Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Những vấn đề hiện nay về vốn ở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.87 KB, 34 trang )

1. NHỮNG VẤN ĐỀ HIỆN NAY VỀ KINH TẾ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN
1.1.Đầu tư vượt quá khả năng tích luỹ của nền kinh tế
Nguồn hình thành vốn đầu tư trong nước hay tiết kiệm trong nước gồm tiết kiệm
hộ gia đình, tiết kiệm doanh nghiệp, tiết kiệm chính phủ.
1.1.1. Tiết kiệm chính phủ: tiết kiệm từ ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước ở các nước đang phát triển do phải chi nhiều cho đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng công cộng, hỗ trợ người dân do đó thường “thu không
bù đủ chi”.
 Giải pháp:
- Tăng thuế do thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước bằng cách :
điều chỉnh thuế suất hợp lý, tuỳ theo từng loại hàng hoá, tăng lên nhiều loại
thuế, phân cấp thu thuế theo quy mô và hiệu quả hoạt động.
- Chi ngân sách hợp lí và quản lí tốt hiệu quả chi ngân sách( quản lí theo kết
quả) cấp phát vốn từ ngân sách đến địa phương theo quy mô đối tượng.
- Giảm cấp ngân sách tăng cường cho vay vốn
- Đầu tư từ ngân sách đúng trọng tâm
Chủ động tìm nguồn vốn cho đầu tư phát triển không phụ thuộc vào ngân
sách nhà nước.
Quản lí khống chế chỉ ở mức 30% dưới hình thức cấp phát.
1.1.2. Tiết kiệm doanh nghiệp:
Tiết kiệm của doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát triển hầu hết đều
tương đối nhỏ do quy mô và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp chưa cao,
ít áp lực và động lực kinh doanh.
Tương tự với các doanh nghiệp nhà nước so với doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp Nhà nước thường được cho là kém hiệu quả hơn, lợi nhuận thấp hơn.
Doanh nghiệp Nhà nước thường phải gồng gánh một số trách nhiệm xã hội, hoạt
động vì lợi ích của người dân, được thành lập để đối phó với những thất bại của
thị trường. Điều đó dẫn đến việc các Doanh nghiệp Nhà nước không hướng đến
và cũng không cần cố gắng tối đa hóa lợi nhuận, hoạt động không mang lại lợi
nhuận cao, tích luỹ và tiết kiệm thấp


Tiết kiệm doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận doanh nghiệp (Pr), quỹ khấu hao
doanh nghiệp.


Lợi nhuận được cho là phần tiết kiệm là doanh thu của doanh nghiệp sau khi trừ
các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
 Giải pháp:
Để tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp:
- Tạo ra “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân tránh để tình
trạng doanh nghiệp nhà nước lấn át doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp nhà nước không nên tham gia vào thị trường có tính cạnh
tranh cao
- Giải thể các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ yếu kém, bán hoặc chuyển sang
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
- Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiêp tư nhân: hỗ trợ họ
phát triển.
- Tạo cơ hội bỏ vốn, hỗ trợ bỏ vốn hiệu quả hơn, hoạt động dưới sự hỗ trợ của
nhà nước về vay vốn, công nghệ và luật pháp...
Tăng quỹ khấu hao doanh nghiệp bằng các quy định tỉ lệ khấu hao phù hợp,
tạo điều kiện để doanh nghiệp thay đổi máy móc thiết bị công nghệ cao hơn nhanh
hơn mang lại hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh.
1.1.3. Tiết kiệm hộ gia đình thấp:
Các nước đang phát triển có thu nhập người dân không cao dẫn đến phần tiền
chi cho tiết kiệm không nhiều vì vậy tiết kiệm hộ gia đình còn thấp. Cá nhân và gia
đình tiết kiệm vì 2 lí do: tiết kiệm để tránh rủi ro do nguy cơ thu nhập bị giảm bất
ngờ trong tương lai và tiết kiệm để tăng thu nhập tương lai do đầu tư một phần thu
nhập . Tuy nhiên người dân ở các nước đang phát triển có xu hướng giữ tiền tiết
kiệm để tránh rủi ro nhiều hơn là đầu tư kinh doanh hay gửi ngân hàng và cho vay.
Do đó, tiết kiệm hộ gia đình đã không cao, phần tiền nhàn rỗi lại lớn chưa được đẩy
vào thị trường để kinh doanh sinh lời. Các ngân hàng và doanh nghiệp khó tiếp cận

phần vốn tiết kiệm hộ gia đình này.
 Giải pháp:
- Cần tăng thu nhập được quyền chi của hộ gia đình: tăng cường giải quyết việc
làm, tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi, tạo việc làm thêm cho lao động.
- Giảm chi tiêu không cần thiết để tăng tiết kiệm.
- chuyển phần tiền tiết kiệm nhàn rỗi vào lưu thông:
+ khuyến khích người dân trực tiếp đầu tư kinh doanh : tạo môi trường thuận lợi và
cơ hội bỏ vốn đầu tư để nâng cao thu nhập người dân.
+ đầu tư gián tiếp qua việc gửi tiền vào các ngân hàng:


Có mức lãi suất hấp dẫn thu hút nguồn tiền, đa dạng hoá các mạng lưới tín dụng:
mạng lưới ngân hàng và các chi nhánh rộng khắp để người dân tiếp cận dễ dàng,
đơn giản các thủ tục nhận, gửi tiền và thanh toán, đa dạng hoá sản phẩm nhận gửi,
hình thức tín dụng.
1.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn:
Huy động vốn đầu tư từ nước ngoài ngày càng khó khăn. Các nước đang phát
triển cần nhiều vốn để thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Tuy nhiên do bất ổn kinh tế
toàn cầu và lạm phát ở các nước đang phát triển cao nên đầu tư trực tiếp chững lại,
đầu tư gián tiếp nhỏ giọt. Ngoài ra do trở ngại về môi trường đầu tư như chi phí bôi
trơn, thủ tục rườm rà, khung pháp lí chưa chặt chẽ... dẫn đến lượng vốn đầu tư ít và
chưa chú trọng và có các chính sách tốt để thu hút huy động vốn chưa đáp ứng nhu
cầu cao về vốn của các nước đang phát triển.
 Giải pháp:
Tăng số lượng và chất lượng nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI:
- Có các chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài khuyến khích
thu hút FDI liên doanh, xoá bỏ FDI 100% vốn nước ngoài. Liên kết với
doang nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước
- Có các chính sách nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng dòng vốn FDI
chọn các dự án có FDI công nghệ cao,công nghệ sạch,loại trừ các dự án công

nghệ thấp gây tổn hại đến môi trường; tăng cường dự án FDI chế tạo giảm
FDI gia công...
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ trọng đầu tư
nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp và nông thôn,
điện, nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; các ngành sản xuất
có yếu tố hàm lượng công nghệ, đào lạo lao động và chuyển giao công nghệ. Hỗ trợ
các hoạt động đầu tư có hiệu quả, đồng thời giảm thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực
như nhập khẩu nhiều nhưng không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia
công, lắp ráp và khai thác thị trường nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính
sách, pháp luật để thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp để
chuyển lợi nhuận về nước, không có đóng góp hoặc đóng góp rất thấp nguồn ngân
sách nhà nước. Không tiếp nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án sử dụng công
nghệ thấp, có khả năng tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, sinh
thái.
- Có chính sách chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả thu hút và nâng cao chất
lượng đầu tư, tận dụng tối đa nguồn FDI để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh


tế theo hướng hiện đại và hiệu quả, thực hiện nâng cao chất lượng tăng
trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
- Có các chính sách, quy định về thuế, phí, đất đai, quản lý ngoại hối... để thu
hút, khuyến khích đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực sản xuất, chế biến sử dụng
đầu vào trong nước thay vì nhập khẩu, gia công, lắp ráp, chú trọng vào kinh
doanh thương mại, nhất là tại thị trường nội địa. Tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài vào các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tạo môi trường đầu
tư thuận lợi, giảm chi phí bôi trơn để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài hiệu quả, ổn định hơn
Sử dụng nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA:
- Nguồn vốn này giải quyết được vấn đề thiếu vốn cho các nước đang phát
triển nhưng lại tạo ra sự phụ thuộc về chính trị. Dòng vốn cần được sử dụng

hiệu quả hơn và giảm sự phụ thuộc vào bên cung viện trợ.
- Cách cấp ODA hiệu quả: theo chương trình đầu tư và đánh giá theo kết quả
thực hiện

1.3.Đầu tư dàn trải theo chiều rộng.
Đối với các quốc gia đang phát triển, huy động được vốn đầu tư là một vấn đề
khó, tuy nhiên sử dụng vốn đầu tư như thế nào cho hiệu quả mới thực sự là vấn đề
nan giải. Có một thực tế rằng vốn đầu tư ở các nước đang phát triển đang bị dàn trải
ra quá nhiều, đầu tư chủ yếu theo chiều rộng, hiệu quả đầu tư chưa thực sự được
phát huy tối đa.
Đầu tư dàn trải là triển khai quá nhiều dự án trong một thời kỳ, vì thế mà năng lực
quản lý và khả năng tài chính khó có thể đáp ứng, việc nghiên cứu triển khai các dự
án mới thường sơ sài và không tính toán kỹ lưỡng hiệu quả đầu tư. Ở các nước
đang phát triển, khi nhận được nguồn vốn đầu tư thì luôn tồn tại suy nghĩ rằng làm
thế nào để mở rộng quy mô sản xuất một cách nhanh nhất, làm thế nào có thể tạo ra
nhiều công ăn việc làm nhất… Bởi thế mà nguồn vốn không được phân bổ hiệu
quả, gây ra tình trạng thất thoát vốn, hậu quả là nhiều công trình, dự án dở dang
hoặc chậm tiến độ thi công, gây lãng phí cực lớn.
Giải pháp:
-Hạn chế đầu tư dàn trải, tập trung đầu tư theo chiều sâu để gia tăng năng lực sản
xuất.
-Cần đánh giá lại hiệu quả đầu tư các dự án, những dự án đầu tư không hiệu quả
cần kiên quyết cắt bỏ để thu hồi vốn dù thua lỗ để tập trung cho những dự án cốt
lõi.


