , thông
hiểu tri thức , bổ xung và hoàn thiện tri thức cũng như hình thành những kĩ
năng, kĩ xảo tương ứng.
+ Hoạt động tự học của sinh viên không chỉ nâng cao năng lực nhận thức ,
rèn luyện thói quen, kĩ năng kĩ xảo vận dụng tri thức của bản thân vào cuộc sống
mà còn giáo dục tình cảm và những phẩm chất đạo đức của bản thân.
19


+ Tự học không chỉ có ý nghĩa với bản thân người học mà con góp phần
to lớn nâng cao chất lượng dạy học và đào tạo.
Tóm lại vấn đề tự học, tự đào tạo là vô cùng quan trọng được quan tâm
nhiều và khuyến khích trong học tập, bởi vì sinh viên chỉ có thể thành công
trong học tập, nghiên cứu khoa học và những thành tựu nhất định trong tương lai

cũng bằng quá trình tự học. Thời gian học trong trường, trên giảng đường Đại
học bao giờ cũng có hạn, trong khi đó sự phát triển tri thức của loài người là
không bờ bến. Giải quyết mâu thuẫn này không có con đường nào khác là phải
tự học và học suốt đời.
1.3.

Phương pháp thuyết trình

- Khái niệm
Phương pháp thuyết trình là trình bày một tài liệu hoặc tổng kết những tri
thức trong quá trình tổng hợp thực hiện đề tài. Phương pháp thuyết trình thể hiện
dưới hình thức giảng giải, giảng thuật và diễn giảng.
+ Giảng thuật là một trong những phương pháp thuyết trình, trong đó có
yếu tố miêu tả, trần thuật. Giảng thuật không chỉ được sử dụng trong các môn
khoa học xã hội – nhân văn mà còn cả những bộ môn khoa học tự nhiên.
+ Giảng giải là phương pháp dạy học bằng việc dùng những luận cứ, số
liệu để chứng minh một sự kiện, hiện tượng, quy tắc, định lý, định luật, công
thức, nguyên tắc trong các môn học. Giảng giải chứa đựng các yếu tố phán đoán,
suy lý.
+ Diễn giảng là một trong những phương pháp thuyết trình nhằm trình
bày một vấn đề hoàn chỉnh có tính chất phức tạp, trừu tượng và khái quát trong
một thời gian tương đối dài.
- Ưu điểm
+ Cho phép truyền đạt những nội dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp,
chứa đựng nhiều thông tin mà người học tự mình không dễ dàng tìm hiểu được
một cách sâu sắc.
+ Giúp nắm được hình mẫu về cách tư duy logic, cách đặt và giải quyết
vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những vấn đề khoa học một
20



cách chính xác, rõ ràng.
+ Tạo điều kiện thuận lợi tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của
người nghe qua việc trình bày tài liệu với giọng nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp và
diễn cảm.
+ Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích thích tính tích cực tư
duy của người học, vì có như vậy người học mới hiểu được lời giảng của giáo
viên và mới ghi nhớ được bài học.
- Yêu cầu
+ Trình bày chính xác các hiện tượng,sự kiện, khái niệm, định luật, vạch
ra bản chất của vấn đề, ý nghĩa tư tưởng của tài liệu.
+ Trình bày phải đảm bảo tính tuần tự logic, rõ ràng, dễ hiểu với lời nói
gọn, rõ ràng, giàu hình tượng, chuẩn xác, xúc tích.
+ Trình bày phải thu hút và duy trì sự chú ý, gây được hứng thú, hướng
dẫn tư duy của người học thông qua giọng nói, tốc độ nói, âm lượng thay đổi
thích hợp, qua các mẩu chuyện vui đúng lúc, qua cách đặt vấn đề và giải quyết
vấn đề, kết hợp lời nói với điệu bộ, nét mặt, biết đưa những lời trích dẫn vào
đúng lúc, đúng chỗ.
+ Trình bày phải đảm bảo cho người học ghi chép được những vấn đề cơ
bản và qua đó hướng dẫn cho họ biết cách vừa ghi vừa tập trung nghe giảng.
- Cấu trúc của bài thuyết trình
Khi dùng phương pháp thuyết trình để trình bày vấn đề nào đó cũng phải
trải qua bốn bước: đặt vấn đề, phát biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận rút
ra từ vấn đề đó.
+ Đặt vấn đề là bước đầu tiên nhằm thông báo vấn đề dưới dạng tổng quát
để kích thích sự chú ý ban đầu của người nghe.
+ Phát biểu vấn đề là bước nêu lên những câu hỏi cụ thể nhằm vạch ra
phạm vi những vấn đề cần phải xem xét.
+ Giải quyết vấn đề: Bước này có thể tiến hành theo lôgic quy nạp hay
logic diễn dịch.

+ Kết luận: Là bước kết thúc việc trình bày vấn đề. Nó là sự kết tinh và
21


×