Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

luận văn thạc sĩ Chất lượng thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.09 KB, 124 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề chính trị mang bản chất giai
cấp vừa là một trong những giá trị xã hội mang tính phổ biến, tính nhân loại
to lớn. Chính vì vậy mà dân chủ đã đang và và luôn trở thành vấn đề thời sự
thu hút mối quan tâm to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Quá trình
phát triển của lịch sử chính trị nhân loại theo xu hướng tiến bộ cũng chính là
quá trình phát triển của các nền dân chủ. Xã hội càng phát triển thì các nhu
cầu về dân chủ và quyền con người càng trở thành đòi hỏi bức xúc. Việc mở
rộng và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay vừa là mục tiêu vừa là động lực,
là tiền đề, điều kiện quan trọng, góp phần giải quyết hàng loạt những vấn đề
quan trọng và cơ bản của đất nước. Đảng ta đã xác định: mở rộng dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là
động lực bảo đảm cho mọi thắng lợi của Cách mạng, của công cuộc đổi mới.
Xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở là chủ trương lớn là khâu có ý nghĩa
đột phá nhằm giải quyết nhiều vấn liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân,
củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, góp
phần đảm bảo sự ổn định và phát triển về mọi mặt của đất nước. Xây dựng
chế độ nhà nước dân chủ theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tiến trình
lịch sử của Đảng và Nhà nước ta.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) nhận định: khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Nghị quyết Đại hội VII, VII, IX, X và Đại hội
lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định vị trí, tầm quan trọng và tính cấp


2



thiết của vấn đề dân chủ nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 18/2/1998 Bộ chính trị, Ban
chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VIII đã ra chỉ thị số 30
CT/TU “về việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Thể chế
hoá chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998
(sau đó là Nghị định 79/2003-NĐ/CP) về thực hiện dân chủ ở xã, phường thị
trấn. Năm 2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34 về
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay cho Nghị định số 79/2003. Pháp
lệnh số 34/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản pháp
lý quan trọng, đánh dấu một bước mới trong việc thể chế hóa phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” của Đảng, nhằm phát huy quyền
làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở. Việc ban hành Chỉ thị số 30CT/TW, Pháp lệnh số 34 và các Nghị định của Chính phủ về xây dựng và
thực hiện quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa thể hiện tính cấp thiết của
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là yêu cầu đối với việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ đại diện, góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu lực hoạt động của chính quyền địa phương cơ sở.
Trên thực tế, việc triển khai xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở đã chứng tỏ đây là một chủ trương đúng đắn, hợp ý Đảng lòng Dân, đáp
ứng được quyền và lợi ích trực tiếp của đông đảo quần chúng nhân dân, được
nhân dân đồng tình hưởng ứng và tích cực thực hiện.
Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật dân chủ hiện nay vẫn còn nhiều bất
cập, chưa thực sự phát huy được tác dụng và hiệu quả, nhất là ở cơ sở - nơi
gần dân nhất và trực tiếp giải quyết những công việc liên quan đến nhân dân.


3


Tình trạng vi phạm dân chủ vẫn chưa được giải quyết dứt
điểm, quyền làm chủ của nhân dân chưa được coi trọng đúng mức,
còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, cửa
quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân chưa được
đẩy lùi; một bộ phận cán bộ công chức bị thoái hoá, biến chất, chưa
thực sự là công bộc của nhân dân; không ít hiện tượng mất dân chủ,
dân chủ hình thức, dân chủ không đi liền với kỷ luật và pháp luật;
cơ chế và pháp luật đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
chưa được cụ thể hóa đầy đủ [7, tr 1]
Đối với Quảng Trị, việc triển khai, thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ở
trong thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần quan trọng
vào sự ổn định và phát triển về mọi mặt của tỉnh. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm
thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng và thực hiện dân chủ, hiện nay
vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, nhất là trong việc triển khai thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cấp xã. Ở một số địa phương tình trạng vi phạm quyền làm
chủ của người dân vẫn còn xảy ra, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín
của Đảng, chính quyền và làm mất lòng tin ở nhân dân, gây mất ổn định và
trật tự an toàn xã hội, tác động tiêu cực đến sự phát triển chung của tỉnh.
Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật
dân chủ ở cấp xã, phường thị trấn trên địa bàn tỉnh, nêu ra được những
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm từ đó đề xuất những giải pháp thích hợp
nhằm nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn
là một yêu cầu khách quan và cấp bách hiện nay.
Do điều kiện thời gian, kinh phí không cho phép để nghiên cứu một
cách đầy đủ và toàn diện vấn đề thực hiện pháp luật dân chủ ở tất cả các loại
hình cơ sở trên phạm vi toàn quốc vì vậy tác giả chỉ tập trung nghiên cứu việc