-Thẩm định kỹ lưỡng các dự án trước khi quyết định đầu tư, ưu tiên các dự án quan
trọng và có nhiều khả năng mang lại hiệu quả kinh tế cao.
1.4.Nợ nước ngoài của Chính phủ cao và có rủi ro vỡ nợ.
 Một số khái niệm cơ bản:

-Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF thì nợ nước ngoài là tổng số nợ nước
ngoài tại một thời điểm, là số dư của các khoản nợ thực tế , không tính đến nghĩa
vụ dự phòng.
Nợ quốc gia là toàn bộ các khoản vay nợ nước ngoài cho các hoạt động kinh tế xã
hội của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Nợ quốc gia
có xuất xứ từ các nguồn vay như ODA, vay thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài, vay thương mại, vay của các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ và
vay thông qua trái phiếu.
Theo khái niệm thống nhất giữa Ngân hàng thanh toán Quốc tế, IMF, OECD, WB
thì: tổng nợ nước ngoài là lượng vốn được giải ngân và những nghĩa vụ thanh toán
nợ gốc, có hoặc không có lãi, có hoặc không có thanh toán nợ gốc theo hợp đồng
còn tồn lại của những người thường trú tại một nước đối với những người không
thường trú, tại một thời điểm bất kỳ.
 Thực trạng nợ nước ngoài tại các nước đang phát triển:
Quy mô nợ nước ngoài tại các nước đang phát triển không ngừng gia tăng qua từng
thời kỳ.
a, Giai đoạn từ 1980-2000:
Bảng: Quy mô khủng hoảng nợ của các nước chậm phát triển giai đoạn 1970-1989
Chỉ
tiêu
Tổng
số nợ
(tỷ $)
Tỷ lệ
nợ/XK
Tỷ lệ
trả
nợ /
XK
Tỷ lệ

nợ/
GDP

1970

1980

1981

1982

1983

1984

1985

1986

1987

1988

1989

68,4

635,8

747,7


846,6

897,0

942,0

1016,6

1099,0

1194,8

1228,9

1262,8

99,4

89,1

95,0

119,8

133,4

132,9

148,8


167,8

156,6

147,6

139,0

13,5

13,2

15,6

18,9

17,8

19,2

20,3

21,9

19,1

19,3

17,5


13,3

24,4

27,9

31,3

33,2

34,1

36,6

38,1

38,4

36,2

34,5

Nguồn: Micheal Todaro – Kinh tế học cho thế giới thứ ba

Trong 20 năm, từ 1970 đến 1989, nợ nước ngoài của các nước đang phát triển tăng
1846% (từ 68,4 tỷ USD lên 1263 tỷ USD), nhất là giai đoạn từ năm 1970 đến 1980
với tốc độ tăng rất nhanh, gần 1000% chỉ trong 10 năm. Các chỉ tiêu tỷ lệ nợ/xuất



khẩu, tỷ lệ trả nợ/xuất khẩu và tỷ lệ nợ/GDP cũng tăng lên nhanh chóng qua các
năm và đạt đỉnh vào giữa những năm 1980. Trong đó, đa phần nợ tập trung vào 4
nước thuộc khu vực Châu Mỹ La tinh bao gồm Brazil (114,5 tỷ USD), Mê-hi-cô
(105 tỷ USD), Ac-hen-ti-na (49,4 tỷ USD) và Vê-nê-zue-la (33,9 tỷ USD) trong
tổng số nợ 485 tỷ USD của 17 nước nợ nhiều nhất thế giới năm 1987. Đến năm
2000, tổng số nợ nước ngoài từ vay mới và từ lãi mẹ đẻ lãi con của các nước Mỹ La
tinh đã lên đến 739 tỷ USD, tăng 650 tỷ USD so với 40 năm trước đó. Chỉ tính
riêng số tiền các quốc gia con nợ này phải bỏ ra để trả lãi và khấu hao cơ bản của
món nợ khổng lồ nói trên cũng đã tốn mất hơn một nửa ngân sách mỗi năm.
Tại các quốc gia Đông Nam Á cũng có nhiều quốc gia đang sống dở chết dở vì nợ
nước ngoài. Bước sanh những năm đầu tiên của Thiên niên kỷ thứ 3, nợ nước ngoài
của Indonesia đã đạt con số 150 tỷ USD và nước này trở thành một trong 4 con nợ
lớn nhất thế giới sau Mê-hi-cô, Brazil và Ac-hen-ti-na. Năm 1999, Indonesia đã
phải dùng đến hơn 50% thu nhập từ xuất khẩu để trả lãi và khấu hao nợ hàng năm.
Philipine ngay từ tháng 10-1983 đã phải tuyên bố không thể tiếp tục trả lãi suất và
khấu hao nợ hàng năm của món nợ nước ngoài 24 tỷ USD nhằm tìm kiếm một sự
thỏa hiệp từ các ngân hàng phương Tây.
b, Giai đoạn 2000 đến nay:
Trong giai đoạn 2000-2009, các chỉ số nợ nước ngoài ( tỷ lệ nợ/xuất khẩu, tỷ lệ trả
nợ/xuất khẩu và tỷ lên nợ /GDP) được cải thiện đáng kể từ đầu thập kỷ đến năm
2008. Lợi nhuận từ xuất khẩu tăng nhanh chóng nhờ vào khối lượng xuất khẩu tăng
và giá cả hàng hòa thương mại quốc tế tăng cao cho tới cuối năm 2008. Sự xoay
chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế từ nợ thành tài sản có và sự xóa nợ đáng kể đối với
các nước thu nhập thấp là các nhân tố quan trọng trong việc giảm gánh nợ nước
ngoài của các nước đang phát triển. Từ năm 2000-2008, tỷ lệ nợ/xuất khẩu giảm
hơn một nửa, từ 124,8% xuống còn 58,4%; tỷ lệ nợ/GNI giảm từ 37,8% xuống
20,6%. Tuy nhiên xu hướng này bắt đầu thay đổi vào năm 2009khi tốc độ tăng
trưởng giảm và thu nhập từ xuất khẩu giảm mạnh trong hầu hết các nước đang phát
triển do sự ảnh hưởng của nền kinh tế toàn cầu và cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới lúc này. Thu nhập từ xuất khẩu năm 2009 giảm gần 20% so với năm 2008,

cùng với việc gia tăng nợ nước ngoài của các nước này đã đẩy tỷ lệ nợ/xuất khẩu
lên 74,6%, mức cao nhất từ năm 2005. Tỷ lệ trả nợ /xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng
tương tự , tăng từ 9,2% năm 2008 lên 11,3% năm 2009. Ít thấy có sự thay đổi tỷ lệ
nợ/GNI nhưng nó cũng tăng lên năm 2009.
Bảng: chỉ số nợ cho các nhóm nước (%) giai đoạn 2000-2009
Tỷ lệ nợ/GNI
Tỷ lệ nợ/xuất khẩu


Khu vực
Đông Á và Thái Bình Dương

2000
29,6

2008
12,9

2009
13,2

2000
78,1

2008
30,9

2009
39


Châu Âu và Trung Á

52,9

35,1

44,7

140,2

91,6

131,8

Mỹ La tinh và Caribbean

38,3

21,5

23,7

169,6

85,2

111,4

Trung Đông và Bắc Á


38,4

14,9

15,4

118,4

33,9

37,4

Nam Á

26,7

20,8

20,7

181,5

87,4

104,4

Hạ Saharan Châu Phi

66,0


21,4

22,9

185,2

49,0

66,4

Nguồn: World Bank Debtor Reporting System and IMF.

