Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUY CHẾ dân CHỦ TRÊN địa bàn HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.79 KB, 104 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Bộ chính trị

BCT

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chủ nghĩa xã hội khoa học

CNXHKH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Hệ thống chính trị

HTCT

Hội đồng nhân dân

HĐND

Mặt trận Tổ quốc



MTTQ

Quy chế dân chủ

QCDC

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚC THỌ,
THÀNH PHỐ HÀ HỘI HIỆN NAY

10

1.1. Một số vấn đề lý luận về quy chế dân chủ ở cơ sở và

chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay
1.2. Thực trạng chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ

10

sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
hiện nay, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra

31

Chương 2. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

59

HIỆN NAY

2.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng thực hiện

59

quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

66
87
89
94

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN,
dân chủ hoá đời sống xã hội đã và đang được Đảng Cộng sản Việt Nam xác

2


định là một trong những vấn đề cốt lõi phản ánh bản chất của CNXH. Sự
nghiệp xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thực chất là quá
trình đổi mới và hoàn thiện HTCT mà trước hết là HTCT cơ sở, đảm bảo cho
nhân dân có quyền làm chủ, quyền được hưởng tự do và hạnh phúc. Dân chủ
ở cơ sở là quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, phát huy tinh thần độc lập, sáng tạo của quần chúng nhân
dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nhận thức đúng đắn vai trò của dân chủ đối với sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH, xây dựng và phát triển đất nước, trong những năm gần
đây, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy chế nhằm
mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, như: Chỉ thị số
30/CT-TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và
thực hiện QCDC ở cơ sở; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày
20/04/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về thực hiện dân chủ

ở xã, phường, thị trấn. Đây là một bước tiến lớn thể hiện sự quyết tâm của
Đảng, Nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Nhờ đó, quyền làm chủ của nhân dân đã được thực hiện trên thực tế, chất
lượng thực hiện QCDC ở cơ sở từng bước được nâng lên, tạo động lực to lớn,
góp phần quan trọng đưa công cuộc đổi mới toàn diện đất nước giành được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội là huyện thuộc tỉnh Hà Tây cũ
được sáp nhập về Hà Nội từ tháng 8 năm 2008. Trong những năm qua, cùng
với thành tựu chung về dân chủ trong quá trình đổi mới đất nước và thành
phố Hà Nội, chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc
Thọ đã đạt được những thành tựu quan trọng như: các hình thức dân chủ trực
tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tự quản được phát huy; quyền và lợi ích
chính đáng của nhân dân được đảm bảo; đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân ngày càng được cải thiện; an ninh chính trị được giữ vững… Tuy

3


vậy, xem xét và đánh giá khách quan thì đời sống dân chủ và chất lượng
thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ còn bộc lộ những hạn
chế, bất cập như: tình trạng dân chủ hình thức còn khá phổ biến, quyền làm
chủ của nhân dân ở một số xã, thị trấn còn bị vi phạm, có nơi nghiêm trọng;
trình độ nhận thức và năng lực thực hành dân chủ của một bộ phận nhân
dân, trong đó có cán bộ cơ sở còn hạn chế; tình trạng cục bộ, quan liêu, tình
trạng khiếu kiện đang là vấn đề bức xúc ở một số xã trong huyện chưa được
giải quyết… Đó là những lực cản đối với quá trình xây dựng và phát triển
của huyện trong những năm qua.
Hiện nay, sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trong đó có
CNH, HĐH nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nâng cao chất lượng
thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ là một việc làm

có ý nghĩa thiết thực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Phúc Thọ nhiệm
kỳ 2015 - 2020 đã đề ra.
Từ vai trò quan trọng của việc thực hiện QCDC ở cơ sở; thực trạng tình
hình cùng với yêu cầu về chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn
huyện Phúc Thọ đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề nghiên cứu: “Chất
lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
luôn thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của các nhà khoa học; đồng thời đã có
nhiều công trình khoa học, luận văn, luận án và bài viết về vấn đề này.
* Nhóm các công trình nghiên cứu chung về dân chủ:
“Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo chế độ một đảng ở nước
ta” của PGS Vũ Hữu Ngoạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Một số
suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay” của TS Đỗ Trung

4


Hiếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Dân chủ trên một số lĩnh vực ở
Việt Nam hiện nay” của GS. TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 11/2008; “Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay” của Lê Minh Quân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; “Ý thức dân
chủ xã hội chủ nghĩa của sinh viên các trường đại học ngành khoa học xã hội
và nhân văn ở Hà Nội hiện nay”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành CNXHKH
của tác giả Lưu Duy Toàn, Hà Nội, 2013.
Các công trình khoa học trên đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề dân chủ,
dân chủ XHCN, thực hiện dân chủ trên một số lĩnh vực. Từ quan niệm chung
về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các tác giả đã

đưa ra quan niệm riêng về góc độ dân chủ của mình, luận giải tương đối rõ
những cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ, dân chủ XHCN, đồng thời đánh
giá đúng thực trạng kết quả thực hiện dân chủ ở các địa phương, đơn vị, từ đó
đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
thực hiện dân chủ trong thời gian tiếp theo.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở:
“Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS. TS Nguyễn Cúc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002; “Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh
đồng bằng sông hồng hiện nay” của TS Nguyễn Thị Ngân, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003; “Dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” do
TS Lương Gia Ban chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; “Thực
hiện dân chủ ở xã trên địa bàn tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp”, luận
văn thạc sĩ, chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Thanh Sơn, Hà Nội, 2003;
“Dân chủ ở xã từ góc nhìn pháp lý”, Thạc sĩ, Nguyễn Minh Tuấn, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2003; “Phát huy dân chủ ở xã, phường” của PGS, TS
Văn Hiền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, luận văn

