Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác xây DỰNG tổ CHỨC ĐẢNG cơ sở ở ĐẢNG bộ THỊ xã sơn tây, TỈNH hà tây GIAI đoạn 2001 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.05 KB, 104 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Chính trị - xã hội
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng nhân dân
Hệ thống chính trị
Tổ chức cơ sở đảng
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BCHTƯ
CT-XH
CNXH
CNH, HĐH
HĐND
HTCT
TCCSĐ
UBND
XHCN

1


MỤC LỤC
Trang
3


MỞ ĐẦU

Chương 1

CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG
TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CỦA
ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY (2001 - 2008)

10

1.1.

Những yếu tố tác động tới công tác xây dựng tổ chức
10

1.2.

cơ sở đảng của Đảng bộ thị xã Sơn Tây
Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh đạo công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng (2001 - 2008)

33

Chương 2
2.1.
2.2.

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM

Nhận xét

Kinh nghiệm

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

52
52
67
83
85
91

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức cơ sở đảng là “gốc rễ” của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, là nơi thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên; nơi thể hiện
quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng - an ninh. Đời sống các mặt của nhân dân lao động có được
nâng lên hay không, hệ thống chính trị cơ sở có thực sự trong sạch vững mạnh
hay không đều tùy thuộc vào việc xây dựng TCCSĐ.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị
chỉ ra những yêu cầu, mục đích và nhiệm vụ, giải pháp xây dựng TCCSĐ, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, thời kỳ cách mạng. Những năm gần
đây, vấn đề củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ là vấn
đề mang tính cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, như trong Nghị quyết Trung

ương sáu (lần 2) (khoá VIII), Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X, Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của TCCSĐ và chất lượng cán bộ, đảng viên. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
XI, Về kiện toàn TCCSĐ và nâng cao chất lượng đảng viên. Tập trung củng cố và
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ
rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở đảng. Kiện toàn tổ chức của hệ
thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở.
Cùng với các địa phương khác trong cả nước, Đảng bộ thị xã Sơn Tây
đã quán triệt sâu sắc những chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng
về xây dựng Đảng nói chung, xây dựng TCCSĐ nói riêng ở các địa phương, đơn
vị trong toàn Thị xã. Đảng bộ các đơn vị, địa phương luôn chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các
TCCSĐ đạt được nhiều thành tích quan trọng. Đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện, tình hình kinh tế, văn hoá - xã hội, chính trị ổn định, quốc phòng
- an ninh được giữ vững. Nhân dân tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội (CNXH) mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
3


Xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm vụ và vai trò của TCCSĐ, Đảng
bộ thị xã Sơn Tây càng đẩy mạnh hơn nữa Cuộc vận động xây dựng và chỉnh
đốn Đảng. Các cấp uỷ quán triệt và thực hiện tốt đoàn kết trong Đảng, trong
nhân dân. Bên cạnh những thành tựu đạt được, xây dựng Đảng ở một số đơn
vị, địa phương của thị xã Sơn Tây thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế,
yếu kém. Không ít TCCSĐ trên địa bàn vẫn còn thiếu thống nhất, việc lãnh
đạo, chỉ đạo, có việc, có nơi chưa triệt để còn bộc lộ hạn chế…Vì vậy, việc
xây dựng TCCSĐ ở thị xã Sơn Tây là vấn đề cấp thiết để đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp CNH, HĐH trong tình hình mới.

Từ thực tiễn công tác xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây
những năm qua đặt ra phải có nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện. Nhằm
làm sáng tỏ những chủ trương và quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện, đánh giá
đúng những ưu điểm, hạn chế và đúc kết những kinh nghiệm về xây dựng
TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây. Để vận dụng và nâng cao hơn nữa chất
lượng, hiệu quả xây dựng TCCSĐ trên địa bàn trong thời gian tới. Do vậy, tôi
chọn đề tài “Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ thị xã Sơn
Tây, tỉnh Hà Tây từ năm 2001 đến năm 2008” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những quan điểm, chủ trương, biện pháp để xây dựng Đảng nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ đã được thể hiện qua các văn kiện
của Đảng. Đã có nhiều cá nhân và tập thể chọn vấn đề xây dựng TCCSĐ để làm đề
tài nghiên cứu khoa học, khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, trong đó có nhiều đề
tài cấp Bộ, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bài viết…được nghiên cứu dưới góc độ
Xây dựng Đảng; Lịch sử Đảng; Chính trị học.
* Nhóm công trình khoa học nghiên cứu chung về công tác xây dựng
Đảng trong đó có công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Về xây dựng Đảng, (1978) của tác giả Lê Duẩn, Nhà xuất bản Sự thật,
Hà Nội; Nâng cao phẩm chất cộng sản của người đảng viên, (1985) của tác
giả Chu Huy Mân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Về xây dựng Đảng,
(1994) của tác giả Đỗ Mười, Nxb CTQG, Hà Nội; Công tác xây dựng Đảng
4


trong giai đoạn hiện nay, (1995), của tác giả Nhiệm Khắc Lễ, Nxb CTQG,
Hà Nội; Một số vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của tổ chức đảng ở
nông thôn và đường phố, của nhóm tác giả do Lưu Minh Trí (Chủ biên), Nxb
Hà Nội,(1995); “Về xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh”,
của tác giả Lê Quang Thưởng, Tạp chí Cộng sản (số 2), (1997); “Một số vấn

đề về phẩm chất cán bộ, đảng viên nhìn từ góc độ công tác kiểm tra”, của tác giả
Lê Văn Giang, Tạp chí Tư tưởng văn hóa (số 2), (1999); “Mấy giải pháp xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh”, của tác giả Nguyễn Hữu
Mộc, Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 2), (2001); “Xây dựng tổ chức cơ sở đảng
và phát triển đảng viên trong khu vực kinh tế có vốn đấu tư nước ngoài hiện
nay”, của tác giả Ngô Kim Ngân, Tạp chí Lịch sử Đảng, (số 4), (2001); “Mấy
giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh”, của tác giả
Nguyễn Hữu Mộc, Tạp chí Xây dựng Đảng (số 2) (2001); “Xây dựng chỉnh đốn
Đảng và đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt động của Nhà nước”, của tác giả Trần
Đình Hoan, Tạp chí Cộng sản (số 2) (2001); “Phát huy dân chủ trong cơ chế
Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay”, của tác giả Nguyễn Văn Huyên, Tạp
chí Cộng sản (số 13), (2003); “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, của tác giả
Trần Xuân Trường, Tạp chí Cộng sản (số 6) (2003); Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới, (2004) do các tác giả
Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng Chủ biên), Nxb
CTQG, Hà Nội; Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, (2005), của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb
Lao động, Hà Nội; Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong giai đoạn hiện nay, (2005) của tác giả Nguyễn Phú Trọng, Nxb
CTQG, Hà Nội; “Nâng cao chất lượng TCCSĐ và đảng viên dưới ánh sáng
Nghị quyết Đại hội X”, của tác giả Dương Trung Ý, Tạp chí Lịch sử Đảng
(số 6), (2006); Tổ chức và hoạt động của chi bộ Đảng, (2008) của tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng, Nxb CTQG, Hà Nội; Một số vấn đề xây dựng tổ chức
cơ sở đảng hiện nay, (2010) của tác giả Nguyễn Đức Hà, Nxb CTQG, Hà
Nội; Báo cáo đề dẫn tọa đàm khoa học “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo

5


và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng”, của tác giả Vũ Văn Phúc, Tạp chí

Cộng sản (số 5), (2011).
Các công trình trên đã đề cập một cách khái quát, có hệ thống những vấn
đề cơ bản về Đảng cầm quyền, tình hình đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ
đổi mới. Các tác giả đã dành một phần quan trọng luận giải về chất lượng
TCCSĐ. Từ sự phân tích khoa học, nghiêm túc cơ sở lý luận và những vấn đề
thực tiễn về công tác xây dựng Đảng nói chung và các TCCSĐ nói riêng, các tác
giả đã đề xuất phương hướng và một số giải pháp cấp bách để ngày càng hoàn
thiện và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới.
* Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến xây dựng tổ
chức cơ sở đảng ở các địa phương, ban ngành.
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây tập 1 (1926 - 1945), Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Hà Tây, Xưởng in Công Đoàn - Hà Nội (3/1992); Luận văn thạc
sĩ Xây dựng Đảng, Chất lượng tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Sơn La
hiện nay - thực trạng và giải pháp nâng cao, của tác giả Văn Thể (1993);
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây tập 2 (1945 - 1954), Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Hà Tây, Nhà máy in Tiến Bộ - Hà Nội, (4/1994); Đề tài khoa học cấp Bộ,
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cho các loại hình tổ chức cơ sở
Đảng xã ở các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam - thực trạng và giải pháp, của
tác giả Đỗ Ngọc Ninh (1995); Luận văn thạc sĩ Tôn giáo học, Nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở Đảng vùng có đồng bào theo đạo Công giáo ở tỉnh Phú
Thọ hiện nay, của tác giả Phạm Văn Minh (1998); Luận án tiến sĩ Lịch sử,
chuyên ngành Xây dựng Đảng, Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng nông
thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng của tác giả Nguyễn Đức Ái (2000);
Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng ở các trung đoàn không quân chiến đấu hiện nay,
của tác giả Cao Xuân Thưởng, Nxb Quân đội nhân dân Hà Nội, (2000); Đề
tài KX 98-32 - Tổng cục chính trị, Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác
kiểm tra của tổ chức cở sở đảng trong Đảng bộ Quân đội , của tác giả
Nguyễn Hữu Bảng làm chủ nhiệm đề tài (2000); Luận án tiến sĩ chuyên
ngành Xây dựng Đảng, Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ

sở đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
6


đất nước, của tác giả Nguyễn Đức Ái, Hà Nội, (2001); Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Hà Tây tập 3 (1954 - 1975), Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây, Xí
nghiệp in Hà Tây, (5/2002); Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Sự
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng đối với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh trong các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, của tác giả Ngô
Bích Ngọc, Hà Nội, (2004); “Đảng bộ phường Vĩnh Ninh nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu, phát huy vai trò hạt nhân chính trị”, của tác giả Thành Lâm,
Tạp chí Lịch sử Đảng (số 2), (2006); Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng: Xây dựng đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Quận ủy Tây Hồ,
Thành phố Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay của tác giả Nguyễn Quang
Huy, Hà Nội, (2006); Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây tập 4 (1975 - 2008), Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây, Công ty Thương mại in Hà Tây, (7/2008); Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng: Chất lượng công tác tư tưởng của
Đảng bộ quận Ba Đình Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay của tác giả
Nguyễn Ngọc Thuần, Hà Nội, (2009); Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng tổ chức
cơ sở đảng ở một số huyện vùng đồng bằng từ năm 2000 đến năm 2010, của tác
giả La Thị Sinh, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia (2011); Luận án tiến
sĩ Xây dựng Đảng, Công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở Đảng (cấp xã)
ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay, của tác giả Trần Thị Hiệp (2012).
Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu, làm rõ quá trình xây dựng
tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình tổ chức đảng ở địa phương, ban ngành.
Đánh giá kết quả hoạt động, chỉ rõ yêu cầu khách quan của công tác xây
dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đặc biệt là công
tác xây dựng tổ chức đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp đổi mới, thông qua đó bước đầu đánh giá thực trạng tổ chức cơ

sở đảng, và đội ngũ đảng viên, đề ra một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn
hoạt động góp phần vào công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Các công trình
nghiên cứu kể trên là thành quả lao động, sáng tạo của các cá nhân, tập thể
góp phần thiết thực vào nhiệm vụ xây dựng TCCSĐ hiện nay.

7


Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình khoa học có liên quan đã được công
bố những năm trước, trong và sau thời kỳ đổi mới ở Việt Nam và tỉnh Hà Tây, có
thể thấy các công trình khoa học thuộc nhiều thể loại khác nhau, tập trung nghiên
cứu về xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của một số loại
hình TCCSĐ, về công tác kiểm tra, công tác cán bộ, công tác phát triển Đảng...
Cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu về TCCSĐ nhưng hầu hết lại tiếp cận vấn
đề dưới góc độ khoa học Chính trị và Xây dựng Đảng. Sau khi nghiên cứu tôi đã kế
thừa những vấn đề mang tính lý luận chung về xây dựng TCCSĐ của các công
trình khoa học đó. Đồng thời, biết được vấn đề xây dựng Đảng và xây dựng
TCCSĐ đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý và của
các tổ chức đảng. Các công trình nói trên được các tác giả sử dụng các phương
pháp chuyên ngành như: Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic và một số các
phương pháp khác như: điều tra xã hội học, tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh,
phương pháp chuyên gia để nghiên cứu, luận giải các vấn đề nêu trên và phản ánh
chúng ở những mức độ, khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về: Công tác xây dựng tổ chức cơ
sở đảng của Đảng bộ thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây từ năm 2001 đến năm 2008.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ công tác xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà
Tây từ năm 2001 đến năm 2008. Qua đó nhận xét và đúc kết kinh nghiệm để

vận dụng vào những năm tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ yêu cầu khách quan về xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ thị xã
Sơn Tây từ năm 2001 đến năm 2008.
- Trình bày chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ thị
xã Sơn Tây từ năm 2001 đến năm 2008.
- Nhận xét về quá trình xây dựng TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây từ
năm 2001 đến năm 2008. Đúc rút những kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây
dựng TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây, nhằm tiếp tục xây dựng tổ chức cơ sở
đảng ngày càng trong sạch vững mạnh đáp ứng công cuộc CNH, HĐH đất nước.
8


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ
thị xã Sơn Tây về xây dựng TCCSĐ.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Chủ trương và quá trình tổ chức thực hiện xây dựng
TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2001 đến năm 2008 (Giai đoạn này thị
xã Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Tây)
- Về không gian: Nghiên cứu về công tác xây dựng TCCSĐ trên địa bàn
thị xã Sơn Tây
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và phương pháp luận sử học.
* Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương lịch sử và phương pháp logic, kết hợp giữa hai phương pháp
này là chủ yếu. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp chuyên gia và phương pháp khảo sát thực tiễn.