Sự tăng lên của tỷ lệ nợ là khác nhau giữa từng khu vực. Khu vực Đông Á và Thái
Bình Dương và Trung Đông và Bắc Á có tỷ lệ nợ nước ngoài thấp nhất ở cả hai chỉ
tiêu là nợ/GNI và nợ/xuất khẩu. Năm 2009, các nhóm nước này trải qua sự tăng nhẹ
trong hai chỉ tiêu nợ. Ngược lại, Châu Âu và Trung Á là khu vực tăng tỷ lệ nợ/GNI
cao nhất, từ 35,1% năm 2008 lên 44,7% năm 2009, gấp 3 lần tỷ lệ của khu vực
Đông Á và Thái Bình Dương và gấp 2 lần tỷ lệ của khu vực Mỹ La tinh và
Caribbean. Tỷ lệ nợ/xuất khẩu của khu vực này cũng cao nhất với 131,8% năm
2009.
Cuối năm 2010, tổng trữ lượng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển đã tăng
lên mức 4000 tỷ USD.Nợ ngắn hạn là thành phần có mức tăng nhanh nhất, tăng
34% trong năm 2010 so với mức tăng 6% của trữ lượng nợ nước ngoài dài hạn
đang lưu hành và hầu hết các khoản nợ ngắn hạn là nợ thương mại. Trữ lượng nợ
của các nước đang phát triển vẫn còn ở mức vừa phải, trung bình 21% tổng thu
nhập quốc dân (GNI) và 69% kim ngạch xuất khẩu, và các rủi ro liên quan xuất
phát từ các khoản nợ ngắn hạn chiếm 25% trữ lượng nợ vào cuối năm 2010 cũng đã
được giảm nhẹ nhờ các khoản dự trữ quốc tế. Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đã lấy đi một phần dự trữ quốc tế của một số nước đang phát triển nhưng,
xét tổng thể, các nước đang phát triển vẫn được ghi nhận là đã tích luỹ được các

khoản dự trữ đáng kể từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra: tương đương 137% trữ lượng
nợ nước ngoài vào cuối năm 2010.
Bảng: trữ lượng nợ nước ngoài (NNN) của các nước đang phát triển và các hệ số
chọn lọc, 2005-2010. (tỷ USD)
2005
2006
2007
2008
2009
2010


Tổng NNN đang
hành
-Nợ dài hạn
-Nợ ngắn hạn
Các hệ số
-NNN đang lưu hành
trên GNI(%)
-Dự trữ NNN so
với xuất khẩu(%)
-Dự trữ với NNN
đang lưu hành(%)
-Nợ ngắn hạn so
với nhập khẩu(%)

2514,0 2675,4

3220,4 3499,2


2013,2 2081,6
500,8
593,8

2456,4
764,0

2739,7
759,5

26,6

23,9

23,2

21,0

75,9

66,1

65,6

59,3

78,7
15,3

97,8

15,2

3639,6

4076,0 lưu

2866,4 3039,6
773,2 1036,4
22,4

21

77,0

68,7

114,9

118,7

132,9

137,1

16,0

13,0

16,2


17,2

Nguồn: Hệ thống Báo cáo Nợ của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế

 Rủi ro vỡ nợ tại các nước đang phát triển:
Trong suốt ba thập kỷ qua, thế giới đã chứng kiến nhiều nước đang phát triển lâm
vào tình trạng vỡ nợ. tình trạng vỡ nợ xảy ra từ châu lục nghèo nhất là Châu Phi
đến Châu Á, đến Châu Mỹ La tinh và cả Châu Âu. Khi gánh nặng nợ đến hạn tăng
lên vượt ngưỡng an toàn và khi khả năng trả nợ yếu đi, các quốc gia sẽ phải đối mặt
với một số vấn đề nan giải cũng như sự đánh đổi. Các quốc gia sẽ phải tiếp tục tăng
thuế hoặc cắt giảm chi tiêu để trả nợ ? Những nỗ lực đàm phán lại về điều khoản
vay vốn sẽ dừng lại ở đâu và đến giới hạn nào thì phải tuyên bố vỡ nợ hoàn toàn?
Vỡ nợ không chỉ là vấn đề hay gặp phải ở các công ty tư nhân, mà còn diễn ra ở các
định chế công, nhất là các DNNN. Vỡ nợ không chỉ giới hạn ở các nước đang phát
triển mà còn xảy ra đối với cả các nước phát triển, khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
là một minh chứng cho vỡ nợ ở các nước phát triển. Vỡ nợ xảy ra thường xuyên ở
các nước thuộc khu vực Châu Mỹ La tinh, Châu Á trong suốt thế kỷ XX cũng như
đầu thế kỷ XXI.
 Những giải pháp mà các nước đang phát triển sử dụng trong xử lý nợ
nước ngoài:
-Các quốc gia con nợ nhóm họp lại với nhau và đứng trước 2 sự lựa chọn: cắt
giảm nhập khẩu và áp dụng các biện pháp thắt chặt tài khoa và tiền tệ, do đó cản trở
những mục tiêu tăng trưởng và phát triển, hoặc họ có thể tài trợ cho những thâm hụt
tài khoản vãng lai đang lớn dần bằng cách vay thêm nợ nước ngoài. Lựa chon cắt
giảm tăng trưởng không thể thực hiện, vì vậy các quốc gia lại tiếp tục vay nợ nước
ngoài và hậu quả là món nợ ngày càng khổng lồ.
-Giải pháp thứ hai là các nước đang phát triển tiến hành đàm phán với các quốc gia
cho vay về các vấn đề:



+Hạ mức lãi suất đối với các khoản vay cũ và những khoản nợ mới trong tương lai.
+Thời hạn hoàn trả vốn cần được kéo dài thêm để giúp giảm bớt gánh nặng trả lãi
suất hàng năm cho các con nợ.
+Nới lỏng giới hạn tối đa cho việc sử dụng bao nhiêu phần trăm thu nhập từ xuất
khẩu để trả nợ. Các quốc gia con nợ không thể sử dụng đến 80% thu nhập từ xuất
khẩu để trả nợ vì nếu tiếp tục như vậy, họ sẽ không còn tiền để nhập khẩu máy móc
và công nghệ cần thiết cho tiến trình công nghiệp hóa trong nước.
-Giải pháp thứ ba của các nước này là cầu cứu đến các thiết chế tài chính như Ngân
hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Hoa Kỳ và chấp nhận
những điều kiện ràng buộc của nó.
Trong thực tế, những giải pháp cấp cứu nói trên đã đem lại lợi nhuận lớn hơn cho
các tổ chức tài chính quốc tế cũng như Ngân hàng Hoa Kỳ, và tạo điều kiện cho họ
kiểm soát chặt chẽ hơn các quốc gia con nợ. Cụ thể, các ngân hàng phương Tây đã
thiết lập được sự giám sát chặt chẽ lên các báo cáo quyết toán tài chính của các
quốc gia con nợ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF có thể thanh tra sổ sách của các quốc gia
con nợ bất kỳ lúc nào mà không gặp trở ngại gì. Kế hoạch phân bổ ngân sách và
các chương trình phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia con nợ phải do IMF phê
duyệt mới được thực hiện.
2. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.

Đầu tư vượt quá khả năng tích luỹ của nền kinh tế

Nhu cầu đầu tư lớn dẫn đến tình trạng đầu tư vượt xa khả năng tích lũy của
nền kinh tế, thâm hụt ngân sách luôn ở mức cao. Để bù đắp phần thiếu hụt phải
trông cậy vào đầu tư nước ngoài và vay nợ nước ngoài. Thực tế này đã làm cho nợ
quốc gia và nợ công nước ngoài tăng nhanh trong những năm vừa qua, mặc dù vẫn
trong ngưỡng an toàn nhưng cũng đến lúc phải thận trọng.
Tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn mà không chú trọng đến thay đổi quy trình
công nghệ, khi sử dụng nguồn vốn không hiệu quả sẽ gây ra lạm phát. Bên cạnh đó,

khi tăng trưởng dựa vào vốn mà các doanh nghiệp không tiếp cận được vốn do thắt
chặt tiền tệ và lãi suất của hệ thống ngân hàng dẫn đến suy giảm mạnh về tổng
cung, giảm thu nhập của người dân và lại tiếp tục ảnh hưởng ngược đến cầu. Suy
giảm tổng cầu làm trầm trọng hơn đến phía cung và nền kinh tế dường như rơi vào
vòng xoáy của lạm phát - suy trầm hoặc vừa lạm phát vừa suy trầm.
Thâm hụt cán cân thương mại, nhập siêu ở mức cao và trở thành căn bệnh
kinh niên của nền kinh tế. Lạm phát cao, nhập siêu lớn là nguyên nhân cơ bản làm
mất giá đồng Việt Nam, suy giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia và làm giảm lòng tin của


người dân vào VND, tạo cơ hội cho đầu cơ, găm giữ, buôn lậu, buôn bán trái phép
ngoại tệ và vàng. Tới tháng 4/2011, các nước lân cận lạm phát đều không quá 5 –
6%, còn Việt Nam thì lên đến gần 18% so với cùng kỳ.
Nguyên nhân chính gây ra thâm hụt thương mại đó là tiết kiệm ròng của Việt
Nam đang ở mức âm rất lớn. Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 do Ủy ban Kinh tế của
Quốc hội thực hiện đã nêu rõ: Nếu giai đoạn 2001-2005, nhập siêu của VN trung
bình ở mức 9,1% GDP thì giai đoạn 5 năm tiếp theo (2006-2010), nhập siêu đã tăng
tới 14,7% GDP. Trong khi đó, Trung Quốc và các nước ASEAN như Indonesia,
Thái Lan hay Malaysia đều có thặng dư thương mại, thậm chí ở mức rất cao (như
Malaysia 22% GDP).
Năm 2011, nhập siêu đã có dấu hiệu suy giảm mạnh, chỉ còn 9,5 USD (so
với 12,6 tỉ năm 2010), chiếm 7,7% GDP (so với 11,9% năm 2010); tỉ lệ nhập
siêu/xuất khẩu chỉ còn 9,8%, dưới xa mức chỉ tiêu của Quốc hội là 16%.
Tuy nhiên, theo như phân tích, điều này chủ yếu là do thuận lợi giá, đặc biệt
là giá xuất khẩu, và vì thế, xu hướng giảm nhập siêu khó bền vững do rủi ro cú sốc
giá thế giới trong gian tới, nếu không có những cải thiện đáng kể về cơ cấu.