4


thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn (cấp xã) trên địa bàn một
địa phương cụ thể.
Từ những cơ sở đã nêu, tôi quyết định chọn đề tài:"Chất lượng thực
hiện Pháp luật dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị " làm luận văn
thạc sĩ luật học với mong muốn có những đóng góp nhỏ bé của mình vào lý
luận và thực tiễn của việc nâng cao chất lượng thực hiện pháp luật dân chủ ở
cơ sở nói chung và ở địa bàn Quảng Trị nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dân chủ và thực hành dân chủ là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà khoa học, những người làm công tác lý luận cũng như
thực tiễn và được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Liên quan
trực tiếp và gián tiếp đến đề tài này có thể kể đến một số công trình khoa học,
các bài viết tiêu biểu như: Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo,; Dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb sự thật, Hà Nội, 1991; Hoàng Chí Bảo; Tổng
quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: Quan điểm lý luận và phương
pháp nghiên cứu, Tạp chí thông tin lý luận, số 9 -1992; Nguyễn Tiến Phồn,
Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, Nxb. Khoa xã hội học,
2001; Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng
thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 2/2003...Các công trình bài viết nói trên tập trung làm rõ khái
niệm dân chủ, các giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ, các đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa, đưa ra các
giải pháp về thực hành dân chủ, mở rộng và phát huy dân chủ.
Một số bài viết của các tác giả đề cập và phân tích các quan điểm, tư
tưởng của Hồ Chí Minh về dân chủ, như Nguyễn Khắc Mai, Dân chủ - di sản
văn hoá Hồ Chí Minh, Nxb sự thật, 1997; Phan Xuân Sơn, Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, số tháng 9/2010,
Hà Nội...



5

Các tác giả cho rằng, tư tưởng về dân chủ của Hồ Chí Minh vừa thể
hiện tính hiện đại, tính pháp quyền, tính thể chế trong tư tưởng chính trị
phương tây hiện đại, vừa thể hiện tinh thần dân chủ cộng đồng, trọng dân
trong tư tưởng chính trị Việt Nam truyền thống; coi tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ là di sản văn hoá Hồ Chí Minh.
Sau khi có Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị Nghị định số
29/1998/NĐ-CP của Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã, vấn đề dân chủ ở cơ sở được rất nhiều nhà nghiên cứu đề cập, phân tích
trong các công trình, bài báo khoa học. Những công trình tiêu biểu, như
Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2000; Lương Gia Ban, Dân chủ
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003. Trần
Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt
Nam, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng 12/2003; Nguyễn Duy Quý, Về dân chủ
ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản số 4, tháng 2/2004, Hà Nội; Nguyễn Văn Sáu và
Hồ Văn Thông, thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở
nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003; Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn
Thông, Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội,2003; Nguyễn Văn Sáu, Quan hệ giữa thực thi
Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền ở nông thôn, Tạp chí Lý
luận Chính trị, số 11/2002....Trong các công trình khoa học, bài viết kể trên,
các tác giả tập trung phân tích, làm rõ nội hàm khái niệm dân chủ ở cơ sở, các
khía cạnh lý luận và thực tiễn của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, coi dân
chủ ở cơ sở như một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam, có cuội
nguồn từ trong truyền thống dân chủ làng xã và rất cần phát huy sức mạnh
của nó trong điều kiện xã hội hiện nay, phục vụ tiến trình xây dựng Nhà nước
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các tác giả cũng nhấn mạnh rằng,



6

việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có mối liên hệ mật thiết với vấn đề
xây dựng chính quyền cấp cơ sở. Quy chế dân chủ ở cơ sở càng được thực
hiện nghiêm túc, hiệu quả góp phần củng cố, xây dựng chính quyền cấp cơ sở
xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh.
Về nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập và phân tích trong các bài viết đăng trên các báo, tạp chí
khoa học khác nhau, như:
Đặng Đình Tân - Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân
chủ ở cơ sở, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2002; Lê Quang Minh, Để thực
hiện dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 4/2003; Phạm Ngọc
Quang (2004) Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới - thành tựu,
vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 3/2004; Hoàng Trọng
Chính, Nâng cao hiệu quả hoạt động quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Lao
động và công đoàn, số 358/2006; Chu Thị Trang Vân, Một số vấn đề đặt ra
trong quá trình thực thi pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2009; Nguyễn Kim Thanh, Một vài suy
nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp
chí Dân vận, số 7/2009; Quách Sĩ Hùng, Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp
luật dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số
6/2009; Mai Đức Ngọc, Dân chủ cơ sở và sự phát triển bền vững ở nông thôn
hiện nay, Tạp chí Tuyên giáo số 7 /2011...Các bài viết nêu trên đã góp phần
làm rõ thêm những đặc trưng của quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở; bước
đầu tổng kết, nêu rõ thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong xây
dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, các nguyên nhân dẫn tới
những hạn chế và các giải pháp khắc phục. Các bài viết trên cũng bổ sung
những nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây dựng, thực hiện dân chủ ở

cơ sở phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống của dân tộc, đặc điểm của
thời kỳ quá độ ở Việt Nam.