6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Sơn Tây, tỉnh
Hà Tây về xây dựng TCCSĐ trong những năm 2001- 2008.
- Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào tiếp tục xây dựng TCCSĐ ở
thị xã Sơn Tây trong những năm tới; đồng thời bổ sung vào Lịch sử Đảng bộ thị
xã Sơn Tây thêm đầy đủ, phong phú.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập,
nghiên cứu về công tác xây dựng Đảng ở thị xã Sơn Tây nói riêng và trong
các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội nói chung.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương, (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục
9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC XÂY DỰNG
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG CỦA ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY (2001 - 2008)

1.1. Những yếu tố tác động tới công tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng của Đảng bộ thị xã Sơn Tây
1.1.1. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng
V.I.Lênin là người kế tục sự nghiệp cách mạng của C.Mác và
Ph.Ăngghen phát triển sáng tạo những luận điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen
về Đảng, xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Một trong những nội dung quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc
đối với công tác xây dựng Đảng đó là công tác xây dựng TCCSĐ luôn bảo
đảm vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. V.I.Lênin khẳng định:
Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng, phải

trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền,
công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với
tất mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải
thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn
luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [38, tr. 29].
Mặt khác, V.I.Lênin còn chỉ rõ thông qua TCCSĐ, thông qua đội ngũ
đảng viên, Đảng mới thực hiện được sự lãnh đạo của mình một cách trực tiếp
với phong trào cách mạng quần chúng; mỗi chi bộ, mỗi ủy ban công nhân của
Đảng phải là một điểm tựa để tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động và tổ
chức thực hiện trong quần chúng.
V.I.Lênin không chỉ nêu lên vị trí, vai trò quan trọng của TCCSĐ
trong sự nghiệp cách mạng nói chung mà còn chỉ rõ vai trò quan trọng đặc
biệt của TCCSĐ ở địa phương, nơi mà các TCCSĐ phải có trách nhiệm lãnh
đạo đông đảo quần chúng lao động, lực lượng hùng hậu của cách mạng.
Người luôn cho rằng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, vì vậy, các
TCCSĐ “Phải đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, phát huy một tính
10


chủ động lớn hơn cơ sở trong các tỉnh; nhất là trong các huyện; nhất là trong
các tổng và các xã” [39, tr. 91].
Thực tế chứng minh rằng, ngay khi các tổ chức cộng sản mới thành
lập và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định TCCSĐ có vai trò to lớn trong quá trình
lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, phải thường xuyên xây dựng TCCSĐ vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là tất yếu khách quan.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một đảng cách mạng chân chính. Người đã kế thừa,
phát triển và vận dụng linh hoạt, sáng tạo những luận điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Hồ Chí Minh rất coi trọng và luôn khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan
trọng đặc biệt của TCCSĐ, Người chỉ rõ: TCCSĐ là nơi nắm vững và bảo
đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Làm tốt công tác xây dựng TCCSĐ là một yếu tố quan trọng để
Đảng vững mạnh. Hạt nhân của TCCSĐ là chi bộ, nơi quán triệt và bàn các
biện pháp chấp hành triệt để các Nghị quyết của Đảng; nơi đấu tranh về quan
điểm và rèn luyện đảng viên; nơi vận động quần chúng thực hiện tốt chính
sách của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong xây
dựng các TCCSĐ, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt về xây dựng TCCSĐ
ở địa phương. Với tính đặc thù xã hội Việt Nam với hơn 90% là nông dân, vì
vậy, quan tâm xây dựng các TCCSĐ ở địa phương trong sạch vững mạnh, đủ
sức lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng có vị trí, vai trò quan
trọng đặc biệt. Khi nói đến vai trò của TCCSĐ ở địa phương, ở nông thôn, Hồ
Chí Minh cho đó là gốc rễ của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở
địa phương; bảo đảm mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ
luôn được thực hiện tốt. Hồ Chí Minh cho rằng: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở
nông thôn. Chi bộ vững mạnh thì mọi chính sách của Đảng và Chính phủ nhất
định thi hành được tốt” [41, tr.115]. “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt
nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở. Mỗi cấp bộ của Đảng phải là một cơ quan
lãnh đạo vững chắc ở địa phương theo đúng đường lối, chính sách của Trung
11


ương” [41, tr. 212]. Vì TCCSĐ ở địa phương có vị trí, vai trò quan trọng, cho
nên muốn thực hiện tốt kế hoạch của Đảng, thì phải chăm lo củng cố không
ngừng. Phải xây dựng các TCCSĐ ở địa phương luôn đoàn kết, thống nhất;
xây dựng địa phương đoàn kết, nhất trí cao; đồng thời các TCCSĐ và địa
phương cũng phải luôn đoàn kết, nhất trí thì mọi công việc ở địa phương dù
khó khăn đến mấy cũng có thể làm được. Vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chi bộ phải tăng cường hơn nữa việc đoàn kết nông thôn ... Phải đi đúng

đường lối của quần chúng, biến những nghị quyết của Đảng thành quyết tâm
của quần chúng” [42, tr. 306]; và “Tất cả đều phải thật sự đoàn kết nhất trí,
đồng tâm hiệp lực, lãnh đạo nông thôn thi hành cho đúng chính sách của
Đảng và Chính phủ” [43, tr. 216]; “Chi bộ thật thà đoàn kết nhất trí thì lãnh
đạo được nông thôn đoàn kết nhất trí… và mọi công việc khác tuy nhiều khó
khăn phức tạp, cũng nhất định làm được tốt” [44, tr. 319].
Quán triệt và vận dụng sáng tạo những luận điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của TCCSĐ nói
chung và trong xây dựng các TCCSĐ ở địa phương nói riêng, trong suốt hơn
80 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng. Vì vậy, cách mạng đã vượt qua muôn
vàn khó khăn, thử thách và lập nên những chiến công vĩ đại trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành
công cuộc đổi mới đất nước, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng của các đảng cộng sản và nhất
là của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 80 năm qua khẳng định tầm
quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác xây dựng
TCCSĐ nói riêng.
Vai trò của Đảng và các TCCSĐ có ý nghĩa quyết định với sự nghiệp
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và đã được chứng minh qua hơn 80
năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh
đạo, Đảng luôn chú trọng xây dựng các TCCSĐ ở địa phương. Tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng chỉ rõ:
Việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, phát huy quyền làm chủ
tập thể của quần chúng, nâng cao chất lượng đảng viên... đều tuỳ thuộc vào sức
12


chiến đấu của TCCSĐ. Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng được khai
thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần
chúng ở cơ sở mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng [15, tr. 18 ].