Nguồn: Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội thực hiện

Từ năm 1997-2000, xuất siêu, nhập siêu của VN luôn có sự chênh lệch khá

lớn


Trong khi đó, Báo cáo cho biết: Thực ra Việt Nam không phải là nước có tỉ
lệ tiết kiệm thấp. Theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - VASS (2011), tỉ lệ tiết
kiệm của Việt Nam còn cao hơn mức trung bình chung của các nước có thu nhập
thấp (khoảng 21%), các nước có thu nhập trung bình thấp (khoảng 23%) và bình
quân chung của thế giới (khoảng 25%). Do đó, thủ phạm chính là tỉ lệ đầu tư nội
địa ở mức quá cao.
Việt Nam đang duy trì tăng trưởng bằng cách dựa vào vốn đầu tư nhưng hiệu
quả đầu tư thấp. Vì vậy, tổng đầu tư toàn xã hội liên tục tăng và duy trì ở mức cao
để đạt mục tiêu về tăng trưởng.
Tỉ lệ vốn/GDP đã tăng từ 35,4% năm 2001 lên 41,9% năm 2010, bình quân
cho cả giai đoạn 2001-2010 là xấp xỉ 41%, trong đó giai đoạn 2006-2010 tỉ trọng
này là 42,9%, gấp đôi Malaysia và gấp rưỡi so với Indonesia và Thái Lan.
Tiết kiệm ròng nội địa bao gồm tiết kiệm ròng khu vực Chính phủ và tiết
kiệm ròng khu vực tư nhân (các hộ gia đình và doanh nghiệp - bao gồm cả DNNN).
Thâm hụt ngân sách (tiết kiệm ròng của Chính phủ mang dấu âm) ở mức cao và dai
dẳng trong thời gian dài để phục vụ cho mô hình tăng trưởng đã đóng góp lớn vào
tỉ lệ tiết kiệm nội địa thấp.
Tuy nhiên, đóng vai trò quan trọng không kém, và được “hỗ trợ” từ chính
sách vĩ mô và những vấn đề nội tại của khu vực tài chính ngân hàng (cũng là hệ quả
của mô hình tăng trưởng và cấu trúc kinh tế), là chênh lệch đầu tư - tiết kiệm (tiết
kiệm ròng âm) của khu vực tư nhân gia tăng cao.
Số liệu công bố về tiết kiệm ròng khu vực tư nhân không có sẵn, nhưng có
thể quan sát hành vi của hộ gia đình và khu vực doanh nghiệp trong các năm qua để
đánh giá.
Đối với khu vực hộ gia đình, do thị trường tài chính còn non trẻ, yếu kém,
chứa đựng nhiều rủi ro trong bối cảnh lạm phát và bất ổn vĩ mô gia tăng trong
những năm gần đây được coi là một nguyên nhân khiến tiết kiệm ròng của khu vực

này không lớn.
Đặc biệt từ năm 2007, khi Việt Nam đón nhận một nguồn vốn lớn từ nước
ngoài, nhưng Ngân hàng Trung ương chưa có kinh nghiệm trong trung hoà dòng
tiền tăng đột biến này đã dẫn đến lạm phát và bong bóng trên thị trường tài sản như
thị trường chứng khoán và bất động sản. Điều này đã kích thích tiêu dùng thái quá
đối với một bộ phận người tiêu dùng, đặc biệt ở khu vực thành thị.
Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp lại có mức đầu tư rất lớn so với tiết
kiệm - có thể nhìn thấy qua quy mô vay nợ tín dụng tăng cao trong những năm qua.
Báo cáo kết luận: Tỉ lệ tín dụng/huy động của Việt Nam ở mức rất cao so với
hầu hết các nước trong khu vực. Nguyên nhân của sự mất cân đối này không những


xuất phát từ các chính sách kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua nới lỏng tiền tệ
và tài khóa trong thời gian dài.
Những hành vi đầu tư thiếu thận trọng, “chụp giật”, dàn trải nhưng thiếu hiệu
quả của các doanh nghiệp khá phổ biến. Những doanh nghiệp như vậy lại có sự
“giúp sức” rất lớn của hệ thống ngân hàng yếu kém, thiếu giám sát vĩ mô và vi mô
hiệu quả, trong đó, nhiều ngân hàng nhỏ hoạt động với mục tiêu tăng trưởng nhanh
bằng cách tăng trưởng mạnh tín dụng, thậm chí là không kiểm soát và một cách dễ
dãi.
Báo cáo khuyến nghị: Nếu không thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu
nền kinh tế, trong đó có tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng thì tình trạng nhập
siêu và tiết kiệm ròng âm khó có thể giải quyết triệt để và bền vững.
Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ nguyên nhân: "Về khách
quan, do tác động tiêu cực của tình hình kinh tế thế giới; về chủ quan là do những
hạn chế, yếu kém vốn có của nền kinh tế, mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế
chậm được khắc phục, bị tích tụ nặng nề hơn trong những năm phải đối phó với
tình trạng suy giảm kinh tế và do một số hạn chế trong quản lý, điều hành của các
cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trong nhiều năm
qua, nước ta luôn phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao và kinh tế vĩ mô không

vững chắc, gay gắt hơn các nước trong khu vực."
Mặc dù Việt Nam đã bước vào ngưỡng đầu của các nước có mức thu nhập
trung bình, nhưng kết cấu cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn nhiều bất cập và yếu
kém. Tâm lý thỏa mãn lan tràn trong dân cư cũng như các nhà lãnh đạo; xung đột
quyền lợi của các nhóm người trong xã hội trỗi dậy, đan xen và ràng buộc lẫn nhau,
kìm hãm mọi quá trình cải cách trong nền kinh tế; tham ô, tham nhũng bóp méo
mọi quan hệ của đời sống kinh tế xã hội.
Trong những năm vừa qua khi lạm phát gia tăng, kinh tế vĩ mô có nhiều biểu
hiện không ổn định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chững lại, đầu tư nước ngoài
gián tiếp cũng nhỏ giọt. Sau khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới, mặc dù đã có
dấu hiệu hồi phục song các nền kinh tế lớn tăng trưởng còn chậm, không rõ nét và
còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, các luồng vốn đầu tư đang đổ dồn vào các nước Đông
Nam Á. Nhiều nước trong khu vực đang phải vất vả tìm mọi giải pháp để hấp thụ
các luồng vốn này một cách hiệu quả nhất, đồng bản tệ của họ liên tục lên giá.
Trong khi đó tại Việt Nam, các luồng vốn này hầu như im ắng và VND liên tục mất
giá. Ở những thời điểm nhất định trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam cũng đặt
vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát nhưng không nhất quán và nhiều
khi còn bị đánh đổi lấy các mục tiêu kinh tế khác. Điều này đã làm giảm lòng tin


của cộng đồng các nhà đầu tư, các nhà tài trợ vào môi trường đầu tư của Việt Nam.
Mức xếp hạng tín nhiệm đầu tư của Việt Nam bị giảm sút.
2.2. Huy động vốn đầu tư nước ngoài gặp nhiều khó khăn
2.2.1. Thực trạng thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Đó vừa là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, vừa là một cách để chuyển giao công
nghệ, cũng là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn
thu cho ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế… Tuy
nhiên, việc huy động nguồn vốn này đang ngày càng trở nên khó khăn. Nguồn vốn
nước ngoài vào Việt Nam được thể hiện dưới 04 hình thức chính: (1) Đầu tư trực

tiếp (FDI); (2) Đầu tư gián tiếp (FII); (3) Tín dụng quốc tế (chủ yếu thu hút qua
hình thức thu hút vốn ODA); (4) Nguồn kiều hối gửi về Việt Nam hàng năm.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI):
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn này, ngay từ năm 1987, Chính phủ
đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó, việc thu hút nguồn vốn
này đã đạt những thành tựu quan trọng.
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay, tình hình thu hút ban đầu có chiều hướng
giảm xuống rồi lại có những tiến triển tích cực. Cụ thể:
+ Năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt mục tiêu thu hút khoảng 20-21 tỷ USD
vốn FDI, nhưng kết quả là chỉ đạt 14,7 tỷ USD.
+ Năm 2012, mặc dù đã giảm mục tiêu thu hút xuống còn 15-17 tỷ USD, nhưng
tính đến hết tháng 11, Việt Nam mới thu hút được 12,181 tỷ USD, giảm 21,4% so
với cùng kỳ năm 2011.
+Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch - Đầu tư) công bố về thu hút (FDI) tại Việt
Nam: tổng vốn FDI chính xác vào Việt Nam năm 2013 là 22,35 tỉ USD, tăng 35,9%
so với năm 2012.
+Năm 2014, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng
ký đầu tư vào Việt Nam 20,23 tỷ USD; bằng 93,5% so với cùng kỳ năm 2013 và
tăng 19% so với kế hoạch năm 2014 (17 tỷ USD).
+Năm 2015, tính cả cấp mới và tăng vốn, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký
đầu tư vào Việt Nam 24,115 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ 2014 và tăng 9,6%
so với kế hoạch năm 2015 (22 tỷ USD).
+Tính đến ngày 20/03/2016, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải
ngân được 3,5 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2015.


Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII): Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá
trình cải cách và cổ phần hoá nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia
nhập WTO. Cổ phần hoá phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các
kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK)). Các mối quan hệ

kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt đối
với hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc tham gia của các nhà đầu tư FII
sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh
bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết
một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những giao động “phi thị trường”, góp phần
vào giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản
lý…).
Giai đoạn 2003 đến nay: Từ năm 2003, dòng vốn FII vào Việt Nam hồi phục, tăng
dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007. Báo cáo của Ngân hàng ANZ
cho biết, từ năm 2001-2006 vốn FII đạt khoảng 12 tỷ USD và năm 2007 đạt khoảng
5,7 tỷ USD. Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền kinh tế,
dòng vốn FII có dấu hiệu chững lại và một phần đã được rút ra. Từ cuối quý
II/2009, có sự đảo chiều và quay trở lại của vốn FII, nhưng không thật sự mạnh như
mong đợi. Trong năm 2010, nguồn vốn FII vào Việt Nam đạt 1,7 tỷ USD, năm
2011 đạt mức 1 tỷ USD.
Theo thống kê của ngân hàng HSBC, quý I/2012, có khoảng 500 triệu USD chảy
vào TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, sang quý II, thị trường lại có những biến chuyển
khác. Chỉ tính riêng trên sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh từ đầu năm đến nay,
dòng vốn FII đã âm hơn 4,9 triệu USD, trong khi đó, quý I/2012 khối này đã mua
ròng gần 43 triệu USD. Sự suy giảm của dòng vốn FII cũng chính là lý do TTCK
càng ngày càng ảm đạm trong những tháng qua.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức, là hình thức tín dụng quốc tế nhằm hỗ trợ các nước cải thiện môi trường
đầu tư hoặc cải thiện môi trường sống của quốc gia.
Lãi suất vay ODA thường thấp, bình quân từ 2-4%/năm so với lãi vay thương mại.
Nguồn vốn ODA vào Việt Nam gia tăng đáng kể ở cả 3 giác độ: cam kết, ký kết và
giải ngân. Trong đó, nguồn vốn dành cho nhà đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm 40% tổng
vốn ODA đã góp phần phát triển mạnh mẽ kinh tế Việt Nam.
Nguồn kiều hối gửi về Việt Nam hàng năm:
Ngày 12/09/1999, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 170/1999/QĐTTg khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về nước. Tiếp theo đó

từ đầu tháng 06/2006, Pháp lệnh Ngoại hối của Việt Nam bắt đầu có hiệu lực đã tác


động trực tiếp đến nguồn kiều hối, cụ thể là việc mở rộng đối tượng được vay vốn
nước ngoài, bao gồm cả cá nhân. Việt kiều có thể chuyển tiền về nước cho người
thân để đầu tư, kinh doanh dưới hình thức cho vay, cho mượn vốn kinh doanh.
Bên cạnh đó, lãi suất tiền gửi nội tệ cũng có sự chênh lệch khá cao so với lãi suất
ngoại tệ nên đã thúc đẩy kiều hối tăng. Ngoài ra, số lượng người đi xuất khẩu lao
động tăng lên hàng năm. Trong 02 năm 2010-2011, bình quân lượng kiều hối gửi
về Việt Nam theo đường chính thức thông qua hệ thống ngân hàng mỗi năm
khoảng 9 tỷ USD; riêng năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới và Việt Nam còn rất khó
khăn, lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn không giảm, dự kiến năm nay, kiều hối
trên 10 tỷ USD.
Như vậy, nếu tính từ năm 2006 đến nay, thì tổng lượng kiều hối gửi về Việt Nam
khoảng 55 tỷ USD. Đây là một lượng tiền rất lớn nằm trong dân cần khai thác, đưa
vào phục vụ đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Trong quá trình thu hút vốn đầu tư, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần phải khắc phục trong
thời gian tới, đó là:
Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa cao.
Trong công nghiệp – xây dựng, các dự án ĐTNN chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá
trị gia tăng thấp; có quá ít dự án về cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông – lâm –
ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt
Nam có thế mạnh. Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mô lớn còn cao song
nhiều trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vay vốn trong
nước. Đầu tư nước ngòai (ĐTNN) vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia
tăng cao, giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế.
ĐTNN hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, nguồn
nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng miền, không đạt được
mục tiêu hướng ĐTNN vào địa bàn khó khăn. Các Khu kĩ thuật, Khu công nghiệp, Khu công

nghệ cao không tạo ra lợi thế khác biệt cho từng địa phương và vùng lãnh thổ. Đối tác đầu tư
vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp nhỏ và
vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện mới chỉ thu hút được trên 100 trong tổng số 500 tập đoàn
xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký, chỉ
khoảng 47,2%.
Thứ hai, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn), chuyển
giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng


Trên 80% doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ trung bình của thế giới,
5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường hợp sử
dụng công nghệ lạc hậu. Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo chiều
ngang – giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình độ và
năng lực công nghệ. Do mặt bằng công nghệ sử dụng trong các dự án ĐTNN chưa
cao nên hiệu quả chuyển giao công nghệ theo chiều ngang còn hạn chế. Không ít
trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp,yếu kém trong quản
lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị lạc hậu gây ô nhiễm môi
trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển giao công nghệ. Công nghệ
thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu thực hiện việc gia công, một
số doanh nghiệp được coi là công nghệ cao nhưng những khâu sử dụng công nghệ
cao lại không thực hiện ở Việt Nam. Hệ quả là doanh nghiệp Việt Nam tạo ra gia trị
gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản xuất toàn cầu.
Thứ ba, số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao động chưa
cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng
Tỷ lệ việc làm mới do khu vực ĐTNN tạo ra không tương xứng (chỉ chiếm 3,4%
trong tổng số lao động có việc làm năm 2011). Thu nhập bình quân theo tháng của
người lao động ở khu vực doanh nghiệp ĐTNN chỉ cao hơn khu vực doanh nghiệp
tư nhân trong nước nhưng thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước. Nhu cầu về
nhà ở, đời sống văn hóa ở các khu tập trung nhiều lao động đã trở nên bức xúc mà
chưa đáp ứng được.Từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy là 4.142 cuộc đình công,

trong đó75,4% (3.122 cuộc) của doanh nghiệp ĐTNN, chủ yếu xảy ra tại doanh
nghiệp của Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản; tập trung ở ngành gia
công, sử dụng nhiều lao động như dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất phát từ yêu
cầu về lợi ích của người lao động. Điều đáng nói là hầu hết các cuộc đình công
không tuân thủ theo đúng trình tự quy định của pháp luật mặc dù 70% số cuộc đình
công xảy ra ở doanh nghiệp có tổ chức công đoàn. Trên thực tế, tổ chức công đoàn
cơ sở còn nhiều hạn chế trong việc bảo đảm các quyền lợi cho người lao động, đặc
biệt là vấn đề thỏa thuận mức tiền lương và điều kiện lao động.
Thứ tư, hiệu ứng lan tỏa của khu vực ĐTNN sang khu vực khác của nền kinh tế
còn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn.
Mặc dù doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ ĐTNN chủ yếu thông qua tác
động mở rộng thị trường, nhưng từ năm 2007 (Việt Nam chính thức tham gia
WTO) đến nay, doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước ở một số lĩnh vực đã
chịu tác động chèn lấn của doanh nghiệp ĐTNN.