5


thạc sĩ chuyên ngành nhà nước và pháp luật của Nguyễn Thanh Bình, Hà Nội,
2005; “Nâng cao năng lực thực hành dân chủ của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị
cơ sở Binh đoàn Hương Giang hiện nay”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành
CNXHKH của Nguyễn Khắc Bằng, Hà Nội, 2005; “Ý thức dân chủ xã hội
chủ nghĩa của hạ sĩ quan, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Văn
Quang, Hà Nội, 2006; “Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Nam trong thực hiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa hiện nay”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành

CNXHKH của Trần Đức Luân, Hà Nội, 2006; “Dân chủ cơ sở và vấn đề thực
hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay”, luận án tiến sĩ Chính trị học của
tác giả Nguyễn Thị Tâm, Hà Nội, 2007; “Nâng cao chất lượng thực hiện quy
chế dân chủ ở đơn vị học viên nhà trường quân đội”, đề tài khoa học cấp
Tổng cục Chính trị, do TS Nguyễn Đức Tiến làm chủ nhiệm, Hà Nội,
2010;“Chất lượng thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ở cấp
xã, tỉnh Thái Bình hiện nay”, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành CNXHKH của
Đoàn Thị Luyến, Hà Nội, 2014.
Các công trình khoa học trên, thông qua khảo sát một số vùng, địa
phương, các tác giả đã đi sâu phân tích cấu trúc của các thành tố và vị trí,
vai trò, mối quan hệ của các thành tố trong HTCT; phân tích, luận giải
tương đối rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành QCDC ở cơ sở,
đặc biệt là thực trạng kết quả bước đầu triển khai thực hiện QCDC của các
địa phương, rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất phương hướng và
những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực hiện QCDC ở cơ
sở trong thời gian tới.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn Hà Nội:
“Thực hiện dân chủ ở các đảng bộ xã ngoại thành Hà Nội hiện nay” của
TS Đặng Đình Phú, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Các đảng bộ

6


huyện Thanh Xuân, thành phố Hà Nội lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở trong giai đoạn hiện nay”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Thanh, Hà Nội,
2006; “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức”
luận văn thạc sĩ, của Vương Ngọc Thịnh, Hà Nội, 2010.
Các công trình nghiên cứu trên từ những hướng tiếp cận và phạm vi
nghiên cứu khác nhau đã cố gắng làm rõ bản chất, nội dung, tính chất, cơ chế

thực hiện QCDC ở cơ sở cũng như vai trò của việc mở rộng quyền làm chủ
của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội; trên cơ sở đó đề
xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao chất
lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trên đia bàn Hà Nội trong thời gian tới. Tuy
đã đạt được các kết quả nghiên cứu đáng trân trọng, song những công trình
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về thực hiện QCDC ở cơ sở
vẫn chưa nhiều, nhất là đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất
lượng thực hiện QCDC ở cơ sở đáp ứng nhu cầu dân chủ của nhân dân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn “Chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay” mà tác giả
lựa chọn là nghiên cứu độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa học,
luận văn, luận án đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng thực
hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, luận văn
đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn này hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải một số vấn đề lý luận về chất lượng thực hiện QCDC ở cơ
sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.

7


- Khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trên
địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân và một
số vấn đề đặt ra.
- Đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng

thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa
bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội qua khảo sát thực tế ở một số xã và
thị trấn huyện Phúc Thọ, các số liệu khảo sát được sử dụng từ năm 2008 đến
nay (Từ khi huyện Phúc Thọ được sáp nhập về Hà Nội).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ, dân chủ ở cơ
sở, xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như:
hệ thống cấu trúc, logic lịch sử, phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học, tổng
kết thực tiễn và sử dụng chuyên gia để làm sáng tỏ mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu đã xác định.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa lý luận

8


Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý
luận về QCDC ở cơ sở và chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở. Qua đó cung
cấp thêm cơ sở khoa học cho việc triển khai thực hiện có hiệu quả QCDC ở cơ

sở và Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp một số luận cứ khoa học cho HTCT cơ sở ở huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nghiên cứu, tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo,
chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở
đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng huyện ngày càng phát triển
về mọi mặt; đồng thời, đấu tranh chống những lực cản đến việc thực thi và
mở rộng dân chủ trên địa bàn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề có liên quan ở các trường trong và
ngoài quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHẤT LƯỢNG

9


THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ HỘI HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về quy chế dân chủ ở cơ sở và chất lượng
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội hiện nay
1.1.1. Quy chế dân chủ ở cơ sở và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
* Dân chủ và quy chế dân chủ ở cơ sở