Trong công cuộc đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế hiện nay do
Đảng lãnh đạo đặt ra yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của các TCCSĐ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương Đảng, (khoá VI) khẳng
định: “Trong điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới, các tổ chức
cơ sở đảng đóng vai trò hết sức quan trọng… Các tổ chức cơ sở đảng phải
thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động” [20, tr. 76].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) của Đảng cũng chỉ rõ yêu cầu
xây dựng, củng cố TCCSĐ: “Tất cả các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở đều nắm
vững và thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị... Cấp uỷ cấp
trên tập trung chỉ đạo củng cố các Đảng bộ, chi bộ yếu kém, kịp thời kiện toàn
cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở những nơi có nhiều khó khăn, nội bộ mất đoàn
kết. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ” [15, tr. 48].
Quán triệt những quan điểm về xây dựng các TCCSĐ vào thực tiễn
xây dựng Đảng; nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng TCCSĐ;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm của BCH Trung ương Đảng, (khóa IX) đã ra
Nghị quyết số 17-NQ/TƯ, Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính
trị ở cơ sở. Vận dụng Nghị quyết 17- NQ/TƯ của BCH Trung ương Đảng,
(khóa IX). Đảng bộ thị xã Sơn Tây nhận định, đánh giá các TCCSĐ trong
Đảng bộ Thị xã có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư. Vì vậy, để nâng cao nhận thức và làm đúng vai trò hạt
nhân chính trị, Đảng bộ thị xã Sơn Tây khẳng định: “Đảng bộ, chi bộ cơ sở là
hạt nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở, cần nắm vững nhiệm vụ
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, chăm lo xây dựng
chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân” [8, tr. 14]. Phát huy được
vai trò của mọi tổ chức, các đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt
13



là vai trò của cấp ủy, bảo đảm cho cấp uỷ Đảng quán xuyến được các mặt
công tác ở thị xã Sơn Tây [8, tr. 16].
Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của TCCSĐ và công
tác xây dựng TCCSĐ là vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay. Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng các TCCSĐ
nói chung và xây dựng TCCSĐ ở thị xã Sơn Tây nói riêng thật sự trong sạch
vững mạnh, xứng đáng là lực lượng chính trị lãnh đạo toàn xã hội, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở; góp phần đưa mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước xuống cơ sở; biến đường lối, chủ trương, chính sách đó
thành hiện thực trong thực tiễn cách mạng của Đảng.
1.1.2. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Sơn
Tây và thực trạng của công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Đặc điểm điều kiện tự nhiên của thị xã Sơn Tây
Về vị trí địa lý:
Thị xã Sơn Tây nằm ở vùng châu thổ sông Hồng, trên vùng đồng bằng
cao, giới hạn ở phía Bắc bởi bậc thềm Tam Đảo; phía Tây là bậc thềm Ba Vì; phía
Đông và phía Nam là vùng đồng bằng thấp được tạo thành về sau ở hạ lưu sông
Hồng. Sơn Tây là Thị xã thuộc vùng trung du đồng bằng Bắc bộ, nằm ở phía Bắc
của tỉnh Hà Tây, là trung tâm vệ tinh của Thủ đô Hà Nội cách khoảng 42 km về
phía Tây. Là khu vực chuyển tiếp giữa vùng núi và trung du phía Tây với vùng
đồng bằng, địa hình thị xã Sơn Tây thấp dần từ Tây sang Đông (phía Tây nhiều
đồi núi, phía Đông tương đối bằng phẳng) và chia thành hai vùng tương đối rõ rệt:
vùng gò đồi và vùng đồng bằng nằm bên bờ phải sông Tích Giang.
Khí hậu Sơn Tây rất đậm nét đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới đó
là nóng ẩm và mưa nhiều với 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Về tài nguyên
thiên nhiên của Sơn Tây không nhiều chỉ có một số khu vực gò đồi trồng rừng
và cây ăn quả. Khoáng sản chủ yếu là đá ong trữ lượng không nhiều đã được
nhân dân khai thác phục vụ xây dựng nhưng hiện nay đã giảm khai thác do nhu
cầu không cao, sắt nhưng trữ lượng ít và chưa đưa vào khai thác. Hệ thống sông,

suối, hồ, đầm tương đối nhiều, vừa là nguồn cung cấp nước cho sản xuất nông
14


nghiệp và sinh hoạt cho nhân dân vừa là nơi nuôi trồng thủy sản và phát triển du
lịch như hồ Đồng Mô, hồ Xuân Khanh, hồ Đầm Dương [66, tr. 212].
Thị xã Sơn Tây tiếp giáp với 4 huyện. Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Tường
(tỉnh Vĩnh Phúc), phía Đông giáp huyện Phúc Thọ, phía Nam giáp huyện Thạch
Thất, phía Tây giáp huyện Ba Vì. Sơn Tây có các tuyến đường giao thông quan
trọng chạy qua như: Quốc lộ 21A (Đường Hồ Chí Minh), Quốc lộ 32 nối liền
Thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc, tỉnh lộ 87A nối liền tỉnh Phú Thọ - Hòa
Bình… Diện tích Sơn Tây khoảng 113,46 km² (11.346,85 ha), dân số: khoảng
181.381 nhân khẩu (theo thống kê năm 2008). Thị xã Sơn Tây hiện có 15 đơn vị
hành chính trực thuộc, gồm 9 phường: Lê Lợi, Quang Trung, Phú Thịnh, Ngô
Quyền, Sơn Lộc, Xuân Khanh, Trung Hưng, Viên Sơn, Trung Sơn Trầm; và 6
xã: Đường Lâm, Thanh Mỹ, Xuân Sơn, Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông.
Thị xã Sơn Tây nằm ở khu vực phía Bắc của tỉnh Hà Tây được Trung
ương định hướng về phát triển kinh tế - xã hội, là trung tâm phía Tây thủ đô
Hà Nội. Trong tương lai sẽ mở ra những triển vọng phát triển mới như: Khu
công nghiệp cơ khí, chế biến, sản xuất vật liệu và công nghiệp điện tử; Làng
văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; Khu trung tâm Đại học quốc gia;
Khu an dưỡng, nghỉ ngơi, sân gôn quốc tế; Khu xây dựng các xí nghiệp quốc
phòng, các trường sỹ quan quân đội theo mô hình hiện đại hóa… là những thuận
lợi lớn, là thời cơ để thị xã Sơn Tây khai thác tiềm năng, giải quyết việc làm, tạo
sự phát triển về mọi mặt. Một trong những khu vực phát triển trọng điểm trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với các công trình tiêu biểu
như: các khu du lịch Đồng Mô, làng cổ Đường Lâm, Đền Và, thành cổ Sơn
Tây… do đó, thị xã Sơn Tây có rất nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển kinh tế,
văn hóa - xã hội, nhất là phát triển văn hóa du lịch, du lịch tâm linh.
Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây

Trong 8 năm (2001- 2008), thị xã Sơn Tây đã đạt được những kết quả
đáng ghi nhận trên tất cả các lĩnh vực như tốc độ phát triển kinh tế cao, mức tăng
trưởng bình quân đạt 15% năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, công nghiệp xây dựng chiếm 48%, thương mại - dịch vụ chiếm 39,4%, nông - lâm nghiệp
chiếm 12,6%; thu nhập bình quân đầu người đạt 11,2 triệu đồng/năm. Năm
2008, tốc độ tăng trưởng GDP đạt xấp xỉ 16% [73, tr. 9].
15


Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề
Bình quân trong 8 năm từ 2001 đến năm 2008 tăng 13,86%; 3 năm từ
(2005 - 2008) tăng trưởng bình quân đạt 17,6%, ngành cơ khí, sản xuất nguyên
vật liệu... tăng 18 - 25%. Thị xã Sơn Tây có 90 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư
1.000 tỷ đồng, trong đó có 42 dự án đi vào hoạt động thu hút gần 4.000 lao động
địa phương. Thị xã Sơn Tây có 2 làng nghề đã được công nhận làng nghề truyền
thống là: làng nghề gốm Phú Nhi ở phường Phú Thịnh, làng nghề Thêu ren Ngọc
Kiên xã Cổ Đông. Ngoài ra, còn một làng nghề truyền thống đang được khôi phục
là nghề làm bánh tẻ Phú Nhi (phường Phú Thịnh). Tám làng nghề mới đang được
phát triển gồm các nghề thêu ren, sinh vật cảnh, mộc, đan lát, đóng giầy, dép da,
tơ tằm,… tập trung ở các xã Cổ Đông, Trung Sơn Trầm, Sơn Đông, Đường Lâm
và phường Xuân Khanh [73, tr. 10].
Về nông nghiệp: Tỷ trọng cơ cấu ngành nông nghiệp giảm mạnh từ
19% năm 2001 còn 12,6% năm 2008. Giá trị 1ha canh tác năm 2008 đạt 42
triệu đồng (năm 2001 đạt 26 triệu đồng). Kinh tế trang trại và hộ gia đình phát
triển mạnh đem lại hiệu quả cao; Hiện nay trên địa bàn Thị xã có 168 trang
trại (trang trại lâm nghiệp, kết hợp chăn nuôi; cây ăn quả; nuôi trồng thủy
sản), trong đó 94 trang trại chăn nuôi công nghiệp, nhiều trang trại lợi nhuận
từ 300 - 500 triệu đồng/năm [73, tr. 11].
Thương mại và dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng bình quân 17,5%; trong 3
năm (2005 - 2008) tăng 20,3%. Hiện nay, trên địa bàn thị xã Sơn Tây có hơn
208 doanh nghiệp, tổ chức tham gia hoạt động kinh doanh.

Về giáo dục và y tế: Chất lượng giáo dục và đào tạo của thị xã Sơn Tây
luôn được nâng cao với 98% giáo viên các cấp học đạt chuẩn và trên chuẩn. Số
học sinh giỏi và học sinh thi đỗ đại học, cao đẳng hàng năm đạt 30 - 40%.
Chất lượng đội ngũ cán bộ y tế của thị xã Sơn Tây được từng bước
nâng cao, cơ sở vật chất tuyến cơ sở từng bước được đầu tư hiện đại. Công tác
y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chăm lo chu đáo.
Danh lam thắng cảnh và du lịch: Thị xã Sơn Tây có nhiều danh lam thắng
cảnh, di tích lịch sử - văn hóa tâm linh nổi tiếng như Thành cổ Sơn Tây, Đền thờ
Phùng Hưng, Lăng Ngô Quyền, Đền thờ Thám hoa Giang Văn Minh, Chùa Mía,
16


Chùa Cúc, Lễ hội Đền Và, làng Việt cổ đá ong Đường Lâm là những di tích lịch
sử được xếp hạng cấp quốc gia); sân Gôn quốc tế hồ Đồng Mô, Làng văn hóa các
dân tộc Việt Nam…
Thị xã Sơn Tây đã và đang được khai thác hiệu quả, thu hút được đông
lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến với các điểm du lịch nổi tiếng như:
khu du lịch Hồ Đồng Mô, Làng cổ Đường Lâm, Thành cổ Sơn Tây, Đền Và, Làng
Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam… [73, tr.12-13].
Đặc điểm tình hình những vấn đề xã hội của thị xã Sơn Tây
Thị xã Sơn Tây có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời với những nét
văn hóa độc đáo của con người vùng đất xứ Đoài. Là nơi sinh ra hai vị Vua là
Ngô Quyền và Phùng Hưng nổi tiếng trong lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc ta. Nét văn hóa độc đáo của vùng đất xứ Đoài tiếp tục được duy
trì và phát huy cho đến ngày nay, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể vẫn
được lưu truyền, tôn tạo và phát triển. Trong công cuộc đổi mới đất nước,
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế hiện nay, Tình hình văn hóa - xã hội ở thị xã
Sơn Tây luôn được các cấp ủy Đảng chú trọng và tiếp tục phát triển. Đời sống
nhân dân ổn định từng bước và ngày một được nâng lên. Trên địa bàn Thị xã
rộng dân cư phân bố không đều, đan xen giữa các phường và xã, trong phường

lại có thôn sản xuất nông nghiệp. Trong một phường hoặc một xã lại có nhiều
đơn vị hành chính sự nghiệp, các nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, trường
học, bệnh viện và các học viện, nhà trường quân đội cùng đóng quân trên địa
bàn. Sự giao thoa về văn hóa - xã hội giữa các vùng, miền lân cận giữa miền núi
và đồng bằng, giữa miền trung du và thủ đô Hà Nội. Tình hình quốc phòng - an
ninh luôn được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định. Các đối tượng chính sách xã
hội, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình
có công với cách mạng, người nghèo, hộ nghèo được quan tâm. Đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao.
Với điều kiện thuận lợi cơ bản về vị trí địa lý, về truyền thống văn hiến,
nhân dân thị xã Sơn Tây luôn có truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước, lao
động cần cù sáng tạo, là cơ sở để phát triển kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội
đồng thời cũng tạo ra sự đa dạng trong xây dựng, phát triển và hoạt động của các
17


