Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 158 trang )

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống tài chính và kinh tế của các quốc gia. Theo Njanike (2009) vai trò truyền thống
của ngân hàng là cho vay và các khoản cho vay đó chiếm phần lớn tài sản của ngân
hàng. Hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng tạo nên nguồn thu
nhập chủ yếu của ngân hàng, vì thế RRTD tác động đến hiệu quả của NHTM và sự ổn
định của ngân hàng (Mark Swinburne, 2007).
Bên cạnh đó khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra do biến động của môi trường
kinh tế vĩ mô (Festic et al.,2011; Louzis et al, 2012. Nkusu, 2011) như sụt giảm trong
tăng trưởng, tăng tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất và lạm phát từ đó có thể ảnh hưởng đến
RRTD. Hầu hết đối với các quốc gia có nền kinh tế mới nổi cần phải tập trung kiểm
soát RRTD là yêu cầu không thể thiếu được, ngoài các yếu tố vĩ mô thì các yếu tố
thuộc về ngân hàng như: tổng tài sản, quy mô, nợ xấu, thanh khoản… cũng ảnh hưởng
đến RRTD.
RRTD là mối quan tâm lớn không chỉ riêng ngân hàng mà của nền kinh tế.
RRTD xuất hiện không chỉ tác động trực tiếp đến nguồn vốn của các ngân hàng như
mất vốn, có thể gây nguy cơ phá sản ngân hàng.
Tại Việt Nam các NHTM đang đối mặt với RRTD, nợ xấu có chiều hướng tăng
trong những năm gần đây, hệ thống quản trị yếu kém cùng với biến động của các yếu
tố vĩ mô trước ảnh hưởng tài chính toàn cầu. Từ năm 2012 trở lại đây quá trình tái cơ
cấu hệ thống NHTM diễn ra nhằm hạn chế RRTD, giảm nợ xấu, tái cấu trúc vốn và tài
sản, nâng cao năng lực quản trị theo chuẩn mực quốc tế nhằm từng bước nâng cao
hiệu quả kinh doanh các NHTM cũng như hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Có nhiều nghiên cứu có liên quan đến đến RRTD, qua nghiên cứu tác giả tìm
thấy xu hướng chủ yếu liên quan đến rủi ro tín dụng của NHTM cụ thể:


2



 Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD
Sức khỏe của hệ thống tài chính là vấn đề quan tâm hàng đầu của hầu hết các
nền kinh tế, đặc biệt là trong sự phát triển của các quốc gia. Sự thất bại các định chế
tài chính trong vai trò trung gian của có thể làm gián đoạn quá trình phát triển này.
Nghiên cứu thực nghiệm đã phát hiện nhiều bằng chứng cho rằng sự phát triển tài
chính góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Có ý kiến cho rằng những biến động kinh tế chủ yếu có nguồn gốc từ khủng
hoảng ngân hàng, những năm 1990 ở Châu Á cho thấy sự kết hợp của chính sách tài
chính yếu kém và chính sách kinh tế vĩ mô lỏng lẽo là nguyên nhân trầm trọng thêm
cuộc khủng hoảng. Hệ thống ngân hàng của Châu Á đối mặt với những khoản nợ xấu
do tăng trưởng tín dụng nhanh chóng và chấp nhận rủi ro quá mức (Lindgren et al
1997, Caprio và Klingebiel, 2003). Khủng hoảng ngân hàng có thể xảy ra do biến
động của môi trường kinh tế vĩ mô (Festic et al.,2011; Louzis et al, 2012. Nkusu,
2011) như: sụt giảm trong tăng trưởng, tăng tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất và lạm phát.
Theo Llewellyn (2002), hệ thống ngân hàng thông thường bắt đầu bằng sự tích tụ
những yếu kém về cơ cấu trong nền kinh tế và hệ thống tài chính, rủi ro trong trong
hoạt động ngân hàng, và rủi ro đạo đức là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng ngân
hàng. Mặt khác, khủng hoảng ngân hàng chủ yếu xuất phát từ việc các ngân hàng
không đủ năng lực để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán và các khoản nợ có vấn đề đã
được che dấu trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng. Đó là lý do mà Castro
(2013) nhấn mạnh cần phải xem xét các vấn đề RRTD của ngân hàng, đặc biệt là các
khoản nợ xấu trước khi tìm hiểu những nguyên nhân khủng hoảng hệ thống ngân
hàng. Tương tự như vậy, Reinhart và Rogoff (2010) cho rằng tỷ lệ nợ xấu có thể được
sử dụng để đánh dấu sự khởi đầu của RRTD, sự khủng hoảng ngân hàng.
Trong nước, theo nghiên cứu của hai tác giả Đào Thị Thanh Bình và Đỗ Vân
Anh (2013), chỉ ra rằng các yếu tố kinh tế vĩ mô không có tác động đến các khoản nợ
xấu. Các yếu tố như lãi suất cho vay có thể khác nhau giữa các ngân hàng và các kỳ
hạn cho vay. Kết quả nghiên cứu của hai tác giả Đỗ Quỳnh Anh, Nguyễn Đức Hùng
(2013), cho thấy các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng GDP tác động đáng kể

đến nợ xấu. Yếu tố đặc thù của các ngân hàng cũng được kiểm định trong mô hình,


3

trong đó tỷ lệ nợ xấu của năm trước và mức độ tăng trưởng tín dụng ảnh hưởng mạnh
nhất lên tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Nghiên cứu này cũng cho rằng một ngân
hàng có mức nợ xấu cao hiện tại sẽ có tỷ lệ nợ xấu cao trong năm tiếp theo, tăng
trưởng tín dụng cao chưa làm tăng nợ xấu ngay lập tức mà thường là sau một năm sẽ
để lại những tác động, ảnh hưởng đáng kể.
 Nghiên cứu rủi ro tín dụng và hiệu quả kinh doanh của NHTM
Không chỉ dừng lại tìm kiếm các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD, có khá nhiều
nghiên cứu có sự liên hệ giữa RRTD với HQKD của NHTM. Việc khám phá các yếu
tố ảnh hưởng đến RRTD là một vấn đề quan trọng đối với cơ quan quản lý nhằm duy
trì sự ổn định tài chính, và cho phép các ngân hàng theo đuổi chính sách quản lý có
trách nhiệm hơn.
Tuy nhiên có khá nhiều nghiên cứu cho thấy có sự liên hệ giữa RRTD đến
HQKD của NHTM thông qua các chỉ tiêu lợi nhuận, Nicolae Petria (2013), nghiên
cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng của 27 nước EU từ năm 2004 2011. Trong đó sử dụng tỷ ROE (Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu) làm biến phụ
thuộc và nghiên cứu tác động của RRTD đến hiệu quả ngân hàng. Kết quả cho thấy
RRTD có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh ngân hàng được đo lường
thông qua chỉ số ROE. Hasan Ayaydin (2014), nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
vốn và lợi nhuận của các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 2003-2011. Sử dụng tỷ số
ROE là biến phụ thuộc đại diện cho hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng biến dự phòng RRTD có tác động ngược chiều đến HQKD
ngân hàng.
Nguyễn Việt Hùng (2008), phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của 32 NHTM Việt Nam trong những năm 2001 – 2005. Kết quả cho thấy các
nhân tố như tỷ lệ nợ xấu, dư nợ cho vay trên tổng tài sản có tác động ngược chiều đến
hiệu quả hoạt động. Trịnh Quốc Trung (2013), nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến

hiệu quả kinh doanh của 39 NHTM Việt Nam trong những năm 2005 – 2013. Kết quả
cho thấy tỷ lệ nợ xấu càng cao thì HQKD của các ngân hàng càng giảm. Tỷ lệ cho vay
so với tổng tài sản càng cao thì HQKD của ngân hàng càng cao.