- Dân chủ
Dân chủ, một thuật ngữ xuất hiện rất sớm trong lịch sử từ thời Hy Lạp
cổ đại, Hêrôđốt (484 - 425 TCN) là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này khi
xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử. Theo ông, dân chủ là một thể chế
mà quyền lực do nhân dân nắm giữ thông qua con đường phổ thông đầu
phiếu. Trong ngôn ngữ của người Hy Lạp “Demokratos” là dân chủ, trong đó
“Demos” nghĩa là “Nhân dân”, còn “Kratos” nghĩa là “Quyền lực” hay
“Chính quyền”. Như vậy, theo nghĩa khởi thuỷ, Dân chủ nghĩa là Nhân dân
cai trị. Với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, thuật ngữ này được hiểu
và diễn đạt ngày càng đầy đủ hơn: Dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân
dân. Nói cách khác, dân chủ là một khái niệm để chỉ một chế độ xã hội mà ở
đó “nhân dân là chủ thể quyền lực” [55, tr.60].
Kế thừa tư tưởng của nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: dân
chủ là một hình thức nhà nước, một chế độ xã hội để thực thi quyền lực của
nhân dân. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã khẳng định:
dân chủ tức là chính quyền của nhân dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực;
dân chủ chính là phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân. Trong tác
phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin chỉ rõ: chế độ dân chủ là một hình
thức, một trong những hình thái của nhà nước, trong đó nhân dân là người bầu
ra nhà nước để phục vụ cho quyền làm chủ của nhân dân.

10


Đánh giá tầm quan trọng của dân chủ trong quá trình xây dựng CNXH,
V.I.Lênin khẳng định: “Không có con đường nào khác dẫn đến chủ nghĩa xã
hội, ngoài cách kinh qua chế độ dân chủ, qua tự do chính trị” [21, tr.52].
Không có chế độ dân chủ thì CNXH không thể thực hiện được, giai cấp vô
sản không thể hoàn thành cuộc cách mạng XHCN…nếu không thực hiện đầy
đủ chế độ dân chủ. Thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ cũng có nghĩa tạo điều

kiện cho người dân được phát huy quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm dân
chủ có nghĩa dân là chủ và dân làm chủ; “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu
lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân…nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân” [31, tr.698]. Dân có quyền được hưởng mọi quyền con người, có quyền
làm bất cứ việc gì pháp luật không cấm. Mọi công việc có quan hệ đến vận
mệnh quốc gia, dân tộc phải được công khai bàn bạc với dân, do dân quyết định.
Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát, đánh giá, thẩm định quá trình thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Dân chủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: có dân chủ là có tất cả, dân chủ là của quý báu
nhất của nhân dân, thực hành dân chủ là “chìa khóa vạn năng” có thể giải quyết
mọi khó khăn. Tuy nhiên, để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình, để
phát huy dân chủ, thì phải có cơ cấu quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực
tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện tham gia xây dựng một hệ thống chính trị
“do dân cử ra”, “do dân tổ chức nên”, “phải để cho nhân dân bàn bạc kỹ và tự
mình quyết định một cách thực sự dân chủ” [35, tr.822]. Đây là điều kiện không
thể thiếu trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở cũng như các cấp.
Để đảm bảo quyền dân chủ của dân được thực hiện trên thực tế, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh trước hết phải xây dựng cho được bộ máy chính quyền dân chủ từ
Trung ương đến cơ sở vững mạnh: “Cơ quan Chính phủ từ toàn quốc đến làng,

11


đều là công bộc của dân”; “Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi
nhân dân lên hết thảy”. Chủ tịch Hồ Chí Minh lý giải nội dung quyền dân chủ
của nông dân và khẳng định đây chính là thước đo dân chủ của một chế độ xã
hội: “Bao giờ ở nông thôn người dân thật sự nắm chính quyền, nông dân được

giải phóng thì mới là dân chủ thật sự” [32, tr.25].
Vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi việc thực hiện dân chủ, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, là động lực to lớn của cách
mạng nước ta. Trong suốt quá trình đổi mới đất nước đến nay, Đảng ta luôn
khẳng định: phải nắm chắc ngọn cờ dân chủ, phát huy khả năng sáng tạo của
mỗi người, tăng cường gắn kết xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc
đẩy sự nghiệp đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng ta, có thể hiểu dân chủ như sau: Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân được
thực hiện trên thực tế, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua chế độ dân
chủ, dưới sự lãnh đạo của một Đảng cầm quyền và quản lý của nhà nước.
- Quy chế dân chủ ở cơ sở
Quần chúng nhân dân là những người trực tiếp sản xuất ra những giá trị
vật chất và sáng tạo ra giá trị tinh thần. Trong lao động và sinh sống, nhân dân
luôn gắn bó mật thiết với một đơn vị, một tổ chức, một địa bàn dân cư nhất
định. Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ
thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có
tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn
bộ hệ thống được gọi là cơ sở.
Cơ sở là “tế bào” của hệ thống chính trị, bất cứ một công dân, một
thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở
một cơ sở nhất định, đó là xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
cơ sở…nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ

12


thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được tổ

chức thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng. Xã,
phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường
lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.
Dân chủ ở cơ sở
Cơ sở là nơi mọi biểu hiện về dân chủ hết sức rõ ràng, nơi trực tiếp giải
quyết các nhu cầu, lợi ích của quần chúng nhân dân. V.I.Lênin đã chỉ ra, không
phải cứ tuyên truyền về dân chủ hay giao trách nhiệm cho “những người đại diện”
nhân dân là đủ, mà phải xây dựng chế độ dân chủ từ cơ sở, dựa vào ý kiến của
quần chúng, sự tham gia của quần chúng vào mọi công việc nhà nước.
Dân chủ, là quyền tự nhiên của con người được thực hiện trước hết là ở cơ
sở. Nhân dân có quyền được biết, được bàn và được tham gia giải quyết và kiểm
tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở. Lần đầu tiên, trong Chỉ thị 53-CT/TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa V (28-11-1984) “Về tăng cường công tác
quần chúng của Đảng” đã nhấn mạnh: phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, thực hiện tốt khẩu hiệu: Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra trong sản xuất, phân phối cũng như tất cả các công tác quan hệ trực
tiếp đến quần chúng.
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đổi mới năm
1986, với quan điểm “lấy dân làm gốc”, bên cạnh nhấn mạnh việc thực hiện
dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ cho nhân dân lao động, Đảng ta đã cảnh báo
tình trạng quan liêu, mất dân chủ trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính
quyền và đoàn thể, với biểu hiện sự xa dân, lộng quyền, hách dịch, sống xa
hoa lãng phí. Đến Đại hội VII (năm 1991), đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung: “toàn bộ tổ chức và hoạt
động của HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước

13



hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân
chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt
động của nhà nước do dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp” [9,
tr.19]. Đại hội VIII (năm 1996), Đảng ta chỉ rõ: “Bộ máy đảng, nhà nước,
đoàn thể chậm được sắp xếp lại, tinh giảm và nâng chất lượng; còn biểu hiện
quan liêu, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của nhân dân”. Phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế
thành pháp luật. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII khẳng định: Cần phát huy dân chủ XHCN, thực hiện tốt “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; khẩn trương xây dựng và ban hành quy
chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở từng loại cơ sở.
Về hình thức thực hiện dân chủ ở nước ta, dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp là hai phương thức chủ yếu. Song, xuất phát từ bản chất của một chế
độ xã hội ngày càng mang lại nhiều quyền dân chủ hơn cho nhân dân lao động
nên xu hướng phát triển tất yếu là ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp bởi
dân chủ trực tiếp càng sâu rộng và thực chất thì dân chủ đại diện càng hiệu quả.
Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hiện thực hóa vấn đề
dân chủ XHCN ở Việt Nam theo xu hướng kết hợp mở rộng dân chủ gián tiếp
với phát huy dân chủ trực tiếp, đồng thời đảm bảo dân chủ trong khuôn khổ pháp
luật. Bên cạnh đó, Đảng ta còn khẳng định: ngoài hình thức làm chủ trực tiếp và
thông qua đại diện, nhân dân ta còn có thể thực hiện dân chủ thông qua hình
thức tự quản ở cơ sở, coi hình thức tự quản ở cơ sở là một hình thức thực hiện
dân chủ cùng với dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Đây là sự phát triển mới
về lý luận và thực tiễn thực hiện dân chủ ở nước ta, là sự kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống dân chủ của dân tộc ta trong điều kiện mới.
Dân chủ ở cơ sở nước ta thực chất là dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ
quan doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu

14



hạn... nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh
vực của đời sống ở cơ sở, với phương châm cơ bản là “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”; là những nội dung về các quyền làm chủ của người
dân được quy định trong QCDC ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của
mình. Đây cũng là xương sống, là trụ cột của quá trình thực hiện dân chủ ở cấp
xã, phường, thị trấn trong quản lý xây dựng mọi hoạt động của chính quyền cơ
sở, là nội dung quan trọng trong nền dân chủ XHCN ở Việt Nam.
Để thực hiện dân chủ ở cơ sở phải có quy chế:
Quy chế là “văn bản nêu các điều, khoản quy định thành chế độ hoạt động
chung của tổ chức, cơ quan, đơn vị trong HTCT hoặc trong xã hội để các thành
viên có liên quan thi hành nhằm đảm bảo sự thống nhất hành động, tinh thần kỷ
luật, hiệu quả công tác và mục đích cần đạt tới” [6, tr.614]. Quy chế bao giờ
cũng gắn với những hoạt động nhất định của một cơ quan, đơn vị hay tổ chức
chính trị xã hội. Quy chế của mỗi tổ chức thường do chính tổ chức đó soạn thảo
và được cơ quan có thẩm quyền chuẩn y thì mới được thi hành để đảm bảo tính
thống nhất của pháp luật nhà nước và quyền dân chủ của các thành viên tham
gia. Tùy theo đặc điểm, nhiệm vụ, tính chất hoạt động của các tổ chức và tùy
theo mục đích cần đạt tới của hoạt động mà quy chế có thể có nhiều hình thức
biểu hiện khác nhau. Dù có nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, song mục
đích của quy chế nhằm thống nhất nhận thức và hành động của các thành viên,
nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức, thực hiện tốt mục tiêu đã xác định.
Quy chế dân chủ ở cơ sở là những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của công dân và cơ chế để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiển tra, giám sát
mọi lĩnh vực hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Quy chế dân chủ ban hành
nhằm thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân ở cơ sở trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội; vận động và tạo điều kiện cho nhân dân ở cơ sở
trực tiếp tham gia thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,

tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giáo dục ý thức dân chủ, phát triển