7

Chủ đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên phạm vi cả nước nói
chung hoặc đối với từng địa phương cụ thể nói riêng đã trở thành đề tài của
một số luận văn thạc sĩ Luật học, Triết học như: Trần Quốc Huy (2005),
Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
thạc sĩ luật học, Hà Nội; Lê Xuân Huy (2005), ý thức pháp luật với quá trình
thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay (qua thực tế một số tỉnh phía
Bắc), Luận văn thạc sĩ triết học; Ngô Thị Hoà (2005), Nâng cao chất lượng
thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn
thạc sĩ Luật học; Nguyễn Minh Tuấn (2005), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về dân chủ ở xã, Luận văn thạc sĩ Luật học; Phạm Thị Việt Nga (2008):
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường trên địa bàn thành phố Thanh
Hoá tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ Luật học; Vương Ngọc Thịnh (2010),
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội,
Luận văn thạc sĩ Luật học.....Những công trình kể trên đều đã tập trung phân
tích cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở; chỉ ra
nguyên nhân của những kết quả đã đạt được và những tồn tại, hạn chế, bất cập
của quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở.
Về vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở, thực hiện pháp luật trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị, đến nay đã có một số bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học,
tạp chí chuyên ngành, Báo nhân dân, Báo địa phương. Tuy nhiên đó mới chỉ
là những bài báo phản ánh một số mặt của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở hoặc thực hiện pháp luật nói chung chứ chưa phải là những công trình
nghiên cứu khoa học chuyên sâu về lĩnh vực thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ

sở. Vì vậy, việc nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn việc thực hiện
pháp luật dân chủ cơ sở nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng


8

thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn Quảng Trị là một yêu cầu
đặt ra cấp bách trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là phân tích, làm rõ thêm về phương diện lý
luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, mà trực tiếp
là ở xã, phường, thị trấn, là nơi gần dân nhất, là cội nguồn của mọi chủ trương
chính sách của đảng và nhà nước. Tác giả của luận văn tập trung khảo sát,
đánh giá đúng thực trạng tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên
địa bàn Quảng Trị, nêu ra được những thành công cũng như hạn chế bất cập
và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó, đồng thời đề xuất những quan
điểm và các giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả của việc
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong thời
gian tới.
Để hoàn thành tốt các mục đích, yêu cầu đặt ra, luận văn tập trung giải
quyết các nội dung sau:
- Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở, bao gồm các vấn đề dân chủ, dân chủ ở cơ sở, pháp
luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc điểm, vai trò của việc thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở, chất lượng của việc thực hiện pháp luật dân chủ ở xã
cũng như các tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực
hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Khảo sát thực tế nhằm đánh giá đúng thực trạng của thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong những năm qua, từ
đó đề xuất và luận giải một số quan điểm có tính chất phương hướng và các

giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật
về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị hiện nay.


9

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là là lý luận và thực tiễn của vấn đề
thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở và thực trạng của việc thực hiện pháp
luật dân chủ cấp xã trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Từ góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật,
phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn trong việc phân tích những cơ
sở về lý luận và thực tiễn vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, không nghiên các nội dung liên quan đến việc thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước và các loại hình cơ sở
khác. Phạm vi nghiên cứu của luận văn cũng được giới hạn theo không gian
và thời gian. Về mặt không gian, luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu đánh
giá thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị mà cụ thể là ở cấp xã, phường, thị
trấn. Về mặt thời gian, luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng của
vấn đề nghiên cứu trong khoảng thời gian từ sau khi có Chỉ thị 30-CT/TW
của Bộ Chính trị “về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”, đặc
biệt là sau khi có Pháp lệnh số 34/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac- Lê Nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước và pháp luật, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Các quan điểm, quan niệm, kết quả được nghiên cứu trên phương diện lý luận
và thực tiễn về dân chủ ở cơ sở, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và các phương pháp cụ thể khác như: phân tích, tổng hợp, phương
pháp lịch sử, lôgic, các phương pháp so sánh, khái quát hoá, hệ thống hoá,
điều tra xã hội học...