4

Như vậy, RRTD xuất hiện một cách khách quan trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, đặc biệt là trong xu hướng hội nhập quốc tế và khủng hoảng tài chính. Đây là
vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các NHTM. Hậu quả RRTD để lại có thể dẫn đến
lợi nhuận ngân hàng sụt giảm, gây bất ổn cho hệ thống NHTM và nền kinh tế, trong
điều kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn tại Mỹ
đã dẫn đến phá sản hàng loạt NHTM. Xuất phát từ những lý do nêu trên việc nghiên
cứu RRTD và HQKD của các NHTM tại Việt Nam là yêu cầu cần thiết trong giai
đoạn được thể hiện trong quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo đề án 254 1 của
Thủ tướng Chính Phủ ban hành ngày 01 tháng 03 năm 2012.
Với đề tài " Tác động của rủi ro tín dụng đến hiệu quả kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam" tác giả phân tích và đo lường mức độ ảnh hưởng
của các yếu tố đến RRTD, đồng thời làm sáng tỏ sự tác động RRTD đến HQKD của
các NHTM Việt Nam là yêu cầu cần thiết.

 Khe hở nghiên cứu
Qua nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến RRTD và các yếu tố RRTD. Kết
quả nghiên cứu có ý nghĩa là bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam. Hầu hết cho thấy
có nhóm yếu tố vĩ mô: GDP, lạm phát, tỷ giá, lãi suất, thất nghiệp... và nhóm các yếu
tố vi mô xuất phát từ phía các NHTM như: quy mô, vốn chủ sở hữu, thanh khoản ….
đều có ảnh hưởng đến RRTD.
Có một số nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD của các NHTM tại
Việt Nam, tuy nhiên chưa có nghiên cứu tiếp cận sự ảnh hưởng của RRTD đến
HQKD và khả năng sinh lời của NHTM, xác định RRTD có thể là nguyên nhân ảnh

hưởng đến HQKD của các NHTM tại Việt Nam. Tác giả tiếp cận cả hai xu hướng
nghiên cứu, đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD tìm kiếm các yếu tố vĩ mô và
yếu tố đặc thù của NHTM ảnh hưởng đến RRTD của các NHTM Việt Nam trong thời
gian từ năm 2005 đến năm 2015.

1

(số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) giai
đoạn 2011 - 2015”


5

Nghiên cứu những nguyên nhân từ yếu tố vĩ mô thay đổi từ sự biến động của
kinh tế thế giới, NHNN điều chỉnh chính sách tiền tệ, từ đó các NHTM cũng có thay
đổi thích nghi với điều kiện môi trường, các yếu tố từ phía các NHTM có ảnh hưởng
đến RRTD và HQKD của NHTM
Bên cạnh đó với dữ liệu bảng, tác giả sử dụng mô hình hồi quy kiểm định các
giả thuyết, kết quả nghiên cứu của tác giả RRTD tác động đến HQKD của các NHTM
Việt Nam. Dựa vào kết quả nghiên cứu tác giả gợi ý các giải pháp nhằm hạn chế
RRTD và nâng cao HQKD của NHTM Việt Nam.
Tính đến thời điểm hiện tại tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu về tác
động của RRTD đến HQKD của các ngân hàng một cách bài bản như ở một số quốc
gia trên thế giới. Ưu điểm của các nghiên cứu này xây dựng mô hình chỉ ra được tác
động của RRTD đến HQKD của các NHTM.
Kết quả nghiên cứu phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD, chỉ rõ yếu tố nợ
xấu và dự phòng RRTD có tác động đến HQKD của các NHTM Việt Nam
So với các nghiên cứu thực nghiệm còn hạn chế trong việc đưa ra các giải pháp
hạn chế tác động của RRTD để nâng cao HQKD của các NHTM các nước. Do đó,
điểm mới trong nghiên cứu này làm rõ vấn đề này, đây là ưu điểm của đề tài, là sẽ bổ

sung thêm nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam.
Các giải pháp gợi ý có tính thiết thực và hữu ích đối với chính phủ, NHNN và
NHTM. Giải pháp có căn cứ khoa học xuất phát từ các kết quả nghiên cứu từ thực
trạng RRTD và HQKD của các NHTM Việt Nam cũng như kết quả của mô hình hồi
quy nhằm hạn chế RRTD và nâng cao HQKD tại các NHTM Việt Nam.
Giải quyết đuợc bài toán hạn chế RRTD góp phần nâng cao HQKD của các NHTM
là yêu cầu tất yếu trong quá trình thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM, là một trong
các điều kiện quan trọng và cần thiết góp phần ổn định hệ thống NHTM tại Việt Nam
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD,
RRTD tác động đến HQKD của các NHTM Việt Nam và gợi ý các giải pháp hạn chế
hạn chế RRTD nhằm nâng cao HQKD của các NHTM Việt Nam. Cụ thể:


6

- Xác định các yếu tố ảnh huởng đến RRTD của NHTM.
- Tác động của RRTD đến HQKD của NHTM
- Đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tác động đến RRTD và tác động
của RRTD đến HQKD của NHTM tại NHTM Việt Nam.
- Gợi ý các giải pháp hạn chế RRTD nhằm nâng cao HQKD của các NHTM
Việt Nam.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu này, đề tài đưa ra các câu hỏi nghiên cứu như sau:
- Yếu tố nào ảnh hưởng đến RRTD của NHTM?
- RRTD tác động đến HQKD như thế nào?
- Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến RRTD của các NHTM Việt Nam như

thế nào?
- RRTD tác động đến HQKD của các NHTM Việt Nam như thế nào ?
- Giải pháp nào hạn chế RRTD và nâng cao HQKD của các NHTM Việt Nam?