15


năng lực dân chủ, thực hiện quyền làm chủ và thực hành dân chủ cho mọi tầng
lớp nhân dân nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
QCDC ở cơ sở làm cho dân chủ trở thành hiện thực, phổ biến, trực tiếp để mọi
người dân đều có thể cảm nhận, nắm bắt và thực hiện, được hưởng thành qủa
dân chủ bằng chính thể chế pháp quyền nhà nước ở cơ sở. QCDC ở cơ sở được
ban hành và thực hiện góp phần quan trọng khắc phục những hạn chế, thiếu sót
về dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và thực trạng đời sống dân chủ ở nước ta,
ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW
về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở. Sau gần 10 năm thực hiện QCDC ở cơ
sở, ngày 20/04/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) đã ban hành Pháp
lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Nội dung của quy chế dân chủ ở cơ sở là việc thể chế hóa quan điểm của
Đảng về dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân với phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Quan điểm này được thể hiện
trong 6 chương và 28 điều trong Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn. Nội dung cơ bản của quy chế dân chủ ở cơ sở gồm: Những nội dung
cơ bản về quyền của mọi người dân ở cơ sở (được thông tin về pháp luật, các
chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp
đến đời sống và lợi ích của nhân dân tại cơ sở...); những nội dung chính
quyền phải công khai để nhân dân biết (về tình hình phát triển kinh tế xã hội
của địa phương, về việc sử dụng công quỹ, về thu, chi tài chính, các khoản
đóng góp của dân…); quy định những nội dung nhân dân bàn và quyết định
dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân

trên địa bàn; những nội dung, hình thức để nhân dân tham gia ý kiến vào các
chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên môn, công tác cán bộ…
trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội dung, cơ chế để nhân

16


dân giám sát; xác định rõ trách nhiệm của HTCT trong việc tổ chức tiếp dân,
giải quyết khiếu nại tố cáo và trả lời thắc mắc của nhân dân ở cơ sở.
* Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội
- Một số đặc điểm của huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Về điều kiện tự nhiên
Phúc Thọ là huyện thuộc tỉnh Hà Tây cũ, được sáp nhập về Hà Nội từ
1/8/2008; là huyện đồng bằng Bắc Bộ, nằm bên bờ hữu ngạn của hai con
sông: sông Hồng và sông Đáy. Phúc Thọ có ranh giới phía Tây giáp thị xã
Sơn Tây, phía Nam giáp huyện Thạch Thất, phía Đông Nam giáp các huyện
Quốc Oai và Hoài Đức, phía Đông giáp huyện Đan Phượng, phía Bắc sông
Hồng là ranh giới của huyện với tỉnh Vĩnh Phúc.
Phúc Thọ là huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, cách trung tâm
Hà Nội khoảng 35 km về phía Tây; có Quốc lộ 32 với chiều dài trên 16 km,
cùng với tuyến tỉnh lộ phân bố đều khắp huyện. Trên địa bàn huyện có 3 con
sông đi qua, trong đó sông Hồng với chiều dài chảy qua huyện khoảng 10km.
Phúc Thọ có tổng diện tích đất tự nhiên là 11.719 ha, được chia làm hai vùng
là vùng đồng bằng và vùng bãi. Đất vùng bãi thường xuyên được phù sa sông
Hồng bồi đáp nên có chất lượng đất tốt, là điều kiện lý tưởng cho việc quy
hoạch một số vùng sản xuất chuyên canh sản phẩm nông nghiệp sạch.
Phúc Thọ có 23 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: 01 thị trấn và 22 xã.
Dân số của huyện là 182.327 người; mật độ dân số khá đông, 1.556 người/km2.
Đây cũng vừa tạo thuận lợi vừa có những khó khăn đối với việc thực hiện

QCDC ở cơ sở.
Về kinh tế - xã hội
Về kinh tế: Thành tựu to lớn của nhân dân Phúc Thọ là khai thác ngày
càng có hiệu quả thế mạnh của địa phương vào phát triển kinh tế. Thực hiện chủ
trương đổi mới toàn diện, sâu sắc với những bước đi thích hợp, trong đó, đổi mới
kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, Phúc Thọ đã tạo nên những thành quả quan trọng

17


trên mặt trận xây dựng và phát triển một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN. Thành tựu trong phát triển kinh tế là những điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện.
Nằm trong vùng Châu thổ sông Hồng, với diện tích đất nông nghiệp
chiếm 55,3%, lại tương đối màu mỡ do phù sa bồi lắng, Phúc Thọ là nơi có
điều kiện lý tưởng cho sản xuất nông nghiệp. Huyện luôn xác định đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa. Hiện nay huyện đã hình thành các
vùng sản xuất nông nghiệp gồm: vùng sản xuất lúa, vùng sản xuất rau, vùng
trồng cây công nghiệp. Hàng năm, Phúc Thọ cung cấp khoảng 10% nhu cầu về
rau, củ, quả cho thành phố Hà Nội.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp, Phúc Thọ rất quan tâm
đến đầu tư phát triển ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với các ngành
nghề chính như: may mặc, dệt thảm, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất vật
liệu xây dựng. Bên cạnh đó, với vị trí địa lý hết sức thuận lợi, lại có hệ thống
giao thông đường bộ, đường sông rất thuận tiện, những năm qua, thương mại,
dịch vụ đã có mức tăng trưởng khá (9,2%/ năm). Hiện nay, Phúc Thọ quy hoạch
9 cụm công nghiệp và đẩy mạnh các nghành nghề truyền thống.
Về xã hội: Huyện Phúc Thọ đã hoàn thành phổ cập trung học cơ sở vào
năm 2002, sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục được đổi mới, phát triển, 100%
trường học kiên cố theo hướng hiện đại; có 40/72 trường đạt chuẩn Quốc gia.