TCCSĐ, trong toàn Thị xã. Đây cũng là những đặc điểm thuận lợi đồng thời cũng
là thực tế khó khăn, thách thức cho công tác xây dựng Đảng và công tác xây dựng
TCCSĐ trên địa bàn thị xã Sơn Tây.
Như vậy, với những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và
tính đặc thù của thị xã Sơn Tây, vấn đề đặt ra đối với công tác xây dựng
TCCSĐ của Đảng bộ thị xã Sơn Tây là quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm
vụ chính trị trung tâm, xây dựng các TCCSĐ trong sạch vững mạnh; góp
phần xây dựng các tổ chức chính trị, các tổ chức quần chúng vững mạnh toàn
diện, hoạt động có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ,
giữ vững tình hình an ninh chính trị trong địa bàn thị xã Sơn Tây cũng như sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN, góp phần vào sự
nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Tình hình công tác xây dựng TCCSĐ của thị xã Sơn Tây trước năm 2001
Chấp hành Chỉ thị số 51CT/TƯ ngày 09/03/1995 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng, Nghị quyết số 10 NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây.
Sau khi tái lập, toàn thị xã có 15 đơn vị hành chính, bao gồm 9 phường, 6 xã, với
75 TCCSĐ và hơn 5.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Từ đặc điểm của các TCCSĐ ở xã, phường, thôn xóm, khu phố, cụm
dân cư và trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, các đơn vị hành chính
sự nghiệp với số lượng đảng viên đông, phần lớn là đảng viên đã nghỉ hưu,
đảng viên là nông dân, công nhân, viên chức. Trình độ đảng viên không đồng
đều về nhận thức, năng lực lãnh đạo. Đảng viên mới kết nạp phần lớn còn trẻ,
có trình độ kiến thức, có lòng nhiệt tình trách nhiệm, gương mẫu. Tuy nhiên,
kinh nghiệm, năng lực lãnh đạo còn nhiều hạn chế, một số xuất thân từ nông
dân nên chịu ảnh hưởng tác phong manh mún, mang nặng tư tưởng cá nhân
cục bộ địa phương, tác động đến quá trình lãnh đạo của TCCSĐ. Số đảng viên
nghỉ hưu phần lớn có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, tiếp tục có nhiều
cống hiến, tham mưu cho công tác lãnh đạo ở địa phương; một số ít chưa thực
sự gương mẫu trong sinh hoạt, chưa thực sự là tấm gương trong thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
những quy định của địa phương. Đội ngũ cán bộ, đảng viên ở xã, phường, thôn
18


xóm, khu phố, cụm dân cư chủ yếu là do nhân dân bầu lên nên trình độ, năng lực
lãnh đạo còn hạn chế cũng tác động không nhỏ tới công tác xây dựng TCCSĐ.
Từ những đặc điểm trên, cùng với những thuận lợi và khó khăn đã tác động tới
công tác xây dựng TCCSĐ của thị xã Sơn Tây trước năm 2001.
Ưu điểm:
Về công tác chính trị, tư tưởng: Trước những biến động của tình hình
thế giới, khu vực và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện sự
nghiệp đổi mới, các cấp ủy Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư
tưởng, chú trọng tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo
đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường công tác thông tin, bồi

dưỡng cán bộ đảng viên về đường lối, chủ trương của Đảng, các vấn đề cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, của địa phương; đấu tranh ngăn chặn những lệch lạc, những biểu
hiện sai trái trên các mặt của đời sống xã hội, củng cố khối đoàn kết thống
nhất trong Đảng và nhân dân.
Về xây dựng TCCSĐ vững mạnh về tổ chức
Xây dựng, củng cố TCCSĐ, trong sạch vững mạnh được xác định là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt của các cấp ủy và được thực
hiện thường xuyên, có nhiều chuyển biến tích cực. Các cấp ủy đã xây dựng
quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cấp ủy viên; xây dựng chương trình
thực hiện nghị quyết. Tiếp tục thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp,
nhất là ở cơ sở. Thị ủy đã tập trung chỉ đạo việc nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của TCCSĐ, giải quyết cơ sở đảng yếu kém, nhất là ở xã,
phường, doanh nghiệp. Chất lượng TCCSĐ hàng năm tăng, tỷ lệ cơ sở đảng
trong sạch vững mạnh năm 1996 là 66,45%, năm 2000 là 76,96%, cơ sở đảng
yếu kém giảm từ 3,49% năm 1996 còn 1,41% năm 2000. Hầu hết các TCCSĐ
đạt trong sạch vững mạnh phát huy được vai trò của tổ chức đảng, thực sự là
hạt nhân trong hệ thống chính trị ở cơ sở [75, tr. 15].
Các TCCSĐ luôn xây dựng được quy chế hoạt động; do đó, đã thể hiện rõ
chức năng lãnh đạo của cấp ủy. Bên cạnh đó đã duy trì và thực hiện tốt chế độ
19


giao ban, kiểm tra công tác, làm việc có chương trình, kế hoạch. Công tác lãnh
đạo, triển khai sơ kết, tổng kết kịp thời, tạo nhân tố mới có sức thuyết phục.
Về công tác cán bộ và xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên
Công tác cán bộ: Ban Thường vụ Thị ủy đã có Nghị quyết số 39 về
phân cấp quản lý cán bộ, trên cơ sở đó cấp ủy từ Thị xã đến cơ sở đã xây
dựng quy hoạch cán bộ. Trình độ năng lực của cán bộ chủ chốt được nâng lên,