10

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về dân chủ ở cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.Đánh giá một
cách khách quan về chất lượng thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã, các kết
quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế. Từ đó nêu ra được nguyên
nhân và những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện pháp luật về
dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn tiếp tục đóng góp về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực
hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở hiện nay.
- Qua điều tra khảo sát và phân tích tổng hợp nhằm đánh giá đúng thực
trạng của việc thực hiện pháp luật ở cơ sở nói chung và thực hiện pháp luật
dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng. Đề xuất các giải pháp nhằm đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị.
- Là tài liệu tham khảo trong việc tổng kết, đánh giá thực tiễn, xây dựng
các luận cứ khoa học trong việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn tỉnh.
Là cẩm nang quan trọng phục vụ cho công tác chuyên môn và nghiên

cứu khoa học ở địa phương nơi công tác.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ
1.1. KHÁI NIỆM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT DÂN CHỦ, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CẤP XÃ

1.1.1. Khái niệm về thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã
1.1.1.1 Dân chủ và dân chủ cơ sở
a) Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI, VII trước công
nguyên. Theo tiếng Hy Lạp thì dân chủ là từ ghép của hai từ Demos (nhân
dân) và Kratos (quyền lực), “Demoskratia” -dân chủ - có nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Dân chủ là hình thức
tổ chức thiết chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn
gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng
được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất
định [32. tr.653]
Dân chủ, trước hết được xem xét với tư cách là một hình thức tổ chức
nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng
dân cư với nhà nước. Theo đó, cộng đồng là chủ thể gốc và có quyền năng áp
đặt ý chí lên nhà nước. Dân chủ còn được hiểu là một nguyên tắc sinh hoạt

của các tổ chức chính trị-xã hội, cộng đồng dân cư và được thực hiện theo
nguyên tắc số ít phục tùng số đông, thiểu số phục tùng đa số. Khác với các
hình thức khác của thiết chế nhà nước, trong thiết chế dân chủ, quyền của đa
số, quyền bình đẳng của mọi công dân, tính tối cao của pháp luật được chính
thức thừa nhận; những cơ quan quyền lực của nhà nước do dân bầu cử ra.


12

Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Lịch sử các cuộc đấu tranh
giành dân chủ đều dẫn đến khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí con
người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực
làm chủ xã hội. Vì vậy, dân chủ với ý nghĩa đó được xác định như một lý
tưởng nhân đạo, một giá trị nhân văn.
Dân chủ còn hàm chứa những phương pháp luận giải khác nhau, nhằm
khẳng định tính hợp lý và tính đáng được tuân thủ của những giá trị dân chủ.
Nó đề ra các phương pháp thực hiện các giá trị đó trong đời sống, mà chủ yếu
tập trung vào ba khâu quan trọng: Nhà nước - pháp luật - xã hội công dân.
"Dân chủ là một giá trị xã hội chỉ có thể đạt đến một trình độ cao khi có sự
phấn đấu của toàn thể cộng đồng nhân dân dưới sự lãnh đạo của các cấp lãnh
đạo Đảng và chính quyền" [46, tr. 12].
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác -Lênin, Dân chủ là một nhu cầu
khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân.
Trong xã hội có giai cấp và nhà nước thì chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua
nhà nước, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp
thống trị xã hội, khi có chế độ dân chủ thì luôn luôn với tư cách phạm trù lịch
sử chính trị. Khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn có ý nghĩa là một hình
thức nhà nước, có quản lý xã hội theo pháp luật và thừa nhận ở nhà nước đó
quyền lực thuộc về nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và phát huy quyền làm chủ của

nhân dân đã thể hiện một cách rõ nét những đặc điểm, bản chất của dân chủ
và dân chủ xã. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh dân chủ có nghĩa là dân là chủ,
làm chủ, toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Nước ta là nước dân chủ vì
vậy chủ thể của đất nước phải là dân. Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn
năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Trong bài báo Dân vận đăng trên Báo
Sự thật năm 1949, Bác Hồ viết:


13

Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành là lực lượng đều ở nơi dân [37, tr 1379].
Dân chủ mà chúng ta đang xây dựng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là
nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân, của đa số nhân dân lao
động, phục vụ lợi ích của đa số nhân dân. Dân chủ XHCN là nền dân chủ do
Đảng Cộng sản lãnh đạo nhất nguyên về chính trị. Dân chủ XHCN được thực
hiện bằng hệ thống tổ chức với tính cách là một chế độ chính trị, trước hết
được thực hiện chủ yếu bằng nhà nước và thông qua nhà nước. Quá trình đó
diễn ra cùng với quá trình phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Mở
rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng
thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của cộng cuộc đổi mới
đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ
của dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị

của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân
dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định
và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.[19, tr 131]
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội(bổ sung phát triển năm 2011) nêu rõ:


14

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân
chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả
các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được
thể chế hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm. (20, tr 31)
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục thể
hiện những chủ trương nhất quán về mở rộng và phát huy dân chủ đồng thời
đưa ra những phương hướng, giải pháp quan trọng nhằm xây dựng dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn
thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận
tuỵ phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công
dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ
chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực
tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực

hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách
nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị
những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi
lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống
tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. [20, tr 170]
b) Dân chủ ở cơ sở
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và
thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở nhấn mạnh: "Khâu quan trọng và cấp bách


15

trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp
thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp, rộng rãi nhất" [13, tr. 1].
Về nội hàm của khái niệm cơ sở thì hiện nay cơ sở được hiểu bao gồm
nhiều loại hình đơn vị khác nhau.Theo nghĩa rộng, cơ sở là đơn vị xã hội nhỏ
nhất do nhân dân tổ chức nên. Các cộng đồng dân cư với số lượng người
nhiều hay ít khác nhau cùng sống trên một phạm vi lãnh thổ nhất định như
thôn, làng, ấp, bản, khu dân cư...đều được coi là tổ chức cơ sở của xã hội. Cấp
cuối cùng nhỏ nhất của một hệ thống cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội đều được coi là tổ chức cơ sở.
Theo nghĩa hẹp, cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống
chính quyền nhà nước, đó là xã, phường, thị trấn mà gọi tắt là cấp xã. Chính
quyền cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta. Cơ
sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp
luật của Nhà nước, nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực
tiếp và rộng rãi nhất. Chính quyền cấp xã là nền tảng của nền hành chính nhà
nước. Qua quá trình đổi mới, Đảng ta ngày càng có nhận thức đầy đủ và đúng
đắn về cơ sở, coi cơ sở là hình ảnh tập trung của chế độ dân chủ.

Cơ sở theo nghĩa rộng là những đơn vị nhỏ nhất cấu thành chỉnh thể xã
hội và đời sống xã hội, có thể là một tập thể lao động, một nhóm xã hội, một
gia đình, trường học, cơ quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội, tổ chức hành chính
sự nghiệp...Cơ sở cũng được quan niệm là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong
tổ chức các đơn vị hành chính, cơ sở chính là xã, phường, thị trấn. Mặt khác,
giữa cơ sở là xã, phường, thị trấn cũng có những sự khác biệt nhất định, trong
đó phường là cấp cơ sở ở đô thị, xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn. Cơ sở
xã, phường, thị trấn nói chung có một số đặc điểm như sau:
- Xã, phường, thị trấn là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của
dân, nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở sống và làm việc hàng


16

ngày cùng dân, có điều kiện gần gũi trực tiếp và thường xuyên với dân chúng.
Vì vậy, cán bộ cơ sở là người nắm rõ nhất tình hình đang diễn ra tại cơ sở,
thấu hiểu được nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
- Xã, phường, thị trấn là nơi thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước, nơi thể hiện rõ nhất pháp luật của Nhà nước được tổ
chức thực hiện và đi vào cuộc sống.
- Cấp xã là nơi kiểm nghiệm đánh giá đường lối, chính sách, chủ trương
của Đảng và Nhà nước. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống của dân ở xã,
phường, thị trấn.
- Cấp xã vừa thực thi chức năng quản lý nhà nước lại vừa diễn ra hoạt
động tự quản của dân ở cộng đồng.
Do vị trí, vai trò của cấp xã như trên mà việc thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn là nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân
ở xã, phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của
nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường khối

đại đoàn kết toàn dân tộc, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây hệ thống
chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy
thoái, quan liêu tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Như vậy, dân chủ ở cơ sở nói chung đề cập đến cả dân chủ ở xã,
phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà nước và các loại
hình khác, còn dân chủ ở cấp xã mà luận văn nay tập trung nghiên cứu là
dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã hiện
nay chính là việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn và các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ ban hành.