Tỷ lệ tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở hàng năm đạt 100%, trung học phổ
thông đạt trên 91%. Phúc Thọ đã sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách và
tích cực huy động các nguồn vốn khác trong cộng đồng. Công tác khuyến học
phát triển đa dạng với nhiều hình thức của các tổ chức xã hội, trong dòng họ;
phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong phát triển giáo dục.
Sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân có nhiều
tiến bộ. Thực hiện tốt chương trình y tế quốc gia, phòng chống dịch bệnh; nâng
cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; cơ sở vật chất, trang thiết bị từng
bước được quan tâm đầu tư. Đến nay, đã có 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia

18


về y tế, 100% trạm y tế đã triển khai khám bảo hiểm y tế cho người bệnh; 100%
hộ dân trên địa bàn huyện được sử dụng nước hợp vệ sinh.[7, tr.8].
Các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện tốt, các phong trào “đền
ơn, đáp nghĩa”, các hoạt động nhân đạo, từ thiện phát triển mạnh, hiệu quả và
thiết thực. Chính trị - xã hội, an ninh, quốc phòng cơ bản ổn định, tạo điều kiện và
mội trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tính từ năm 2010 đến năm
2015 “toàn huyện giảm 3.700 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của huyện còn 2,29%,
huyện không còn hộ đói”; “Trung bình mỗi năm huyện giải quyết việc làm cho gần
3.000 người” [phụ lục 2]. Các hoạt động tín dụng của Ngân hàng chính sách xã hội
diễn ra sôi động, khá hiệu quả. Các đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là Hội Nông
dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh đã thực hiện tốt kênh huy động vốn giúp đỡ
người nghèo, các hộ nghèo phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Đây là điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện.
Về văn hóa:
Phúc Thọ luôn quan tâm xây dựng và phát triển văn hóa theo hướng vừa
hiện đại, vừa đậm chất truyền thống, giàu bản sắc dân tộc. Các cấp ủy, chính
quyền và đoàn thể chính trị - xã hội đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nông

thôn mới, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, làng văn hóa. Đến
nay, đã có 135/181 nhà văn hóa cụm dân cư; 100% các xã, thị trấn quy hoạch
trung tâm văn hóa thể thao xã [65, tr.6]. Toàn huyện có 84 làng, trong đó có 60
làng nghề, 5 làng được công nhận là làng nghề truyền thống. Là huyện có nền
văn hóa lâu đời, nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hóa. Mật độ phân bố các
di tích lịch sử, văn hóa dày đặc với 172 di tích; trong đó, có 91 di tích lịch sử
văn hóa được xếp hạng. Các làng, xã trong huyện đã duy trì, thực hiện nhiều
hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, giữ gìn thuần phong mỹ tục, tổ chức
các hoạt động lễ hội, bảo vệ tốt văn hóa truyền thống, bài trừ các hủ tục mê tín
dị đoan và các tệ nạn xã hội khác. Hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng
không chỉ được đẩy mạnh vào các dịp lễ tết, kỷ niệm những ngày lễ lớn của địa
phương và đất nước, với nhiều nội dung, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí ngày

19


càng đa dạng của nhân dân, mà còn luôn được mở rộng dưới các hình thức sinh
hoạt câu lạc bộ văn nghệ, thơ ca, văn hóa truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa
làng. Hầu hết các xã đã có tủ sách pháp luật và các phương tiện phục vụ thông
tin tuyên truyền cần thiết. Qua đẩy mạnh các cuộc vận động văn hóa, nếp sống
và thái độ ứng xử ở nơi làm việc và nơi công cộng có nhiều chuyển biến tích
cực, phong trào văn hóa luôn nhận được sự ủng hộ và tham gia đông đảo của
các tầng lớp nhân dân.
Về hệ thống chính trị
Phúc Thọ có môi trường chính trị - xã hội ổn định. Toàn huyện có 415
tổ chức cơ sở đảng, trong đó trực thuộc Đảng bộ huyện có 47 tổ chức cơ sở
đảng (gồm: 23 đảng bộ xã, thị trấn; 06 đảng bộ cơ quan; 18 chi bộ trực thuộc),
368 Chi bộ cơ sở. Toàn Đảng bộ có 7.122 đảng viên.
Bộ máy chính quyền các cấp của huyện thường xuyên được củng cố và
đang trong quá trình cải cách mạnh mẽ để thực thi các chính sách của Nhà

nước và hoạch định, xây dựng chính sách của địa phương, đáp ứng yêu cầu
thực tiễn hiện nay.
Các tổ chức chính trị - xã hội trong huyện (Mặt trận Tổ quốc, Đoàn
Thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ…) luôn đảm bảo tốt về số lượng và hoạt động
có hiệu quả.
- Quan niệm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội
Thực hiện QCDC ở cơ sở thực chất là thực thi nền dân chủ XHCN, thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội thể
hiện quyền lực thuộc về nhân dân. Thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm bảo đảm cho
mọi tổ chức, mọi hoạt động ở cơ sở thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Trên cơ sở nội dung QCDC ở cơ sở và đặc điểm tình hình huyện Phúc
Thọ, thành phố Hà Nội có thể quan niệm: Thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa
bàn huyện Phúc Thọ là tổng thể hoạt động của các chủ thể ở cơ sở nhằm bảo
đảm quyền và nghĩa vụ của nhân dân theo quy định của quy chế; là sự mở