đảm nhiệm được yêu cầu nhiệm vụ mới trong điều kiện phải xắp xếp bộ máy
gọn nhẹ. Thực hiện đúng chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
công tác cán bộ, sắp xếp bố trí ổn định tổ chức một số công ty, xí nghiệp,
phòng, ban cho phù hợp với nhiệm vụ mới. Chỉ đạo các xã, phường thực hiện
nghị định 46/CP. Công tác cán bộ được thực hiện theo đúng quy định của
Trung ương Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bố trí, sử
dụng, phân công, điều động.
Công tác xây dựng đội ngũ đảng viên được quan tâm thường xuyên trong
việc giáo dục, rèn luyện và quản lý đảng viên. Công tác phát triển đảng viên được
Đảng bộ đặc biệt chú trọng; đã tăng cường công tác tạo nguồn bồi dưỡng quần
chúng ưu tú kết nạp vào Đảng bảo đảm cả số và chất lượng. Từ năm 1996 đến năm
2000, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 528 Đảng viên tăng 32%. Trong đó số đảng
viên là Đoàn viên Thanh niên là 174 đồng chí bằng 33%; nữ 245 đồng chí bằng
56,4%; trình độ cao đẳng và đại học 134 đồng chí bằng 25,4%. Riêng các TCCSĐ
xã, phường, khu phố, cụm dân cư mỗi năm kết nạp từ 40 đến 60 đảng viên. Cơ bản
đội ngũ đảng viên mới kết nạp có trình độ học vấn, tuổi trẻ, phát huy được năng lực,
hoàn thành nhiệm vụ [72, tr. 16-17].
Về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng
Thị ủy đã tâp trung vào việc kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ
Đảng, chấp hành các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước. Kết hợp tổ
chức kiểm tra theo chuyên đề như: Kiểm tra việc xây dựng và thực hiện quy
chế làm việc của cấp ủy, kiểm tra công tác tài chính của Thị ủy; công tác thu,
nộp và sử dụng đảng phí của cấp ủy cơ sở. Kiểm tra việc thực hiện chỉ thị 15
của Bộ Chính trị về chống tham nhũng. Để giúp cấp ủy Đảng trong chỉ đạo
nhiệm vụ trọng tâm trong từng thời gian, ủy ban kiểm tra đã phối hợp với các
20


ngành tiến hành kiểm tra công tác quản lý đất đai, việc triển khai nhiệm vụ
phòng chống lụt, bão… của một số cơ sở. Đã kiểm tra 72 lượt cấp ủy cơ sở,

1.000 lượt đảng viên trong việc chấp hành nguyên tắc sinh hoạt Đảng, kiểm tra
1.600 lượt đảng viên trong việc thu nộp đảng phí, qua kiểm tra đã giúp tổ chức
đảng và đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót tồn tại. Đã xử lý kỷ
luật 143 đảng viên bằng các hình thức: Khiển trách 41 đồng chí, cảnh cáo 64
đồng chí, cách chức 08 đồng chí, khai trừ 30 đồng chí, sai phạm chủ yếu của
đảng viên bị xử lý kỷ luật là: Vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, vi phạm
chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, một số vi phạm nguyên tắc quản lý
kinh tế, quản lý đất đai. Đã cảnh cáo tập thể Đảng ủy xã Sơn Đông và cách
chức 03 đồng chí Đảng ủy viên là cán bộ chủ chốt của xã vi phạm việc quản lý
và sử dụng đất đai [74, tr. 21].
Việc xử lý kỷ luật đảng viên và tổ chức đảng được tiến hành theo
đúng phương châm, nguyên tắc, thủ tục và quy trình. Hoạt động kiểm tra và
giám sát đã góp phần duy trì và giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, hạn chế những
sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên trong các TCCSĐ.
Về đổi mới phương thức lãnh đạo của các TCCSĐ
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cơ sở đã từng bước đổi
mới phương thức lãnh đạo, bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ sở, xây dựng
chương trình công tác, quy chế làm việc, cụ thể hoá các mối quan hệ giữa cấp uỷ
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, thực hiện tốt việc phân
công cấp uỷ viên, đảng viên phụ trách công việc và định kỳ kiểm tra, bổ sung tạo
điều kiện cho cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ. Duy trì giao ban, quy chế
phối hợp và thời gian sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ hàng tháng, không kể đột xuất.
Từng bước đưa công tác phản ánh, thông tin báo cáo đi vào nền nếp, từ chi bộ
lên đảng uỷ cơ sở. Duy trì thời gian, nội dung sinh hoạt chi bộ thuộc đảng bộ cơ
sở, có sự đổi mới về nội dung sinh hoạt chi bộ theo hướng cụ thể, thiết thực phù
hợp với từng loại hình chi bộ, góp phần đổi mới nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của TCCSĐ và đội ngũ đảng viên.
Đạt được những kết quả trên có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên
nhân chính là do cấp ủy các cấp đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, chính
21



sách của Đảng, trước hết là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
các Nghị quyết của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và thường
xuyên, trực tiếp là những quan điểm chỉ đạo của Tỉnh ủy; đồng thời biết vận
dụng vào điều kiện cụ thể thực tiễn của thị xã Sơn Tây.
Hạn chế:
Sự chuyển biến trong công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức ở một số cấp ủy chưa mạnh, chưa đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện.
Hình thức tuyên truyền, quán triệt nghị quyết của Đảng ở các cấp chậm đổi mới,
hiệu quả chưa cao. Một số chủ trương của thị xã, nhất là về phát triển kinh tế công
nghiệp chưa được tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Công tác tư tưởng chưa chủ động phát hiện kịp thời và tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền tháo gỡ khó khăn, vướng mắc ở cơ sở và trong nhân dân.
Việc quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng các cấp tới cán bộ,
đảng viên và nhân dân có TCCSĐ làm còn mang tính hình thức, chưa chú ý
tới chất lượng và hiệu quả; phương pháp còn đơn điệu, chủ yếu là giới thiệu
tập trung thông qua các buổi học tập quán triệt nghị quyết; chưa sử dụng
nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục. Số đảng viên ở xã, phường, khu phố,
cụm dân cư và trong các doanh nghiệp tham gia học tập nghị quyết của Đảng
mới đạt 80 - 85%. Chất lượng TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh chưa cao,
vẫn còn TCCSĐ yếu kém (trước năm 2001 còn 01 tổ chức đảng ở cấp xã yếu
kém cảnh cáo tập thể Đảng ủy xã Sơn Đông và cách chức 03 đ/c Đảng ủy
viên là cán bộ chủ chốt của xã vi phạm việc quản lý và sử dụng đất đai. Nội
dung, phương thức hoạt động của tổ chức đảng chưa được đổi mới sâu sắc
theo yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo
của một số TCCSĐ còn yếu, vai trò mờ nhạt, nhiều TCCSĐ còn để khiếu kiện
về đất đai kéo dài. Các TCCSĐ tuy có sinh hoạt nhưng nội dung sinh hoạt còn
nghèo nàn, đơn điệu thiếu các biện pháp cụ thể, thiết thực trong tổ chức thực
hiện, việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề còn ít. Tỷ lệ đảng viên sinh hoạt có nơi

chưa cao, thậm chí còn vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
Thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) (khóa VIII) chưa đạt yêu cầu. Năng lực
22