Thứ năm, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững, gây ô
nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh
quốc phòng.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát triển, song
việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền kiểm, dẫn
đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về môi trường,
gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực.Không ít dự án
nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường không được phát hiện
kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dòng ĐTNN tiêu tốn năng lượng và tài
nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường, vào Việt Nam nhưng nhiều địa
phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường.Một số dự án chiếm giữ đất lớn
nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên.Một số trường hợp thu hút đầu tư
chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng
rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh

quốc phòng, một số dự án sử dụngnhiều lao động phổ thông nước ngoài.
Thứ sáu, tồn tại hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.
Một số doanh nghiệp ĐTNN có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển giá tinh vi
như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản quyền…), giá trị mua
bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành phẩm, dịch vụ, phí quản
lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương, đào tạo, quảng cáo, nhà
thầu, chuyển nhượng vốn … tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân
sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành
100% vốn nước ngoài.
2.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, chưa chuẩn bị tốt tiền đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài:
Kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, hệ thống doanh nghiệp trong nước… chuẩn bị
chưa tốt dẫn đếngiảm khả năng hấp thụ, cũng như hiệu quả của ĐTNN.
Cơ sở hạ tầng là một trong những trở ngại lớn nhất của phát triển kinh tế tại
Việt Nam. Cơ sở hạ tầng Việt Nam bị đánh giá là yếu kém, thiếu thốn. Việc nâng
cấp hạ tầng vật chất của Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót và trậm trễ. Nhất là trong
việc phát triển cơ sở hạ tầng trọng yếu, như các tuyến đường liên tỉnh, cầu…
Những hạn chế về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam theo đánh giá bởi các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ đe doạ các dự án FDI đối với xuất khẩu và sản xuất. Chi phí vận tải ở
Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Việt Nam chưa có cảng
biển mang tầm cỡ quốc tế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí sản xuất
hàng hóa ở Việt Nam, vì phải vận chuyển qua cảng trung gian. Vấn đề bất cập


trong cơ sở hạ tầng hiện nay là thiếu một quy hoạch phát triển đồng bộ, chi phí đầu
tư cao, chất lượng đầu tư thấp và thất thoát lớn trong quá trình đầu tư.
Chất lượng nhân lực không cao và chậm áp dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ khiến cho năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa kém, giá trị
gia tăng của các sản phẩm chưa cao. Trên thực tế, quá trình đưa nhân tố nguồn cung
lao động vào nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các quá trình kinh tế

-tài chính khác, cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh, không hoàn toàn do ý chí áp
đặt được. Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt
Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một rào cản phát triển kinh tế. Số
người lao động qua đào tạo đang chiếm một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp
ứng được những công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng
Thứ hai, hệ thống luật pháp,chính sách liên quan đến đầu tư còn bất cập, chồng chéo,
chưa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước
Khi xây dựng khung pháp lý chung áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài, chưa tính hết tính đặc thù của ĐTNN. Một số đạo luật chuyên ngành (thuế,
kinh doanh bất động sản, xây dựng, giáo dục…) quy định cả thủ tục đầu tư, gây chồng chéo
và không thống nhất với Luật Đầu tư. Nhiều thủ tục quy định theo hướng đơn giản,
nhưng chưa tính đến yêu cầu quản lý nhà nước; thiếu hàng rào kỹ thuật để sàng lọc
dựán và nhà đầu tư khi Việt Nam tham gia WTO.
Chính sách ưu đãi đầu tư chưa phù hợp, chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư đối với
những ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; chưa có tính đột phá; thiếu linh
hoạt; tồn tại nhiều Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư khác nhau,thiếu nhất
quán.
Chính sách về lao động, quan hệ lao động còn một số bất cập. Chính
sáchtiền lương hay thay đổi nhưng không có lộ trình. Quy định mức lương tối thiểu
thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến đình công. Nhưng khi Nhà nước tăng
mức lương tối thiểu phù hợp với điều kiện sinh hoạt thực tế của người lao động thì
tạo áp lực tăng chi phí đầu vào cho nhà đầu tư.
Thu hút và chuyển giao công nghệ chưa đạt được mục tiêu. Nguyên nhân chủ
yếu là do Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư có công nghệ cao, công nghệ
nguồn. Bên cạnh đó, chính sách về thu hút công nghệ còn nhiều bất cập (chính sách
ưu đãi chưa đủ sức hấp dẫn; quy định về Danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu
tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển
khó thực hiện…). Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên nhân khách quan là bí quyết kỹ



thuật, công nghệ riêng thường không chuyển giao thông qua hình thức mua bán bản
quyền mà thông qua nhượng quyền hoặc các hình thức khác.
Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu đồng
bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập; quản lý nhà
nước về môi trường thiên về tiền kiểm (nhà đầu tư phải thực hiện báo cáo đánh giá
tác động môi trường trước khi thực hiện quy trình đầu tư đối với các dự án thuộc
diện phải đánh giá tác động môi trường), chưa chú trọng đến hậu kiểm; thiếu chế tài
xử lý nghiêm minh.
Thứ ba, quản lý nhà nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài chưa đạt yêu cầu
Công tác quy hoạch còn bất cập , thể hiện ở việc thiếu một số quy hoạch ngành, quy
hoạch sản phẩm; chất lượng quy hoạch chưa cao do thiếu tính dự báodài hạn và thiếu
tính liên kết vùng, liên kết ngành hàng; việc xây quy hoạch nhưng chưa tính đến năng lực sản
xuất trong nước và của ĐTNN, dẫn đến các quy hoạch còn dàn trải, hiệu quả tương hỗ thấp.
Thực hiện việc phân cấp đầu tư chưa phù hợp với tình hình thực tế,phân cấp
đầu tư “đại trà, dàn đều” chưa tính đầy đủ đến đặc thù của địa phương về năng lực
quản lý, trình độ cán bộ, quy mô nền kinh tế địa phương…Tình trạng cạnh tranh
trong thu hút ĐTNN dẫn đến một số địa phương cấp phép cho các dự án tiềm
ẩn gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng sử một số bộ, ngành chưa thực
hiện công bố công khai, minh bạch điều kiện đầu tư trong từng ngành theo quy
định; lúng túng trong việc xác định các điều kiện đầu tư trong lĩnh vực quản lý,
nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán mở cửa thị trường đầu tư.
Các bộ, ngành chưa cập nhật, nắm bắt thông tin trong phạm vi quản lýchuyên
ngành (vốn vay, lao động, môi trường, khoa học công nghệ, công nghiệphỗ trợ…).
Điều này một mặt dẫn đến khó khăn cho chính bộ chuyên ngành trong việc quản lý,
điều hành, phân tích và dự báo về tình hình trong phạm vi
mình phụ trách, mặt khác, gây khó khăn cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong
việc tổng hợp chung về tình hình đầu tư, cũng như khó khăn cho cả địa phương
trong quá trình thực thi.
Năng lực phản ứng chính sách ở các cấp còn yếu, nên chậm luật hóa vấnđề
bức xúc nảy sinh trong thực tiễn (như chuyển giá, vi phạm quy định về môi trường,

gian lận thương mại...) dẫn đến hiệu quả chưa cao.
2.3. Đầu tư dàn trải theo chiều rộng
2.3.1. Thực trạng
Trong những năm qua, nguồn vốn nhà nước huy động cho đầu tư liên tục gia tăng
và chiếm tỷ lệ khoảng 30% GDP, góp phần tạo nên sự chuyển biến quan trọng về
cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng
lực sản xuất, cải thiện văn minh đô thị, đóng góp quyết định vào phát triển kinh tế


xã hội và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các công trình giao
thông then chốt của nền kinh tế như đường bộ, sân bay, bến cảng, đường sắt, công
trình thủy lợi được nâng cấp và làm mới; các công trình điện, thông tin liên lạc, các
khu đô thị, khu công nghiệp, các bệnh viện, trường học, công trình văn hóa thể thao
được cải tạo và xây dựng đã giúp cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân làm
thay đổi diện mạo cả đô thị và nông thôn.
Tuy nhiên, cùng với các kết quả đạt được, việc quản lý và triển khai thực
hiện các dự án đầu tư trong những năm qua đã bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, dẫn
đến tình trạng thất thoát, lãng phí vốn, hiệu quả đầu tư kém... Tại Hội thảo “Kiểm
toán hiệu quả đầu tư công” do Kiểm toán Nhà nước phối hợp với Hiệp hội kế toán
công chứng Anh Quốc - ACCA tổ chức ngày 8/8/2012 tại Hà Nội, nhiều chuyên gia
trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư, xây dựng đều có chung quan điểm: hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư Nhà nước hiện nay vẫn chưa cao, đầu tư dàn trải đi kèm với tình trạng
thất thoát vốn, gây lãng phí lớn.
Nền kinh tế Việt Nam bị coi là hoạt động kém hiệu quả. Việt Nam trong thời
gian vừa qua phát triển kinh tế dàn trải theo chiều rộng. Tuy nhiên, chiến lược phát
triển kinh tế chủ yếu theo chiều rộng cũng như bất kỳ một chính sách nào cũng đều
có những hạn chế của nó. Phát triển kinh tế theo chiều rộng thông thường đòi hỏi
vốn đầu tư cao và dàn trải. Do vậy, hiệu quả vốn đầu tư khó có thể cao, biểu hiện
chỉ số ICOR của Việt Nam mặc dù có được cải thiện nhưng vẫn ở mức cao so với
các nước trong khu vực và thế giới. Hiệu quả đầu tư không cao và dàn trải được