1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: các yếu tố tác động đến RRTD và tác động của RRTD
đến HQKD của các NHTM Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào các yếu tố tác động đến RRTD và HQKD
của các NHTM Việt Nam. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo tài chính của 26
NHTM Việt Nam, số liệu kinh tế vĩ mô của ADB Indicators trong giai đoạn từ
năm 2005 đến năm 2015.

1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu định lượng: sử dụng mô hình hồi quy đa biến bằng
cách hồi quy theo mô hình Pooled, Fixed Effect, Random Effect và sử dụng phương
pháp GMM để giải quyết nội sinh trên dữ liệu bảng nhằm thực hiện mục tiêu nghiên
cứu là xác định ảnh hưởng của các yếu tố đến RRTD và sử dụng mô hình Feasible


7

Generalized Least Squares (FGLS) để thực hiện mục tiêu nghiên cứu tác động của
RRTD đến HQKD NHTM của các NHTM Việt Nam.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu diễn dịch quy nạp và
thống kê mô tả, tổng hợp, so sánh, phân tích để thực hiện mục tiêu nghiên cứu tổng
quan về các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD của các NHTM và thực trạng RRTD của các
NHTM Việt Nam.

1.5 KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Nội dung của đề tài bao gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và Gợi ý các chính sách


8

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1 RỦI RO TÍN DỤNG
2.1.1 Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau về RRTD: Theo Timothy W. Koch (1995):
RRTD là sự rủi ro tiềm ẩn của thu nhập thuần và trị giá của vốn tín dụng xuất phát từ
việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn.
Theo Thomas P. Fitch (1997): “RRTD là loại rủi ro xảy ra khi người vay
không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ
trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, RRTD là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt
động cho vay của ngân hàng”
Theo Ủy ban giám sát Basel (BCBS), RRTD là khả năng mà người đi vay
hoặc đối tác của ngân hàng thất bại trong việc thực hiện theo các điều khoản trả nợ đã
thỏa thuận. RRTD còn được gọi là rủi ro vỡ nợ, phát sinh từ việc không chắc chắn liên
quan đến việc không hoàn trả các khoản nợ từ phía khách hàng cho ngân hàng.
RRTD có thể đo lường bằng 2 cách: khả năng vỡ nợ của đối tác trong quan hệ
tín dụng với ngân hàng và số tiền mà ngân hàng mất đi khi vỡ nợ xảy ra. Vỡ nợ
thường xuyên xảy ra bởi vì sự mất mát trong thu nhập và kinh doanh thất bại của
khách hàng. Nhưng nhiều khi đối tác cũng cố ý không trả nợ khi họ vẫn có có thu
nhập đầy đủ. RRTD cũng có thể bắt nguồn từ sự suy giảm giá trị tài sản, sự suy thoái
trong danh mục đầu tư hoặc chất lượng tín dụng cá nhân bị suy giảm.
Tại Việt Nam theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của NHNN
Việt Nam Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự
phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho rằng: “RRTD trong hoạt động ngân hàng

(sau đây gọi tắt là rủi ro) là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng
thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”


9

Từ các quan điểm tác giả cho rằng: RRTD là loại rủi ro phát sinh trong quá
trình cấp tín dụng của ngân hàng, khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không
đúng hạn cho ngân hàng. Đây là rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng nên mọi hoạt động tín dụng và RRTD đều ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như
hiệu quả ngân hàng đặc biệt trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu thì
RRTD xuất hiện có thể dẫn đến các rủi ro khác gây nên hậu quả nghiêm trọng và phá
vỡ tính cân đối và ổn định của NHTM.
2.1.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Theo Ghosh (2012), có nhiều nguyên nhân dẫn đến RRTD, bao gồm nguyên
nhân bên ngoài và bên trong ngân hàng. Các nguyên nhân phổ biến từ phía NHTM có
thể kể đến như: quyết định tín dụng quá dễ dàng, quản trị tín dụng kém hiệu quả,
những sự kiện bất ngờ không lường trước được, và sự ngoan cố không trả nợ xuất
phát từ phía khách hàng. Các yếu tố bên ngoài bắt nguồn từ sự suy yếu của kinh tế vĩ
mô, tình trạng xấu đi của các điều kiện kinh tế và sự phát triển kém của thị trường bên
ngoài. Mối quan hệ nghịch chiều từ điều kiện kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến người đi
vay, khi nó làm suy giảm nguồn thu nhập tăng khả năng không trả được nợ của họ.
Các yếu tố bên ngoài như sự thay đổi của chính sách tài khóa, cung tiền, chính sách
xuất nhập khẩu, chính sách hạn chế thương mại, hoặc sự biến đổi của thị trường tài
chính cũng sẽ ảnh hưởng đến danh mục tín dụng của ngân hàng.
Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng có thể dẫn tới suy thoái kinh tế, trong suốt thời
kỳ khủng hoảng, hoạt động nền kinh tế bị chậm lại, khối lượng sản phẩm và doanh thu
của doanh nghiệp suy giảm, cầu về hàng hóa dịch vụ thấp hơn. Sự biến động của thị
trường cũng làm ảnh hưởng đến suy giảm giá trị danh mục tín dụng của ngân hàng.

Ngược lại trong thời kỳ bùng nổ của nền kinh tế, số lượng sản phẩm được tạo ra nhiều
hơn, nhu cầu hàng hóa dịch vụ cao hơn, doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Như vậy, người đi vay sẽ dễ dàng trả nợ cho ngân hàng và rủi ro vỡ nợ giảm xuống.
Trong thời kỳ suy thoái, RRTD tăng lên và trong thời kỳ bùng nổ RRTD giảm đi.
Những yếu tố nội bộ từ phía người đi vay và việc kinh doanh của họ là những
yếu tố ảnh hưởng đến RRTD của ngân hàng. Các yếu tố như rủi ro kinh doanh, quản


10

trị tài chính, hạn chế về quy trình kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, quản lý hàng tồn kho
kém là một trong những yếu tố phổ biến là suy giảm hiệu quả sản xuất và chất lượng
sản phẩm, làm suy giảm trong thu nhập của người đi vay, tăng xác xuất vỡ nợ .
Bên cạnh đó sự thiếu trung thực, thái độ phi đạo đức của người đi vay cũng là
một trong những nguyên nhân chính gây ra RRTD.
Như vậy, nguyên nhân từ các yếu tố bên ngoài hoặc bên trong, từ phía người đi
vay tác động đến RRTD. Ngoài ra các nguyên nhân như hiệu quả của hệ thống pháp
luật, môi trường kinh tế, chính trị ảnh hưởng đến việc cấp tín dụng.
Các chỉ tiêu để đo lường RRTD là:
 Tỷ lệ nợ xấu:
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Dư nợ tín dụng
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đo lường RRTD của NHTM. Tỷ lệ nợ xấu càng
cao thì RRTD càng lớn. Nguy cơ khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng rất
lớn, ngân hàng có thể mất vốn, suy giảm doanh thu và lợi nhuận.
 Dự phòng RRTD
Là khoản chi phí dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng
không thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng theo cam kết. Dự phòng RRTD được
hoạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Trích lập dự phòng là phương thức
kiểm soát tổn thất tín dụng, phát hiện và bù đắp RRTD. RRTD cao sẽ dẫn đến dự
phòng RRTD cao.