lãnh đạo của một số tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ về phát triển kinh tế còn
nhiều bất cập, xử lý những vấn đề mới, phức tạp nảy sinh còn lúng túng.
Công tác đánh giá cán bộ chưa thường xuyên, chất lượng quy hoạch
cán bộ chưa cao, chưa phát huy được nhân tố mới; tỷ lệ cán bộ nữ và cán bộ
trẻ, cán bộ làm công tác khoa học kỹ thuật còn thấp; chưa chuẩn bị được
nguồn cán bộ đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Việc luân chuyển cán bộ
thực hiện còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu theo Nghị quyết số 11NQ/TƯ của Bộ Chính trị. Công tác cán bộ có mặt còn thiếu sót, xây dựng quy
hoạch chậm, cơ cấu cán bộ chưa hợp lý. Công tác phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ số lượng đi học tập tập trung còn ít; kế hoạch đưa cán bộ đi học
còn lúng túng, bị động và phụ thuộc vào kế hoạch của cấp trên; việc bố trí, đề
bạt cán bộ, có trường hợp chưa hợp lý nên phát huy năng lực còn hạn chế, tỷ
lệ cán bộ là nữ còn ít. Một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí chiến
đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, cơ hội, thực dụng, thiếu gương mẫu trong
công tác, làm giảm uy tín của Đảng, gây bất bình trong nhân dân.
Công tác kiểm tra và giám sát của Đảng bộ có mặt còn yếu, một số
cấp ủy chưa thật sự coi trọng công tác kiểm tra đối với cấp dưới, nội dung
kiểm tra chưa toàn diện, kết quả còn hạn chế. Một số lĩnh vực có nhiều dấu
hiệu vi phạm chưa được kiểm tra kịp thời hoặc có kiểm tra nhưng không phát
hiện được sai phạm, khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo và cơ quan pháp luật
khởi tố, điều tra mới phát hiện được. Một số vụ thi hành kỷ luật Đảng chưa
nghiêm, có vụ còn để thời gian kéo dài, có vụ không xử lý đồng bộ giữa kỷ
luật Đảng và kỷ luật chính quyền. Tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị
sau thanh tra, kiểm tra có nơi chưa kiên quyết, kéo dài. Có việc, có trường
hợp xử lý chưa nghiêm, còn có biểu hiện hữu khuynh, né tránh, đùn đẩy trách

nhiệm. Một số trường hợp xử lý sau khi kiểm tra đã có kết luận nhưng còn
thiếu kiên quyết, nể nang hoặc để kéo dài. Tình hình vi phạm và xử lý kỷ luật
còn nhiều: từ năm 1996 đến năm 2000 đã thi hành kỷ luật 01 TCCSĐ xã
(Đảng bộ xã Sơn Đông). Thi hành kỷ luật bằng các hình thức 143 đảng viên
chiếm 2,86% tổng số đảng viên trong các TCCSĐ xã, phường, khu phố, cụm
dân cư, doanh nghiệp.
23


Công tác xây dựng và phát triển đảng viên ở một số TCCSĐ chưa quan
tâm đúng mức. Công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ. Một số đảng viên đã
tham gia khiếu kiện, thậm chí thúc đẩy hoặc theo quần chúng tham gia khiếu kiện
vi phạm 19 điều quy định đảng viên không được làm của Bộ Chính trị.
Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm
Sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng từ Thị xã đến cơ sở, trước
hết là Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Thị ủy còn có mặt hạn chế, lãnh đạo
chưa toàn diện. Một số Đảng bộ cơ sở còn vi phạm nguyên tắc tập trung, dân
chủ trong sinh hoạt, buông lỏng vai trò lãnh đạo, giảm xút sức chiến đấu,
chưa thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết và sự chỉ đạo của cấp trên,
có nơi tình trạng mất đoàn kết kéo dài. Quản lý đảng viên còn lỏng lẻo. Hiệu
lực quản lý điều hành của chính quyền các cấp và việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở còn hạn chế.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là cấp cơ sở xã, phường trình độ văn
hóa, chuyên môn, lý luận nhìn chung còn thấp, chính sách đào tạo, sử dụng và
quản lý cán bộ còn nhiều mặt hạn chế, chưa khai thác hết tiềm năng nguồn
nhân lực trong toàn Thị xã.
Vai trò lãnh đạo của một số TCCSĐ còn yếu, chưa xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm
vụ chính trị. Chưa thực sự là hạt nhân đoàn kết trong Đảng; phương thức
lãnh đạo chậm đổi mới, trình độ năng lực của một số cấp ủy chưa đáp ứng

được yêu cầu nhiệm vụ mới. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa
được quan tâm đúng mức, nhất là nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
cách mạng cho đội ngũ đảng viên, kể cả đảng viên là cấp ủy viên. Một số
đảng viên, kể cả cấp ủy viên, đã vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống,
thiếu tu dưỡng, rèn luyện. Công tác kiểm tra và giám sát giải quyết các vụ
việc còn để kéo dài chậm được khắc phục dứt điểm.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng nói chung và xây dựng TCCSĐ
của thị xã Sơn Tây nói riêng trước năm 2001 đều gắn liền với trách nhiệm
của cấp uỷ Đảng các cấp. Những thành công và hạn chế cũng như nguyên
nhân trong quá trình xây dựng TCCSĐ là cơ sở, cứ liệu thực tế để Đảng bộ
24


thị xã Sơn Tây đề ra chủ trương, biện pháp, chương trình hành động cụ thể
để thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng TCCSĐ trong những năm tiếp
theo góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thị xã Sơn Tây và
của tỉnh Hà Tây [74, tr. 29].
1.1.3. Chủ trương của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy Hà Tây về công tác
xây dựng tổ chức cơ sở đảng
* Chủ trương của Trung ương Đảng về công tác xây dựng TCCSĐ
Trong những năm 2001 - 2008, là thập niên đầu của thế kỷ XXI, bước
vào thiên niên kỷ mới với nhiều thời cơ và thách thức. Tình hình thế giới
và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Trong xu thế vừa hợp
tác, vừa đấu tranh, tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta, chúng ta có
cả thời cơ và thách thức lớn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục
khẳng định bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ chỉ ra
đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau,
không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Đánh giá về công tác xây dựng Đảng, Đại hội IX khẳng định:
Công tác xây dựng Đảng đã đạt được một số thành tựu, công tác xây dựng

Đảng về chính trị, tư tưởng được coi trọng; đã quan tâm xây dựng, kiện
toàn củng cố TCCSĐ; công tác phát triển đảng viên được chỉ đạo và đạt
được một số kết quả; công tác cán bộ có một số đổi mới về nội dung và
cách làm; Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương sáu (lần 2), (khóa VIII) đạt được một số kết quả nhất
định; đã quan tâm hơn tới công tác kiểm tra của Đảng. Tuy nhiên, công
tác xây dựng Đảng còn có nhiều yếu kém, khuyết điểm cần khắc phục:
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn nhiều hạn chế, thiếu sót; nhiều
khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục, nhất
là việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về chính trị, tư tưởng và đạo
đức lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác.
Công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu; chưa thực hiện đầy đủ các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Ðảng. TCCSĐ chưa được quan tâm chỉ
đạo đúng mức. Công tác kiểm tra trong Ðảng còn yếu, chất lượng và hiệu
25


×