17

1.1.1.2 Thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn
a) Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cấp xã
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật và Nhà nước với tư cách là hai thành
tố của thượng tầng chính trị - pháp lý luôn có mối quan hệ khăng khít không
thể tách rời nhau. Pháp luật luôn phản ánh những quan điểm và đường lối
chính trị của lực lượng nắm quyền lực Nhà nước và đảm bảo cho quyền lực
đó được triển khai thực hiện trên quy mô toàn xã hội.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn
trọng và thực hiện. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân, do đó pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp công nhân

và đông đảo nhân dân lao động, pháp luật xã hội chủ nghĩa thực sự là hệ
thống pháp luật dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân
dân lao động.
Pháp luật giữ vai trò quan trọng, là phương tiện để nhân dân phát huy
quyền làm chủ, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật là nhân tố
điều chỉnh các quan hệ xã hội, có tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các
quan hệ xã hội, trong đó có các quan hệ giữa các cá nhân công dân với Nhà
nước, giữa công dân với nhau trong đời sống xã hội. Pháp luật đảm bảo thực
hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực nhân dân, đảm bảo dân
chủ công bằng và tiến bộ xã hội.
Dân chủ là thuộc tính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường
hiệu lực và phát huy vai trò của Nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống


18

xã hội luôn gắn liền với quá trình thực hiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật, mọi quyền tự do dân chủ
của công dân phải được quy định cụ thể trong pháp luật, Nhà nước phải đảm
bảo cho công dân thực hiện các quyền đó trong khuôn khổ luật định, đồng
thời pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải
thực hiện để đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội.Từ những nội dung đã nêu trên,
chúng ta có thể đưa ra khái niệm pháp luật về dân chủ:
Pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa công
dân với Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế
nhằm đảm bảo cho công dân thực hiện một các đầy đủ quyền làm chủ
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Pháp luật về dân chủ có phạm vi và nội dung điều chỉnh vô cùng rộng
lớn, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Pháp luật về dân chủ

ở xã, phường là một nội dung quan trọng của pháp luật về dân chủ ở cơ sở,
bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước,
các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân bảo đảm
cho nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình. Các quy phạm pháp
luật đó được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật bao gồm: Hiến pháp, Luật
bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Đất đai, Luật Khiếu nại tố
cáo, Luật Phòng chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn... Các văn bản pháp luật này nhằm thể chế hoá, cụ thể hoá
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trên các lĩnh vực đời
sống xã hội diễn ra ở cơ sở.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản pháp luật
quy định cụ thể những việc Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp xã


19

phường phải thông tin kịp thời và công khai để biết, những việc dân bàn và
quyết định trực tiếp, những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan
Nhà nước quyết định, những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình thông qua 2 hình thức chủ yếu là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
b) Khái niệm về thực hiện pháp luật và chất lượng thực hiện pháp luật
ở xã phường, thị trấn.
- Thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá
trình thực hiện pháp luật được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật của nhà nước.Về phương diện lý luận, thực hiện
pháp luật là một khái niệm pháp lý, song hiện đang có nhiều khái niệm về nội
dung này:

+ Theo Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học
Luật Hà Nội, "thực hiện pháp luật được quan niệm là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [64, tr.463].
+ Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa
Luật-Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, "thực hiện pháp luật là hiện tượng,
quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt
động thực tế của các chủ thể pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân).
+ Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Viện
Nhà nước và pháp luật- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, "thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp
lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật [31, tr.270].
Nhìn chung các định nghĩa nêu trên đều có nội hàm tương đối giống
nhau, theo đó, thực hiện pháp luật là việc làm có mục đích nhằm thực hiện


20

những yêu cầu của pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành
hiện thực trong cuộc sống.

`

Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, có lý trí
và có ý chí của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật đi
vào cuộc sống tạo ra những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật. Nói cách khác, khi nào các thành viên xã hội hoạt động trên cơ sở pháp
luật và hành vi của họ phù hợp với những đòi hỏi của pháp luật thì pháp luật
đã được thực hiện và các mục đích điều chỉnh pháp luật khi ấy mới đạt được.

Thực hiện pháp luật có thể được tiến hành thông qua các hình thức như tuân
thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Mỗi loại chủ thể pháp luật có cách thức thực hiện pháp luật khác nhau.
Đối với cá nhân, tổ chức không có thẩm quyền thì thực hiện pháp luật chủ yếu
dưới các hình thức tuân thủ, thi hành, sử dụng pháp luật; đối với các cơ quan
nhà nước và những người có chức vụ, quyền hạn thì thực hiện pháp luật
thường là dưới hình thức áp dụng pháp luật.
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân và có vị trí tối cao trong cách ứng xử của cả công dân các tổ
chức và Nhà nước. Song mục đích đó có đạt được hay không, pháp luật có
triển khai thực hiện trong thực tế cuộc sống hay không phụ thuộc vào chất
lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật của các chủ thể.
- Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của
con người phù hợp với những quy định của pháp luật. Thực hiện pháp luật là
một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi
vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật.Chủ thể pháp luật có thể là cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức.