2.2 HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng thương mại
Có nhiều quan điểm về hiệu quả kinh doanh (HQKD) của NHTM. Theo Farrell
(1957), hiệu quả là một phạm trù được sử dụng phổ biến nhằm đánh giá khả năng của
một đơn vị trong việc tối đa hóa doanh thu đầu ra trong điều kiện chi phí đầu vào cho
trước, hay nói cách khác hiệu quả chính là những lợi ích mang lại từ hoạt động cụ thể.


11

Hiệu quả đó là khả năng kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào để tạo ra một đơn vị
đầu ra. Khi đánh giá HQKD của một doanh nghiệp, có thể dựa vào hai chỉ tiêu đó là
hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
- Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối: được đo lường bằng kết quả kinh doanh trừ đi
chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Cách đánh giá này phản ánh quy mô, khối
lượng, lợi nhuận đạt được trong điều kiện, thời gian và địa điểm cụ thể. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, chỉ tiêu này khó có thể so sánh được với các doanh nghiệp
có thể cùng quy mô nhưng chiến lược kinh doanh hay đầu tư theo hướng dài hạn,
chưa thể hiện chính xác tuyệt đối trình độ sử dụng các nguồn lực trong mối quan hệ
so sánh hoạt động kinh doanh giữa các tổ chức.
- Hiệu quả kinh doanh tương đối: được đánh giá dựa trên tỷ lệ so sánh giữa kết
quả đầu ra và yếu tố đầu vào. Một cách đơn giản, đối với trường hợp doanh nghiệp
so sánh các yếu tố đầu vào và đầu ra, hiệu quả kinh doanh tương đối được xác định
như sau: Efficiency = output/ input hoặc Efficiency = input/ output. Cách đánh giá
này thuận tiện hơn khi so sánh giữa các tổ chức có quy mô khác nhau, các không
gian khác nhau, cũng như qua những thời kỳ khác nhau.
Đối với NHTM, đây là một định chế tài chính trung gian quan trọng bậc nhất
trong nền kinh tế thị trường, điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu (Perter
S.Rose, 2014), nhưng xét về bản chất là một doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh với

mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong mức độ rủi ro cho phép. Vì vậy, việc đánh giá
HQKD của NHTM cũng dựa trên những nền tảng lý thuyết như đánh giá HQKD của
một doanh nghiệp, đồng thời cần xem xét đến tính chất đặc thù của NHTM.
Xét theo nghĩa hẹp, quan điểm về hiệu quả kinh doanh của NHTM chính là khả
năng tạo ra lợi nhuận, đồng thời vẫn đảm bảo an toàn cho các hoạt động của Ngân
hàng theo quỹ đạo nhất định, hạn chế rủi ro.
Xét theo nghĩa rộng hiệu quả kinh doanh không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà
lợi nhuận đạt được từ cấu trúc tài sản nợ và tài sản có hợp lý, xu hướng tăng trưởng
lợi nhuận ổn định, và hiệu quả hoạt động của các NHTM Đài Loan, Chang và cộng sự
(2010) cũng nêu rằng hiệu quả thể hiện khả năng quản lý để kiểm soát chi phí và sử
dụng nguồn lực để tạo ra đầu ra.


12

NHTM sử dụng các nguồn lực như: lao động, cơ sở vật chất , nguồn tài chính
cho các hoạt động chính: nhận tiền gửi, cho vay và đầu tư. Đây là căn cứ để xác định
mức độ hiệu quả và yếu tố tác động đến hiệu quả của NHTM.
Tương tự như vậy, trong nghiên cứu về hoạt động ngân hàng, một số tác giả
theo cách tiếp cận sản xuất với quan điểm ngân hàng như là đơn vị sản xuất (Benston,
1965; Ferrier et al, 1990; sShaffnit et al, 1997; Zenios et al, 1999), một số tác giả theo
cách tiếp cận trung gian, ngân hàng như các trung gian tài chính (Sealey và Lindley,
1977; Maudos và Pastor, 2003;. Casu et al, 2003), và một số khác theo cách tiếp cận
hiện đại cho rằng ngân hàng đóng cả hai vai trò (Frexias và Rochet, 1997; Denizer et
al, 2000;. Athanassopoulos và Giokas, 2000). Theo các cách tiếp cận này, hiệu quả
của ngân hàng bao gồm hiệu quả hoạt động và hiệu quả trung gian tài chính.
Cách tiếp cận sản xuất (Benston, 1965): Các NHTM cũng được xem như là các
nhà cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Các đầu vào thiết lập theo cách tiếp cận này
bao gồm các yếu tố có trạng thái vật lý (ví dụ: lao động, vật liệu, không gian hoặc các
thông tin hệ thống,... ) hoặc các chi phí liên quan. Theo cách tiếp cận này, chỉ có đầu

vào có trạng thái vật lý là cần thiết để thực hiện giao dịch, dữ liệu về quá trình tài
chính hoặc cung cấp các dịch vụ tư vấn và tư vấn cho khách hàng. Chi phí lãi vay
được loại trừ khỏi cách tiếp cận này với lý do chỉ có quá trình hoạt động vật lý là có
liên quan. Các đầu ra theo cách tiếp cận này thể hiện cho các dịch vụ tài chính mà
ngân hàng cung cấp cho khách hàng và được đo lường tốt nhất bởi số lượng và loại
giao dịch, số lượng văn bản xử lý được hoặc các dịch vụ chuyên cung cấp trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong trường hợp không có số liệu lưu lượng giao dịch
chi tiết, chúng được thay thế bằng các dữ liệu về số lượng các tài khoản tiền gửi và
cho vay như là một thay thế cho các mức độ dịch vụ được cung cấp. Cách tiếp cận này
đã chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu hiệu quả của các ngân hàng cụ thể.
Cách tiếp cận trung gian (Sealey và Lindley, 1977): Các lý thuyết kinh tế vĩ mô
truyền thống cho rằng ngân hàng và công ty chỉ khác nhau ở đặc điểm hoạt động. Các
NHTM được xem như trung gian chuyển vốn giữa người tiết kiệm và đầu tư. Các
NHTM sản xuất dịch vụ trung gian tài chính thông qua việc huy động vốn từ nền kinh
tế và các khoản huy động để đầu tư vào các tài sản sinh lãi như các khoản vay, chứng