20


rộng, khơi dậy và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, góp phần xây dựng đảng,
chính quyền cơ sở trên địa bàn huyện vững mạnh toàn diện.
Từ quan niệm về thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội cho thấy:
Mục đích của việc thực hiện QCDC ở cơ sở: nhằm phát huy quyền làm chủ
và sức mạnh của nhân dân tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ.
Chủ thể thực hiện QCDC ở cơ sở: là toàn bộ các bộ phận cấu thành
HTCT ở xã, thị trấn và nhân dân trên địa bàn huyện dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ, chi bộ; lực lượng chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn là cơ quan chính

quyền cấp xã, thị trấn; lực lượng tham gia thực hiện là toàn thể quần chúng
nhân dân với quyền và trách nhiệm công dân.
Nội dung thực hiện QCDC ở cơ sở: là hoạt động được triển khai trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở trên địa bàn huyện, bao gồm: dân
chủ trong lĩnh vực kinh tế; dân chủ trên lĩnh vực chính trị; dân chủ trên lĩnh
vực văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh.
Phương thức thực hiện QCDC ở cơ sở: bao gồm dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện và dân chủ tự quản.
- Vai trò thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc
Thọ
Thứ nhất, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tạo động lực phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện Phúc Thọ.
Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ có dân chủ mới tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân phát huy sáng kiến,
mới giải phóng được những tiềm năng sáng tạo của nhân dân và trở thành động
lực cho sự phát triển và tiến bộ. Thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện
Phúc Thọ đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói
giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân trên địa bàn huyện.

21


Về kinh tế, dưới tác động của tiến trình đổi mới cùng quá trình thực thi
dân chủ hóa, cơ chế quản lý kinh tế dân chủ, người dân đã trở thành người chủ,
làm chủ tư liệu sản xuất, có quyền tự chủ quyết định phương hướng, kế hoạch
sản xuất, kinh doanh làm giàu cho gia đình và địa phương. Việc thực hiện các
quyền dân chủ của người dân đã khơi dậy và phát huy mạnh mẽ trí tuệ, kinh
nghiệm, nguồn nhân lực và vật lực của người dân trong huyện. Người dân tham
gia đóng góp ý kiến về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; được tự do trao đổi
kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ,

chuyển giao kỹ thuật; mở rộng ngành nghề, tìm việc làm mới, nâng cao thu
nhập, cải thiện đời sống của người dân trên địa bàn huyện Phúc Thọ.
Về xã hội, thực hiện QCDC ở cơ sở góp phần tích cực vào việc tháo gỡ
những khó khăn, bức xúc trong cuộc sống của người dân trên địa bàn huyện,
giảm thiểu tình trạng khiếu kiện, giữ vững ổn định xã hội. Sức người, sức của
của nhân dân trong huyện từng bước được khơi dậy, nhiều ý kiến, sáng kiến
được đóng góp, đề xuất; ngày công, tiền của của người dân được huy động cho
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Về văn hóa, các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn, phát huy tác dụng
khi nhân dân được tổ chức thảo luận và thực hiện nếp sống văn minh, lối sống
lành mạnh, xây dựng môi trường văn hóa. Hương ước, quy ước của các làng, xã
chính là sản phẩm văn hóa của quá trình dân chủ hóa, được nhân dân bàn bạc,
thông qua và thực hiện, mang tính cộng đồng, thể hiện khát vọng và ước muốn
của người dân được sống trong môi trường xã hội có trật tự, kỷ cương, góp phần
ổn định và giữ gìn trật tự an ninh xã hội ở cơ sở trên địa bàn huyện.
Về quốc phòng, an ninh, dân chủ là một trong các vấn đề chính trị xã hội
hết sức nhạy cảm, thường được các thế lực thù địch, phản động lợi dụng,
khoét sâu vào những hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện dân chủ của
Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, nhằm bóp méo, xuyên tạc bản
chất của chế độ dân chủ XHCN, gây hoang mang, nghi ngờ và suy giảm niềm
tin của nhân dân. Thực hiện tốt QCDC ở cơ sở, người dân trên địa bàn huyện

22


sẽ phát huy vai trò, trách nhiệm, nêu cao tinh thần làm chủ của mình trong thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, nâng cao ý thức cảnh giác, phòng ngừa,
đấu tranh với những thủ đoạn của các thế lực thù địch và hành vi lợi dụng vấn
đề dân chủ chống phá cách mạng, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở địa phương.