tích tụ qua các năm là nguyên nhân chủ yếu làm cho lạm phát tăng cao vào các năm
2008-2011.
Theo ông Nguyễn Xuân Tự - Vụ trưởng Vụ Giám sát và Thẩm định đầu tư Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xét về mặt tổng thể, hiệu quả đầu tư của toàn bộ nền kinh
tế Việt Nam trong những năm vừa qua ở mức thấp và có chiều hướng đi xuống.
Trên cơ sở số liệu của Niên giám thống kê 2005 (theo giá so sánh 1994), chỉ số
ICOR (tỉ lệ phần trăm vốn đầu tư bỏ ra để tạo một đơn vị phần trăm gia tăng tổng
sản phẩm trong nước) của kinh tế Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tăng: giai
đoạn 1996-2000 là 5,8, giai đoạn 2001-2005 là 6,6, đến năm 2010 chỉ số này là
khoảng 8 (các nước trong khu vực chỉ số này dao động trong khoảng từ trên 2 đến
dưới 4).
Thống kê của Viện Kinh tế Việt Nam cũng cho thấy, khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài lượng tiền bỏ ra nhằm mục đích đầu tư đi vào được trong quá
trình sản xuất nhiều nhất (bỏ ra một đồng thì xấp xỉ 83% đi vào được quá trình sản
xuất), tiếp đến là khu vực kinh tế tư nhân (bỏ ra 1 đồng có 68% đi vào sản xuất)


trong khi đó khu vực kinh tế nhà nước bỏ ra 1 đồng nhằm mục đích đầu tư chỉ có
63% là đến được quá trình sản xuất.
Phân tích của các chuyên gia Viện Kinh tế Việt Nam đã đưa ra một chỉ tiêu
khác phản ảnh hiệu quả đầu tư là sản phẩm dở dang trong nền kinh tế, hay tỷ lệ giá
trị tài sản tồn kho. Khối lượng sản phẩm dở dang trong nền kinh tế tính theo tỷ
trọng so với GDP đã tăng từ 2,2% năm 2004 lên 5,1% năm 2008. Về mặt giá trị đã
tăng gần gấp 4 lần. Điều này có nghĩa là có một khối lượng vốn đầu tư ngày càng
lớn chậm được đưa vào khai thác. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này
là việc đầu tư dàn trải, phân tán vốn.
Bàn về vấn đề này, TS. Phạm Văn Khánh - Vụ trưởng Vụ Kinh tế xây dựng Bộ Xây dựng cho rằng, hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn nhà nước đạt thấp thể hiện rất
rõ thông qua tình trạng đầu tư dàn trải, tiến độ thi công chậm trễ, kéo dài, chất
lượng thi công không đảm bảo, vượt chi phí dự toán ban đầu, gây ô nhiễm môi
trường, chưa an toàn cho người thi công và người sử dụng. Công trình xây xong
không sử dụng, một số tiêu cực trong quá trình đầu tư xây dựng làm cho dự án bị

thất thoát, tham ô, lãng phí vốn đầu tư, hiệu quả kinh tế xã hội thấp, gây bức xúc
trong nhân dân. “Công tác định hướng và điều tiết thị trường xây dựng yếu làm cho
chúng ta thường bị động trong việc sử dụng các nguồn lực cũng như việc sử dụng
các nguồn lực không hợp lý, nhiều quyết định đầu tư không đúng với nhu cầu thực
tiễn dẫn đến hậu quả nhiều dự án đầu tư xây dựng xong không sử dụng hoặc sử
dụng không hiệu quả. Thực tế, nhiều gói thầu khi triển khai thi công không đủ
nguồn lực đáp ứng tiến độ và chất lượng; chợ xây xong không có người sử dụng,
khu công nghiệp không có nhà ở cho công nhân, nhiều biệt thự ở các khu đô thị
mới bỏ hoang, nhưng lại thiếu trường học, bệnh viện, trường mẫu giáo ở các khu đô
thị này” - TS. Phạm Văn Khánh nói.
Theo Cục Quản lý XD và chất lượng CTGT, hiện mức vốn giao cho ngành
GTVT thấp hơn nhu cầu nên nhiều dự án phải tạm dừng hoặc giãn tiến độ. Đặc biệt
nguồn vốn cho ngành GTVT chưa được xác định mức vốn trong dài hạn nên tính
chủ động trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí vốn của ngành còn bị động. Nhất là
năm 2012, kế hoạch vốn được giao muộn hơn so với những năm trước đây, danh
mục và mức vốn đã được Bộ KH&ĐT rà soát và giao chi tiết cho từng dự án nên
cũng ảnh hưởng đến tính chủ động triển khai thực hiện kế hoạch.
Có một thực trạng, cơ chế huy động và sử dụng vốn cho các dự án đầu tư xây
dựng còn hạn chế dẫn đến trong những năm qua hầu hết các dự án đầu tư hệ thống
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, giao thông, cấp thoát nước, điện lực, viễn thông,... chủ yếu
chỉ được đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước, trong khi đó các nguồn vốn ngoài Nhà
nước lại đầu tư vào bất động sản với mục đích đầu cơ hoặc tích trữ vốn dưới dạng


vàng, ngoại tệ. Mặt khác, kế hoạch bố trí vốn cho dự án đầu tư xây dựng dàn trải
làm cho nhiều dự án bị kéo dài tiến độ, tăng chi phí, thậm chí nhiều dự án đang
triển khai phải dừng do thiếu vốn.
Việc phân cấp quản lý dự án cho chủ đầu tư hiện nay là - chủ đầu tư được
quyền tổ chức thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh hợp đồng và các
thay đổi của dự án trong khuôn khổ tổng mức đầu tư và thiết kế cơ sở. Dù rằng việc

phân cấp nêu trên là phù hợp với thông lệ quốc tế và ở các nước phát triển, tuy
nhiên ở Việt Nam, do năng lực của chủ đầu tư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu
cầu quản lý; thị trường tư vấn quản lý dự án đầu tư xây dựng, quản lý chi phí dự án
mới hình thành, cho nên chưa đáp ứng được yêu cầu cả về quy mô và chất lượng,
đặc biệt là đối với các dự án ở vùng núi, biên giới, dự án quy mô lớn, kỹ thuật phức
tạp, dự án áp dụng công nghệ mới. Dẫn đến, nhiều dự án bị vỡ thầu, chậm tiến độ,
vượt chi phí, gây thất thoát lãng phí vốn đầu tư do năng lực của chủ đầu tư và tư
vấn yếu kém, bên cạnh đó chế tài của pháp luật đối với các vi phạm trong quản lý
dự án, quản lý chi phí đầu tư xây dựng chưa đủ mạnh để hạn chế tiêu cực trong lĩnh
vực này…
PGS.TS Trần Đình Thiên cho rằng việc chưa thiết lập được môi trường cạnh
tranh trong khu vực sản xuất, tiêu dùng có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sự
thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư Nhà nước. Theo ông Thiên: “để đạt được
hiệu quả, đầu tư công phải được triển khai một cách minh bạch và có tính cạnh
tranh. Việc tổ chức, thực hiện và giám sát đầu tư công phải khoa học, công bằng,
công khai. Khoa học là dự án đầu tư công phải được khảo cứu kỹ lưỡng và tham
khảo ý kiến các nhà nghiên cứu chuyên môn. Công bằng và công khai là nhằm
chọn được những doanh nghiệp có tư tưởng cạnh tranh lành mạnh, mưu cầu lợi
nhuận chính đáng.”
Tuy nhiên, có những vấn đề quan ngại về trách nhiệm đối với chi tiêu ngân
sách và có lập luận cho rằng bản chất thương mại của các hợp đồng tài chính là mối
nguy tiềm ẩn đối với những tiêu chuẩn đã được thông qua về trách nhiệm của các
cơ quan Nhà nước. Trách nhiệm phụ thuộc vào tính minh bạch trong các quyết định
sao cho những người quan tâm và có trách nhiệm thực hiện những công việc công
có thể giám sát quá trình thực hiện những quyết định đó. Công chúng không bị che
dấu thông tin, vì vậy, vai trò của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trở nên quan trọng
hơn.
Ông Phạm Văn Khánh - Vụ trưởng Vụ Kinh tế xây dựng - Bộ Xây dựng đề
xuất, cần sớm sửa đổi, hoàn thiện hệ thống Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật
Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Ngân sách nhà nước...và các Nghị định hướng dẫn Luật