13

khoán và các khoản đầu tư khác. Cách tiếp cận này bao gồm cả chi phí hoạt động và
lãi suất là yếu tố đầu vào, trong khi các khoản vay và tài sản lớn khác được tính là kết
quả đầu ra. Tuy nhiên, có nhiều tranh luận về phương pháp này trong việc xác định
tiền gửi phải được coi là đầu vào hay đầu ra.
Theo Elyasiani và Mehdian (1990a, 1990b) và Mester (1987), đầu ra trong hoạt
động trung gian tài chính của ngân hàng là tài sản của các ngân hàng, trong khi các
khoản tiền gửi, vốn, lao động và được xem như là yếu tố đầu vào. Khoản mục quan
trọng nhất trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng là thu nhập lãi, nó phụ thuộc vào
lượng cho vay. Do đó, khả năng phát triển tín dụng của ngân hàng là rất quan
trọng. Nếu vốn cho vay của ngân hàng được xem như là một sản phẩm thì giá sản
phẩm là lãi suất cho vay. Ngoài ra, nguồn vốn đi vay của ngân hàng là các khoản tiền

gửi của các chủ sở hữu vốn. Do đó, tiền gửi có thể được xem như là đầu vào để tạo ra
các khoản vay như một sản phẩm trong giai đoạn sản xuất.
Cách tiếp cận hiện đại (Frexias và Rochet, 1997) cải tiến hơn hai phương pháp
trên khi kết hợp một số hoạt động cụ thể của ngân hàng vào các lý thuyết cổ điển.
Nghiên cứu về việc xác định các đầu ra trong hoạt động của NHTM đã hình thành nên
một số phương pháp tiếp cận hiện đại như: tiếp cận theo tài sản, tiếp cận theo chi phí
sử dụng, tiếp cận theo giá trị gia tăng, tiếp cận theo phương diện hoạt động... .
(i) Tiếp cận theo tài sản (Sealy & Lindley, 1977) tập trung hoàn toàn vào vai
trò trung gian tài chính của NHTM giữa người gửi tiền và người sử dụng
tài sản cuối cùng của ngân hàng. Tiền gửi và các khoản nợ khác, cùng với
nguồn lực thực tế (lao động, vốn... ) được xác định là yếu tố đầu vào, trong
khi các thiết lập đầu ra chỉ bao gồm các tài sản của ngân hàng như cho vay,
cụ thể là các khoản cho vay.
(ii) Tiếp cận theo chi phí sử dụng (Hancock, 1985) xác định sản phẩm tài chính
là đầu vào hay đầu ra dựa trên cơ sở mức độ đóng góp của vào doanh thu
ròng của ngân hàng. Nếu lợi nhuận tài chính trên một tài sản lớn hơn chi
phí cơ hội của vốn, hoặc nếu các chi phí tài chính của các khoản nợ phải trả
ít hơn chi phí cơ hội thì được coi là kết quả đầu ra; ngược lại là yếu tố đầu
vào.


14

(iii) Tiếp cận giá trị gia tăng (Berger, Hanweck & Humphrey, 1987) cho rằng
các số liệu trên bảng cân đối kế toán (tài sản hoặc nợ phải trả) như là đầu
ra, đóng góp vào giá trị gia tăng của ngân hàng. Theo cách tiếp cận này, các
hạng mục chính của các khoản tiền gửi (tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không
kỳ hạn) và cho vay (cho vay khách hàng, cho vay các TCTD khác, tiền gửi
tại các TCTD khác) là kết quả đầu ra vì chúng thể hiện giá trị gia tăng của
ngân hàng.

(iv) Tiếp cận hoạt động (hoặc tiếp cận dựa trên thu nhập) (Leightner và Lovell,
1998): Ngân hàng là đơn vị kinh doanh với mục tiêu cuối cùng là tạo thu
nhập từ tổng chi phí phát sinh cho hoạt động kinh doanh. Nêu định nghĩa
đầu ra của ngân hàng là tổng doanh thu (từ lãi vay hoặc từ các hình thức
cung cấp dịch vụ phi lãi suất khác) và các đầu vào như tổng chi phí (lãi suất
và chi phí hoạt động).
Từ các cách tiếp cận trên, có thể khái quát khái niệm hiệu quả kinh doanh của
NHTM là khả năng kết hợp tối ưu để tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào như nguồn lực
tài chính, cơ sở vật chất, nhân lực và các yếu tố khác trong các hoạt động trung gian
tài chính và sản xuất kinh doanh của bản thân NHTM như huy động vốn, cho vay, đầu
tư và dịch vụ khác nhằm đạt được kết quả đầu ra tối đa. Hiệu quả kinh doanh của
NHTM được đo lường bằng cách so sánh với đường biên sản xuất của nó.
Nguyễn Việt Hùng (2008), cho rằng trong hoạt động của NHTM, hiệu quả có thể
được hiểu ở hai khía cạnh như sau:
-

Khả năng biến đổi các đầu vào thành các đầu ra hay khả năng sinh lời hoặc
giảm thiểu chi phí để tăng khả năng cạnh tranh với các định chế tài chính khác.

-

Xác suất hoạt động an toàn của ngân hàng.
Trương Quang Thông (2011), cho rằng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng được

xem là kết quả lợi nhuận do hoạt động ngân hàng mang lại trong một thời gian nhất
định.
Tóm lại, theo quan điểm của tác giả về hiệu quả kinh doanh của các NHTM rất
đa dạng, tùy theo mục đích nghiên cứu mà hiệu quả có thể được xét theo những khía
cạnh khác nhau. Với mục đích nghiên cứu của đề tài này, hiệu quả kinh doanh của các
NHTM sẽ được nghiên cứu dưới khía cạnh kết quả lợi nhuận hay khả năng sinh lời



15

của các ngân hàng trong điều kiện đảm bảo hoạt động NHTM được ổn định và hạn
chế rủi ro, mà chủ yếu xem xét trong mối quan hệ tác động của RRTD đến hiệu quả
kinh doanh của NHTM.
Quan điểm về hiệu quả nêu trên đã được tác giả sử dụng để nghiên cứu hiệu quả
kinh doanh của các NHTM là dựa trên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế, thể hiện
mối quan hệ tối ưu giữa kết quả kinh tế đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó. Nói cách khác là khả năng biến các yếu tố đầu vào thành các kết quả đầu ra trong
hoạt động kinh doanh của NHTM.