21

Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn là hoạt động
có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở
cấp xã đi vào cuộc sống nhằm mở rộng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã được thực hiện theo nguyên
tắc: đảm bảo trật tự kỷ cương, đảm bảo quyền của nhân dân được biết, được

bàn, được tham gia ý kiến, quyết định, thực hiện và giám sát việc thực hiện
dân chủ ở cấp xã. bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân; công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp
xã; đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân chủ
ở xã, phường chủ yếu là tập trung thực hiện những nội dung quy định của
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11) được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 04
năm 2007. Chủ thể của việc thực hiện pháp luật dân chủ là nhân dân và các tổ
chức, đơn vị ở cấp xã.
- Chất lượng thực hiện Pháp luật dân chủ ở cấp xã.
Theo từ điển Tiếng việt: Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị
của một sự vật, sự việc, một khái niệm. Xét về mặt từ nguyên, Chất lượng chỉ
tính quy định bản chất cũng như đặc điểm và tính cách vốn có của sự vật,
khiến cho sự vật có giá trị riêng biệt. Chất lượng thường dùng để đối lại với
số lượng, đây là hai mặt đối lập có quan hệ biện chứng với nhau trong một sự
vật, hiện tượng. Chất lượng của sự vật, hiện tượng biểu thị trình độ phát triển
của nó; chất lượng càng cao thì mức độ phát triển và hoàn thiện của sự vật
càng lớn.
Chất lượng thực hiện pháp luật là khả năng của chủ thể pháp luật thực
hiện những quy định của pháp luật nhằm làm cho các quy định của pháp luật


22

trở thành hiện thực trong cuộc sống. Chủ thể thực hiện pháp luật khác nhau
thì năng lực thực hiện pháp luật khác nhau. Về phương diện pháp lý, chất
lượng thực hiện pháp luật đồng nhất với năng lực hành vi, tức là khả năng của
chủ thể bằng chính hành vi của mình để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp
lý. Tuy nhiên, từ quan niệm về chất lượng như trên thì khái niệm chất lượng
thực hiện pháp luật có nội hàm rộng hơn nhiều, thể hiện cả một quá trình từ

tư duy, nhận thức và tổ chức thực tiễn hết sức phức tạp, và do đó, khi nghiên
cứu chất lượng thực hiện pháp luật phải chú ý đầy đủ, toàn diện đến tất cả các
yếu tố xuất hiện trong toàn bộ quá trình đó.
Chất lượng thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau. Cùng nội dung pháp luật dân
chủ ở cấp xã, cùng triển khai thực hiện ở một thời điểm nhưng có nơi thực
hiện tốt, có hiệu quả nhưng có nơi lại không triển khai được, pháp luật dân
chủ chưa thực sự đi vào cuộc sống, dẫn đến tình trạng người dân thờ ơ, nghi
ngờ và thiếu niềm tin vào tính khả thi của những quy định của pháp luật.
Ngay trong nhận thức, quan niệm về dân chủ ở cơ sở đã có nhiều cách tiếp
cận và nhận thức khác nhau, do đó dẫn đến những kết quả khác nhau. Vì vậy,
vấn đề mấu chốt để thực hiện một cách chất lượng, có hiệu quả pháp luật dân
chủ ở cơ sở là sự thống nhất về nhận thức, thấy rõ tính khoa học, cùng những
tính chất toàn diện, hệ thống biện chứng về vấn đề dân chủ đối với từng cán
bộ, mỗi người dân ở cơ sở.
Pháp luật dân chủ ở xã thể hiện một cách nhìn đúng đắn chủ trương
chính sách hướng về cơ sở của Đảng và Nhà nước, là một bước đột phá quan
trọng trong việc thể chế hóa quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở góp phần quan trọng vào việc tăng cường
mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và nhân dân ngày càng mật thiết đồng
thời cũng là điều kiện để tập hợp, đoàn kết đông đảo các lực lượng nhân dân


23

tham gia công việc quản lý Nhà nước, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị
cơ sở trong sạch vững mạnh.
Từ khái niệm thực hiện dân chủ ở cấp xã và những phân tích về chất
lượng thực hiện pháp luật, chúng ta có thể đưa ra khái niệm chất lượng thực
hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã như sau:

Chất lượng thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã là chất lượng thực
hiện các nội dung của pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn, được xem
xét, đánh giá dựa trên những tiêu chí cụ thể thông qua những kết quả đạt
được trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở cơ sở, ở mức độ
mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
1.1.2 Đặc điểm của việc thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã.
Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn là thực hiện hiện
quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường. Vì vậy, chủ thể, phạm vi, nội dung
và hình thức thực hiện có sự khác biệt so với thực hiện pháp luật trong các
lĩnh vực, các ngành luật khác.
Chủ thể của thực hiện pháp luật dân chủ ở cấp xã trước hết là chính
quyền cơ sở, các tổ chức chính trị xã hội ở xã và các cơ quan Nhà nước có
liên quan đến việc thực hiện quyền dân chủ ở xã, các công dân sinh sống trên
địa bàn xã.
Phạm vi thực hiện pháp luật được triển khai trên địa bàn từng xã,
phường cụ thể với những nội dung phát sinh trong việc bảo đảm thực hiện
đúng phương châm dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra trong hoạt
động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và tổ chức đời sống của cộng đồng
dân cư. Phạm vi thực hiện pháp luật dân chủ ở xã diễn ra giữa các chủ thể mà
một bên bao giờ cũng là công dân sinh sống trong một đơn vị hành chính lãnh
thổ hoặc đơn vị quần cư nhỏ nhất. Chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ
thể trong thực hiện pháp luật dân chủ ở xã vừa mang tính chất quản lý hành


24

chính, vừa mang tính chất tự quản. Tính chất, mức độ của các chế tài xử phạt
trong thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường, thị trấn chỉ mang tính chất
định tính chứ chưa mang tính chất định lượng.
Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã vô cùng rộng lớn, có liên

quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân trên các lĩnh vực khác nhau
của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, được thực hiện theo phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”, trong đó các việc biết, bàn, làm kiểm
tra có mối quan hệ chặt chẽ và chất lượng thực hiện nội dung này ảnh hưởng
trực tiếp, quyết định đối với các nội dung khác.
1.1.3. Các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã.
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các
hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống.
Do các quy định của pháp luật rất phong phú nên cũng có nhiều hình thức
thực hiện pháp luật khác nhau.
Căn cứ vào tính chất hoạt động thực hiện pháp luật, có thể xác định
thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong đó, thi hành pháp luật là
một hình thức thực hiện pháp luật mà chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Sử dụng pháp luật là
hình thức trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình là
những hành vi mà pháp luật cho phép. Ở hình thức này, các chủ thể pháp luật
có thể thực hiện hay không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý
chí của mình.
Như vậy, thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường được sử dụng
chủ yếu ở hình thức sử dụng pháp luật (đối với chủ thể là công dân) và thi
hành pháp luật (đối với chủ thể là chính quyền và các tổ chức chính trị, xã hội
ở cơ sở). Nếu xem xét việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường chính


25

là việc thực hiện quyền dân chủ ở xã, phường thì thực hiện quyền dân chủ
được thể hiện ở 2 hình thức là dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ đại diện theo nghĩa rộng là việc nhân dân thực hiện quyền làm

chủ của mình thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện. Các cơ quan, tổ chức
đại diện cho quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân bao gồm: Quốc hội
Hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị xã
hội, tổ chức xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ quan tổ chức đại diện cho nhân dân là
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội. Dân chủ đại
diện thể hiện tập trung và thống nhất quyền lực của nhân dân, tạo ra những
điều kiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Dân chủ đại diện ở cơ sở
được thực hiện thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân và các tổ chức xã
hội chủ yếu bằng các phương thức chủ yếu là: thông qua hoạt động của Đại
biểu Hội đồng nhân dân. Đại biểu HĐND ở cơ sở là những người do cử tri
bầu ra, đại diện cho lợi ích và nguyện vọng của cử tri. Trên cơ sở nắm bắt tâm
tư, nguyện vọng, tìm hiểu những vấn đề mà cử tri quan tâm, căn cứ vào quy
định của pháp luật, đại biểu HĐND sẽ tham gia xây dựng Nghị quyết của
HĐND nhằm quyết định những chủ trương, giải pháp phù hợp với các quy
định của pháp luật. Chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND quyết định hiệu
quả đại diện của HĐND.
Dân chủ đại diện còn được thực hiện thông qua việc HĐND thực hiện
các chức năng của HĐND như ban hành Nghị quyết nhằm tổ chức thực hiện
pháp luật và giải quyết những vấn đề quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống chính trị xã hội ở cơ sở phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
thông qua việc HĐND giám sát hoạt động của UBND. Dân chủ đại diện cũng
được thực hiện thông qua hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội như
Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân... Đây là
những tổ chức quần chúng theo giai cấp, giới tính, nghề nghiệp, sở thích nhằm


×