Như vậy, thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ đã và
đang thực sự trở thành động lực quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình thực
hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa - xã hội có nhiều
tiến bộ; quốc phòng, an ninh được củng cố; trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
huyện được đảm bảo.
Thứ hai, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng HTCT cơ
sở vững mạnh, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng tham nhũng gây tác hại đến
phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ.
Dân chủ và HTCT có mối quan hệ biện chứng không tách rời, trong đó,
việc bảo đảm quyền lực của nhân dân được thực hiện trên thực tế là mục tiêu,
là cái đích mà HTCT phải hướng tới. Thực tế đã chứng minh, ở nơi nào đảm
bảo tốt việc thực hiện dân chủ của nhân dân, nơi ấy sẽ tạo ra được phong trào
chính trị rộng lớn và môi trường dân chủ lành mạnh, nhân dân sẽ tin yêu, ủng
hộ tổ chức đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, đó là cơ sở để địa
phương xây dựng HTCT ở cơ sở.
Những năm qua, quyền dân chủ của nhân dân đã được mở rộng và phát huy,
nhân dân được tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các tổ chức đảng, chính quyền,
các tổ chức chính trị xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở địa phương. Tuy nhiên,
thực trạng thực hiện QCDC ở cơ sở gặp nhiều vấn đề khó khăn, tiêu cực, bộc lộ
những yếu kém. Một số nơi người dân ít quan tâm đến các vấn đề chính trị xã hội,
thậm chí không biết hưởng quyền dân chủ, không biết dùng quyền dân chủ. Trong
khi bộ máy chính quyền ở cơ sở chưa thực sự vững mạnh, tình trạng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, nhũng nhiễu dân còn khá phổ biến. Hiệu lực quản lý, điều
hành kinh tế - xã hội và pháp luật còn chưa nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông
lỏng, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng bị giảm sút.

23


Trước những yếu kém trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở, nhận thức

được vai trò và ý nghĩa quan trọng của việc thực hiện QCDC ở cơ sở đối với sự
ổn định, phát triển của đất nước, Đảng, Nhà nước đã ban hành một loạt các Chỉ
thị, Nghị định, Pháp lệnh thực hiện QCDC một cách rộng rãi trên toàn xã hội,
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, khơi dậy quyền
làm chủ, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm tra, kiểm
soát các công việc của nhà nước, chính quyền địa phương, thôn, xã…để khắc
phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và tham nhũng.
Thông qua thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, giúp cho
chính bản thân các thành tố của HTCT ở cơ sở và mọi người dân trong huyện nhìn
nhận lại chính bản thân mình. Tinh thần đấu tranh, phê và tự phê của đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở và nhân dân được phát huy, từng bước loại bỏ các biểu hiện phi dân
chủ và làm trong sạch bộ máy trong HTCT ở cơ sở trên địa bàn huyện, qua đó thắt
chặt mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với HTCT, tạo điều kiện cho HTCT ở
cơ sở thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong lãnh đạo, quản lý, tổ chức xây
dựng, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở cơ sở trên địa bàn huyện.
Thực hiện tốt QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ không những
góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng, lề lối làm việc
của chính quyền cơ sở theo hướng mở rộng dân chủ, mà còn góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, chất lượng công tác
quản lý điều hành của chính quyền cơ sở. Đồng thời, thông qua thực hiện
QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện còn giúp cho các tổ chức làm tốt công tác
đánh giá, lựa chọn, sàng lọc, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có đức có tài;
phát hiện, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, vi phạm dân chủ, giúp cho tổ
chức đảng, chính quyền, loại bỏ những phần tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, bè
cánh… nhằm xây dựng HTCT ở cơ sở trong sạch vững mạnh, ngăn chặn và
đẩy lùi tình trạng tham nhũng gây tác hại đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ.

24



Thứ ba, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở góp phần nâng cao nhận thức,
trình độ văn hóa dân chủ cho nhân dân trên địa bàn huyện Phúc Thọ
Quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ đã trực
tiếp đưa người dân vào các hoạt động dân chủ, thông qua đó nâng cao năng lực
làm chủ, hiểu rõ cách thức thực hiện quyền làm chủ của mình. Người dân sẽ
nhận thức được quyền được biết, được bàn, được quyết định, được kiểm tra,
giám sát những công việc ở địa phương; nhận thức được những lợi ích của bản
thân từ đó chủ động và có ý thức tự giác hơn trong việc thực hiện các quyền và
trách nhiệm công dân. Khi nhận thức và năng lực thực hành dân chủ của nhân
dân được nâng lên, họ sẽ tích cực tham gia ngày càng sâu rộng hoạt động của
mình vào các công việc quản lý nhà nước và quản lý xã hội ở cơ sở trên địa bàn
huyện. Đồng thời, cũng làm nảy sinh nhu cầu trong thực hiện quyền dân chủ,
nâng cao khả năng tư duy sáng tạo của mỗi người dân, hình thành ý thức tích
cực, tự giác tham gia đóng góp ý kiến xây dựng địa phương, đề đạt tâm tư
nguyện vọng, đấu tranh phê bình, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực ở cơ sở.
Như vậy, thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ là một yêu
cầu khách quan và là nền tảng, nguyên tắc cơ bản dựa trên đó người dân trên địa
bàn huyện có thể làm những điều cần thiết cho cuộc sống của mình đáp ứng
nguyện vọng của bản thân. Quá trình thực hiện tạo ra chuyển biến tích cực cho
việc phát huy dân chủ, nâng cao nhận thức, năng lực làm chủ, đấu tranh với những
hiện tượng vi phạm dân chủ. Thực chất thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn
huyện Phúc Thọ là phát huy vai trò động lực to lớn bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên địa bàn huyện trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện.
1.1.2 Quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay
* Quan niệm về chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa
bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay
Chất lượng là một tính từ được sử dụng trong nhiều lĩnh vực đời sống xã

hội, nói lên giá trị, hiệu quả của một sự vật, sự việc, một hoạt động diễn ra ở

25


×