2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Kết quả nghiên cứu của Naser A.Y. Tabari và các cộng sự (2013) chỉ ra rằng hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng được đo lường bởi: lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE) và lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA).
Theo Fredrick Mwaura Mwangi (2014), để đo lường hiệu quả của NHTM, có một
số chỉ số thường được sử dụng như: ROA, ROE và NIM. Theo Murthy and Sree
(2003), ROE là chỉ số tài chính chỉ ra được mức lợi nhuận thu về được so với tổng
vốn chủ sở hữu thể hiện trên bảng cân đối kế toán. ROA là chỉ số thu nhập trên tổng
tài sản (Khrawish, 2011).
Các tỷ số đo lường khả năng sinh lợi hay tỷ số lợi nhuận được dùng để đánh giá
kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM, hai tỷ số cơ bản thường được sử dụng là
ROA và ROE (Nguyễn Minh Kiều, 2009).
 Lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity - ROE)
ROE được tính theo công thức: ROE
ROE chính là chỉ số phản ánh hiệu quả của vốn chủ sở hữu. Nói cách khác, tỷ số
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là chỉ số đo lường hiệu quả đầu tư của vốn chủ sở hữu.
Bản chất chỉ số này phản ánh được khả năng tạo ra lợi nhuận từ một đồng vốn mà nhà

đầu tư đầu tư vào ngân hàng cho nên luôn nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nhà
đầu tư.


16

 Lợi nhuận trên tổng tài sản (Return on Assets - ROA)
ROA là chỉ số đo lường khả năng các NHTM quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính
để tạo ra lợi nhuận. Tương tự ROE, ROA được tính theo công thức:

ROA
Trong đó, số liệu lợi nhuận sau thuế được lấy từ báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Tổng tài sản hay tổng vốn chủ sở hữu được lấy từ bảng cân đối kế toán.
Theo Trần Huy Hoàng (2011), khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, người
ta thường dùng các chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận ngoài ROE, ROA như đã đề cập
bên trên còn có:
-

Tỷ lệ thu nhập cận biên dùng để đo lường khả năng sinh lời và hiệu quả của
ngân hàng, bao gồm các chỉ tiêu như:

 Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM – Net Interest Margin): là chênh lệch giữa thu
nhập và chi phí lãi chia cho tài sản sinh lãi. Tỷ lệ này được các ngân hàng quan
tâm vì có thể giúp ngân hàng dự báo khả năng sinh lãi thông qua việc kiểm soát
chặt chẽ tài sản có khả năng sinh lời và tìm kiếm nguồn vốn có chi phí thấp.
 Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NM – Non Interest Margin): là tỷ lệ đo lường
mức chênh lệch giữa thu dịch vụ (thu ngoài lãi) với các chi phí ngoài lãi
(lương, chi phí tổn thất tín dụng, chi phí bảo hành thiết bị,…)
 Tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM - Net Profit Margin): phản ảnh hiệu quả của
việc quản lý chi phí và các chính sách định giá dịch vụ. Tỷ lệ này được xác

định bằng cách lấy thu nhập sau thuế chia cho tổng thu từ hoạt động.
-

Thu nhập trên cổ phiếu (EPS – Earning per Share): được tính bằng cách lấy thu
nhập sau thuế chia cho tổng số cổ phiếu thường phát hành.

-

Tỷ lệ tài sản sinh lời: cho thấy tỷ lệ phần trăm của tài sản sinh lời trong tổng tài
sản của ngân hàng. Trong đó, tổng tài sản sinh lời bao gồm các khoản cho vay,
cho thuê, đầu tư chứng khoán.


17

2.3 TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
RRTD dẫn đến phát sinh nợ xấu là không tránh khỏi, nợ xấu luôn song hành
cùng hoạt động tín dụng mà xuất phát từ mối quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro, vì vậy
lợi nhuận thu được từ các hoạt động tín dụng càng cao thì ngân hàng đã chấp nhận đối
mặt với RRTD càng lớn và nguy cơ phát sinh nợ xấu càng cao. RRTD phát sinh ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ thống NHTM và môi trường kinh tế, từ đó sẽ
gây nên những tác động nghịch chiều đối với nền kinh tế và cũng là nguyên nhân suy
giảm hệ thống tài chính quốc gia từ đó ảnh hưởng đáng kể đến môi trường hoạt động
của các mặt hoạt động kinh doanh nói chung và HQKD nói riêng của NHTM.
Như đã phân tích ở mục 2.2, HQKD của NHTM được hiểu như là một tiêu chí
quan trọng đánh giá sự ổn định và xu hướng phát triển của NHTM. Một NHTM kinh
doanh có hiệu quả không chỉ đơn thuần gia tăng lợi nhuận mà còn phải xem xét
NHTM xu hướng phát triển và phải đảm bảo an toàn cho các hoạt động chấp nhận rủi
ro ở mức thấp nhất, sự phát triển NHTM ổn định, không tạo nên bất kỳ bất ổn hay rủi

ro cho sự phát triển của hệ thống tài chính và môi trường kinh tế vĩ mô. Vì vậy khi
bàn về tác động của RRTD đối với hiệu quả kinh doanh của NHTM chúng ta cần phải
xem xét ở nhiều khía cạnh, tác động RRTD đối với kinh doanh ngân hàng, hệ thống
ngân hàng, và môi trường kinh tế vĩ mô, cụ thể như sau:
2.3.1. Rủi ro tín dụng tác động đến lợi nhuận và rủi ro của ngân hàng thương
mại:
RRTD là vấn đề được các NHTM quan tâm hàng đầu trong hoạt động kinh
doanh, vì tín dụng là nghiệp vụ tạo nên thu nhập chủ yếu cho các NHTM. Khi RRTD
xảy ra, tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động của các NHTM. Ngân hàng không thu
được vốn và lãi đúng hạn dẫn đến tình hình kinh doanh sẽ lâm vào tình trạng khó
khăn, không thu hồi được và việc sử dụng vốn không hiệu quả.
Khi phát sinh RRTD, nợ xấu tăng dẫn đến doanh thu thấp dẫn đến tình trạng
thua lỗ. Hơn nữa kể cả trường hợp không thua lỗ thì do nợ xấu phát sinh, các khoản
chi phí cũng tăng lên đáng kể: bao gồm chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu,
chi phí trích lập dự phòng rủi ro và các chi phí khác liên quan. Việc gia tăng các


18

khoản chi phí khiến cho lợi nhuận còn lại cũng trở nên thấp hơn so với dự tính ban
đầu. Nicolae Petria (2013), RRTD sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến HQKD của ngân hàng
(được đo lường thông qua chỉ số ROE, ROA). Việc trích lập các khoản dự phòng
RRTD sẽ làm chi phí của ngân hàng gia tăng, từ đó lợi nhuận của ngân hàng suy
giảm, điều này có tác động trực tiếp và làm suy giảm hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng (Hasan Ayaydin, 2014).
2.3.2 Rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến HQKD.
Đây là tác động nghiêm trọng nhất của RRTD. Do không thu hồi được các
khoản cho vay, nợ xấu làm kéo dài quá trình luân chuyển vốn của ngân hàng, trong
khi đó ngân hàng vẫn phải thanh toán cho các khoản tiền gửi, ngân hàng phải đối mặt
với nguy cơ mất khả năng thanh toán. Với tỷ lệ nợ xấu ở mức cao còn có thể dẫn đến