theo hướng bảo đảm tính đồng bộ, không chồng chéo và khắc phục các bất trong
quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư.
Bên cạnh đó, từ thực tế các vụ thất thoát, lãng phí, ông Nguyễn Xuân Tự cho
rằng cần tiến tới nghiên cứu, ban hành các chế tài cụ thể để đảm bảo chấp hành kỷ
cương, kỷ luật trong đầu tư; khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, hiệu quả thấp,
lãng phí thất thoát và xử lý nghiêm những vi phạm trong quản lý đầu tư.
2.3.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, do đầu tư phân tán, vốn ưu tiên được phân bổ vào quá nhiều dự
án; các dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và
chậm đưa công trình vào sử dụng; đầu tư phân tán, dàn trải dẫn đến dư thừa công
suất, tỷ suất sử dụng công trình không đạt như dự kiến, chi phí vận hành không
giảm; đầu tư thiếu đồng bộ, thiếu quy hoạch, thiếu kế hoạch chi tiết, đầu tư các dự
án không cần thiết dẫn tới công trình cụ thể hoàn thành mà không đưa vào sử dụng
được hoặc công trình dở dang, không hoàn thành được, lãng phí vốn đầu tư.
Thứ hai, quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư
và chưa đảm bảo chất lượng và hiệu quả công trình như dự kiến; phân cấp quyết
định và sử dụng vốn đầu tư chưa kèm với giám sát, kiểm soát chất lượng và hiệu
quả đầu tư.
Thứ ba, cơ chế khuyến khích, ưu đãi đầu tư và quản lý đầu tư chưa hợp lý,
còn dàn trải, chưa có mục tiêu và điều kiện ràng buộc rõ ràng, cụ thể; chưa hướng
được đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh, có tác động
và đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, do doanh nghiệp nhà nước còn được bao cấp về một số nhân tố sản
xuất, nhất là đất đai, tín dụng; giá đất và tài sản cố định trong nhiều trường hợp
chưa tính đúng và tính đủ nên chưa tính đúng, tính đủ chi phí kinh doanh. Một số
doanh nghiệp nhà nước vẫn là một công ty đóng, chưa thể chủ động huy động vốn
chủ sở hữu từ các nhà đầu tư bên ngoài. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn
dựa nhiều vào vốn tín dụng và tài nguyên thiên nhiên để đầu tư mở rộng quy mô

kinh doanh. Hệ quả là đòn bẩy tài chính luôn cao và có thể còn gia tăng; không thể
chủ động trong đầu tư phát triển; rủi ro và nguy cơ bất ổn kinh doanh là rất lớn.
Quản trị ở các công ty sở hữu nhà nước còn yếu kém; quyền chủ sở hữu nhà nước
chưa được thực hiện đầy đủ, kém hiệu lực, ít hiệu quả; cơ chế "hành chính chủ
quản" phân tán, thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình.
Thứ năm, tình trạng thiếu trách nhiệm, không sâu sát thực tế, chỉ quan tâm
đến lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, bệnh thành tích theo nhiệm kỳ, thiếu tuân thủ các
quy định về chuẩn bị đầu tư, thẩm quyền quyết định đầu tư, vi phạm quy hoạch đã
được phê duyệt… là những nguyên nhân dẫn đến những quyết định đầu tư chưa


đúng. Tăng GDP chạy theo số lượng, tìm mọi cách tăng lượng vốn đầu tư, trước hết
là đầu tư công diễn ra phổ biến trong tổ chức thực hiện đầu tư. Bố trí đầu tư vượt
quá khả năng cho phép, phân bổ đầu tư cho cả những dự án chưa đủ thủ tục, những
dự án chưa cần thiết, bất chấp hiệu quả làm phát sinh đầu tư dàn trải, nợ đọng lớn.
Trong nhiều dự án, chủ đầu tư quản lý đầu tư xây dựng tách rời người vận hành
công trình sau khi công trình được đưa vào sử dụng nên chủ đầu tư thường buông
lỏng trách nhiệm kiểm soát nhà thầu; có trường hợp chủ đầu tư, nhà thầu câu kết
với nhau để thực hiện các hành vi sai trái.
Thứ sáu, năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức chưa ngang
tầm, yếu kém trong công tác chỉ đạo, điều hành gây thất thoát, lãng phí trong quá
trình triển khai thực hiện đầu tư. Ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương, phẩm chất,
trình độ cán bộ, công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý dự án đầu tư xây dựng còn
kém. Lãnh đạo không ít bộ, ngành, địa phương chưa ý thức đầy đủ về những hạn
chế, yếu kém của mình trong công tác đầu tư xây dựng. Báo cáo của các bộ, địa
phương về đầu tư vẫn nặng về thành tích, chưa thẳng thắn nhìn nhận hết mức độ
nghiêm trọng về các sai phạm, thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cũng như
chưa làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân.
Thứ bảy, công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán chưa thường xuyên, liên tục,
công tác giám sát, đánh giá đầu tư chưa được coi trọng. Công tác giám sát nội bộ

hiệu quả thấp. Hầu như rất ít vụ tham nhũng gây thất thoát, lãng phí được phát hiện
thông qua giám sát nội bộ hoặc giám sát của đại diện chủ sở hữu hoặc giám sát của
cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ tám, tư duy ỷ lại vào đầu tư của ngân sách nhà nước còn nặng nề. Các
bộ, địa phương ít chủ động, sáng tạo trong việc huy động các nguồn vốn khác như
đầu tư nước ngoài, đầu tư tư nhân để tham gia đầu tư phát triển các công trình kết
cấu hạ tầng. Khi vốn ngân sách không đáp ứng được tiến độ thi công, nhất là trong
điều kiện giá xây dựng đang tăng cao như hiện nay, thì việc huy động dự án vào
sản xuất, kinh doanh bị chậm, không phát huy được hết công suất.
Thứ chín, việc hoạch định chính sách và ban hành các văn bản pháp luật
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Trong quá trình xây dựng chính sách, pháp
luật, việc lấy ý kiến của các đối tượng thuộc sự điều chỉnh của chính sách, pháp luật
còn bị động. Hệ thống các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư (đất
đai, xây dựng, thuế…) đã gây trở ngại cho việc thực hiện đầu tư theo hướng đơn
giản hóa. Hiện tượng phân tán, chồng chéo, trùng lắp về thủ tục hành chính giữa
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư vẫn chưa
được giải quyết kịp thời, gây trở ngại, đẩy chi phí đầu tư lên cao, làm môi trường
đầu tư kinh doanh của Việt Nam kém tính hấp dẫn, cạnh tranh.


Nợ nước ngoài của Chính phủ cao và có rủi ro vỡ nợ.
2.4.1. Thực trạng nợ nước ngoài cuả Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn từ 2010 - 2015, tổng huy động nợ công của Việt Nam đạt
bình quân 14% GDP, chiếm khoảng 44% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tốc
độ tăng bình quân hàng năm nhanh (mức 18,6%/năm). Theo công bố mới nhất của
Bộ Tài chính, đến ngày 31-12-2015, nợ công ở mức 62,2% GDP, nợ Chính phủ ở
mức 50,3% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 43,1% GDP, nghĩa vụ trả nợ
trực tiếp của Chính phủ ở mức 16,1% tổng thu ngân sách Nhà nước. Mỗi người
Việt Nam hiện đang gánh hơn 1.000 đôla nợ công
2.4.


Việt Nam phát triển không bền vững là do thiếu tư duy kinh tế và quyết tâm chính
trị đủ mạnh. Rất nhiều chính sách của Việt Nam thuộc dạng lỗi thời so với các nước
Đông Nam Á, không chỉ riêng những chính sách về kinh tế, giáo dục hay khoa học
công nghệ. Theo East Asian Bureau of Economic Research, bất ổn trong nền kinh
tế vĩ mô của Việt Nam đã làm suy yếu tính cạnh tranh và hiệu quả kinh tế của quốc
gia này. Và sự bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam không chỉ là một xáo
động ngắn hạn mà thực sự là một vấn đề nghiêm trọng có hệ thống, bắt nguồn từ sự
thiếu hiểu biết về các khái niệm về nguyên tắc phát triển cũng như sự thiếu hụt về
nỗ lực mang tính chiến lược nhằm xây dựng một nền quản lý hiệu quả.
Về kinh doanh, hàng loạt các đại doanh nghiệp nhà nước như Tập đoàn Sông
Đà, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam), Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN), Tập đoàn Viễn thông Quân Đội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn bị chính thanh tra của chính phủ phát hiện sai phạm gây tổn thất nặng
nề. Việc đầu tư thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước độc quyền dẫn đến chính
người dân và những người đóng thuế sẽ phải bỏ tiền của mình ra để trả nợ vì những
sai phạm kinh tế làm lỗ tới hàng tỷ đôla gây ra bởi các tập đoàn, tổng công ty của
Nhà nước.
Năm 2012, theo nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu Brookings của Mỹ, người Việt
Nam có gánh nặng thuế và chi phí cao bậc nhất khu vực. Việt Nam có tỷ lệ dân
nghèo (người có thu nhập dưới 2 USD/ngày) chiếm 18,2% dân số; tầng lớp trung
lưu (thu nhập trên 5.600 USD/năm) chỉ chiếm 5,6% dân số. Các tập đoàn nhà
nước cốt lõi của nền kinh tế Việt Nam kinh doanh theo kiểu "lời ăn, lỗ dân chịu",
nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ nặng như Vinashin (nợ từ 80.000 đến 120.000 tỷ
đồng), Vinalines (nợ hơn 43.000tỉ), VINACONEX (nợ nghìn tỷ), EVN, Petro
Vietnam... Tổng số nợ của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là trên 50 tỷ USD.
Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của các Doanh Nghiệp Nhà nước là 1,36 lần, chưa
bằng 1 nửa so với quy định là 3 lần, nhưng trong số này có 30/85 Tập đoàn có chỉ



×