thiếu hụt thanh khoản và dẫn đến nguy cơ phá sản của các NHTM. Nợ xấu gây tổn
thất về tài sản cho ngân hàng, nếu nợ xấu ở mức cao không sớm được hạn chế sẽ dẫn
tới hàng loạt các ảnh hưởng xấu. Những tổn thất thường gặp là mất mát khi cho vay,
gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận, giảm sút giá trị của tài sản… làm giảm
uy tín ngân hàng, sự tín nhiệm của khách hàng và có thể dẫn đến mất uy tín của ngân
hàng. Một ngân hàng thua lỗ liên tục, thường xuyên không đủ khả năng thanh khoản
có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng rút tiền hàng loạt của khách hàng, và phá sản là khó
tránh khỏi (Mark Swinburne và cộng sự, 2007).
Như vậy, khi RRTD xảy ra sẽ dẫn đến các rủi ro khác từ đó ảnh hưởng rất lớn
đến sự ổn định của các NHTM, cũng như HQKD.
2.3.3. Rủi ro tín dụng ảnh hưởng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô
RRTD không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM mà còn tác động xấu
đến nền kinh tế, điều này thể hiện qua việc nếu một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng
cao sẽ gây tâm lý hoang mang cho người gửi tiền. Hiệu ứng rút tiền ồ ạt có thể sẽ làm
cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến phá sản. Hoạt động ngân hàng
mang lại tính hệ thống, một ngân hàng đổ vỡ, sẽ kéo theo sự đổ vỡ hàng loạt các ngân
hàng khác, từ đó gây ra sự mất ổn định cho toàn hệ thống ngân hàng và làm suy yếu


19

hệ thống tài chính quốc gia. Mức độ rủi ro tín dụng cao có thể áp đặt các rủi ro hệ
thống trên hệ thống ngân hàng mà sau đó dẫn vào làm tổn hại đến các điều kiện kinh
tế chung của một quốc gia (Vania Andriani1, Sudarso Kaderi Wiryono, 2015)
RRTD có thể dẫn đến nợ xấu tăng cao làm hạn chế khả năng cho vay của ngân
hàng trong khi nhu cầu của các chủ thể nền kinh tế là rất lớn dẫn đến sự trì trệ trong
sản xuất, lãng phí cơ sở vật chất, thất nghiệp gia tăng…ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tốc độ tăng trưởng nền kinh tế. Nợ xấu gia tăng dẫn đến ngân hàng có thể bị phá sản,
từ đó sẽ tạo hiệu ứng lan truyền, suy giảm hệ thống tài chính và to lớn hơn là khủng
hoảng tài chính.

Tỷ lệ nợ xấu tăng cao thể hiện sự yếu kém trong hiệu quả kinh doanh của
NHTM, gây ra thiếu tin tưởng của công chúng vào NHTM, tỷ lệ huy động vốn từ dân
cư thấp, dẫn đến tỷ lệ tích lũy nội bộ thấp, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để tài
trợ cho các hoạt động đầu tư dài hạn, đồng thời làm cho tăng trưởng có xu hướng lệ
thuộc vào nước ngoài, làm cho nợ nước ngoài tăng.
Như vậy RRTD xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế bởi vì hệ thống
ngân hàng là kênh thu hút và cung cấp vốn cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
trong nền kinh tế. Hơn nữa, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản thì hiệu
ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, gây nên khủng hoảng
đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng nghịch chiều đến đời sống xã hội và sự phát
triển của quốc gia. Như vậy, khi RRTD xảy ra, nó không những ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh tế mà còn gây tác động to lớn về mặt xã hội. Ngân hàng Trung
ương tại thời điểm này cần có những động thái điều tiết chính sách tiền tệ thông qua
các công cụ vĩ mô, tín dụng qua hệ thống NHTM và lãi suất là kênh truyền dẫn chính
sách tiền tệ của quốc gia sẽ có tác động đến thay đổi cũng như điều chỉnh chính sách
tín dụng, chính sách quản trị để giúp NHTM vượt qua giai đoạn khó khăn.

2.4 NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN TÁC ĐỘNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG ĐẾN
HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Để có đạt được mục tiêu nghiên cứu đo lường tác động của RRTD đến HQKD
của NHTM thì trước hết tác giả cần phải đánh giá được các yếu tố nào ảnh hưởng đến


20

rủi ro tín dụng và tiếp theo nghiên cứu tác động của RRTD đến hiệu quả kinh doanh
của NHTM.
2.4.1 Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến RRTD của NHTM
Đã có rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến RRTD của NHTM. Các yếu tố vĩ mô được xem xét trong các nghiên cứu:

Rajan & Dhal (2003), phân tích nợ xấu của NHTM ở Ấn Độ với kết quả nghiên
cứu quy mô ngân hàng có ý nghĩa thống kê và tác động ngược chiều đến nợ xấu, tăng
trưởng GDP cao phản ánh điều kiện kinh tế vĩ mô thuận lợi và môi trường kinh doanh
tốt thì nợ xấu có xu hướng giảm.
Fofack (2005), nghiên cứu RRTD, tỷ lệ nợ xấu vùng tiểu bang châu phi Sahara
trong năm 1990. Kết quả cho thấy yếu tố vĩ mô GDP tác động ngược chiều lên nợ xấu,
một cuộc suy thoái kinh tế kéo dài làm tăng nợ xấu. Những thay đổi lãi suất có dấu
hiệu tích cực với nợ xấu, và tỷ lệ lạm phát làm tăng tỷ lệ nợ xấu.
Berge và Boye (2007), nghiên cứu về hệ thống ngân hàng Bắc Âu trong giai
đoạn 1993-2005, kết luận rằng các khoản cho vay có vấn đề có liên quan đáng kể đến
mức lãi suất thực và tỷ lệ thất nghiệp.
Ali và Daly (2010), sử dụng phương pháp phân tích so sánh để điều tra các
biến kinh tế vĩ mô quan trọng đối với hai nước Úc và Mỹ. Họ cũng nghiên cứu các tác
động của các cú sốc kinh tế vĩ mô đến tỷ lệ vỡ nợ ở cả hai nước. Kết quả cho thấy
rằng với cùng một yếu tố kinh tế vĩ mô sẽ tác động khác nhau đến tỷ lệ vỡ nợ của 2
nước, mặc dù nền kinh tế Mỹ có nhiều nhạy cảm hơn với tác dụng phụ của những cú
sốc kinh tế vĩ mô.
Festic et al. (2011), nghiên cứu một dữ liệu bảng cho 5 nước thành viên mới
của EU (Bulgaria, Romania, Estonia, Latvia và Lithuania). Họ phân tích các mối quan
hệ giữa tỷ lệ của các khoản nợ xấu và các biến kinh tế vĩ mô. Họ nhận ra rằng sự suy
giảm trong hoạt động kinh tế, tăng trưởng tín dụng và tài chính, và thiếu sự giám sát
gây ra một sự suy giảm trong việc xử lý nợ xấu.


21

Kester Guy và Shane Lowe (2011), nghiên cứu về nợ xấu và sự bền vững ngân
hàng tại Barbados từ 1996 – 2010. Tăng trưởng GDP với việc mở rộng kinh tế sẽ
giảm nợ xấu. Khi lạm phát tăng dẫn đến giảm tỷ lệ nợ xấu; phát hiện thấy lãi suất có
tác động nghịch chiều liên quan đến nợ xấu, giải thích cho điều này là khi nền kinh tế

tăng trưởng và mở rộng tín dụng, lãi suất trong hệ thống ngân hàng có xu hướng di
chuyển lên cùng lúc.
Bofondi, Marcello và Tiziano Ropele (2011), nghiên cứu các yếu tố vĩ mô tác
động đến chất lượng các khoản vay đối với hộ gia đình và doanh nghiệp tại ngân hàng
ở Italy từ 1990-2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy nợ xấu tỷ lệ nghịch với tốc độ tăng
trưởng GDP và cùng chiều tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất.
Castro (2013), xem xét mối liên hệ giữa phát triển kinh tế vĩ mô và RRTD với
mẫu nghiên cứu là 5 ngân hàng châu Âu (Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
và Ý). Kết quả chỉ ra rằng RRTD ngân hàng bị ảnh hưởng đáng kể bởi sự tăng trưởng
GDP, chỉ số giá nhà ở, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất, tăng trưởng tín dụng, tỷ giá hối đoái
thực, và cuộc khủng hoảng tài chính gần đây.
Andriani, Wiryono (2015) tìm các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng từ năm
2002 đến năm 2013 của các ngân hàng Indonesia. Sử dụng biến nợ xấu để đại diện
cho rủi ro tín dụng, bài nghiên cứu xem xét mức độ ảnh hưởng của các biến trong nội
tại ngân hàng đến đến rủi ro tín dụng. Phương pháp ước lượng GLS được cho là hợp
lý hơn phương pháp OLS với những thay đổi trong phương sai phần dư.
Mặt khác, cũng có rất nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra một số đặc điểm trong
ngân hàng cũng có liên quan đến các khoản cho vay có vấn đề. Tại Ấn Độ, Rajaraman
et al. (1999) đã kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến các khoản cho vay có vấn đề. Tuy
nhiên nghiên cứu giới hạn trong một năm (1996- 1997) và sử dụng các biến vĩ mô để
giải thích các khoản vay có vấn đề, đây là một hạn chế của mô hình. Bởi vì, các nhà
nghiên cứu cho rằng các khoản vay có vấn đề là kết quả của cả kinh tế vĩ mô cũng như
các yếu tố kinh tế vi mô. Trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, thu nhập của người đi
vay sẽ giảm, kết quả là họ sẽ khó trả nợ hơn, qua đó có thể phát sinh nhiều khoản vay
có vấn đề. Đồng thời, các yếu tố trong nội bộ ngân hàng, chẳng hạn như hiệu quả hoạt


22

động thấp và việc mở rộng quá nhiều chi nhánh cũng có thể dẫn đến sự gia tăng của

các khoản vay có vấn đề.
Khemraj & Pasha (2009), nghiên cứu các yếu tố quyết định đến nợ xấu ở
Guyana 1994-2004, kết quả cho thấy quy mô ngân hàng có ý nghĩa thống kê và tác
động tích cực đến nợ xấu, tăng trưởng GDP tỷ lệ nghịch với các nợ xấu, sự cải thiện
trong nền kinh tế sẽ làm nợ xấu thấp hơn. Các ngân hàng tính lãi suất tương đối cao
hơn và cho vay quá mức có thể sẽ phải chịu nợ xấu cao hơn, một ngân hàng tăng lãi
suất điều này có thể tăng nợ xấu.
Sau khi lược khảo một số các nghiên cứu trước, có thể nhận thấy rằng để tìm
hiểu các yếu tố tác động đến RRTD, hầu hết các nghiên cứu các yếu tố quyết định tỷ
lệ nợ xấu. Salas và Saurina (2002), đã kết hợp các biến kinh tế vĩ mô và vi mô để
nghiên cứu sự tác động đến nợ xấu của ngân hàng Tây Ban Nha trong giai đoạn 19851997. Kết luận yếu tố nội tại của ngân hàng có thể sử dụng như là chỉ số cảnh báo sớm
cho những thay đổi trong tỷ lệ nợ xấu trong tương lai. Kết quả cho thấy ngân hàng có
quy mô lớn hơn sẽ có nợ xấu ít hơn, tăng trưởng tín dụng nhiều sẽ dẫn tới nợ xấu
nhiều hơn. Ngoài ra, còn phát hiện mối quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng GDP và
tỷ lệ nợ xấu.
Boudriga et al. (2009), nghiên cứu các yếu tố từ phía ngân hàng, môi trường
kinh doanh và môi trường thể chế của 46 ngân hàng tại 12 Quốc gia của vùng Trung
Đông và Bắc Phi: trong giai đoạn 2002-2006. Kết quả cho thấy sự tham gia của nước
ngoài đến từ các nước phát triển sẽ làm giảm nợ xấu. Tuy nhiên, không có bằng chứng
cho thấy các ngân hàng quốc doanh gặp nợ xấu cao hơn. Quy mô vốn lớn thì nợ xấu
lớn, tăng trưởng tín dụng cao thì giảm nợ xấu. Trong môi trường kinh doanh chất
lượng thông tin được chia sẻ giữa ngân hàng và khách hàng tỷ lệ nghịch với nợ xấu,
tăng cường chất lượng của môi trường thể chế sẽ làm giảm nợ xấu.
Zribi và Boujelbène (2011), xem xét cả hai biến kinh tế vĩ mô và vi mô có khả
năng kiểm soát RRTD. Sử dụng dữ liệu bảng cho 10 NHTM Tunisia trong giai đoạn
1995-2008. Kết luận rằng các yếu tố quyết định chính đến RRTD của các ngân hàng ở
Tunisia là cơ cấu sở hữu, các quy định bảo đảm an toàn vốn, lợi nhuận và các chỉ số


23


kinh tế vĩ mô (tăng trưởng nhanh chóng của GDP, lạm phát, tỷ giá hối đoái, và lãi
suất).
Louzis et al. (2012) sử dụng phương pháp Dynamic Panel Data trong giai đoạn
2003-2009 để nghiên cứu các yếu tố kinh tế vĩ mô và các biến trong ngân hàng ảnh
hưởng đến nợ xấu trong hệ thống ngân hàng của Hy Lạp với các khoản vay (cho vay
tiêu dùng, cho vay kinh doanh, và thế chấp). Tác giả nhận thấy rằng các khoản vay có
vấn đề trong hệ thống ngân hàng Hy Lạp được giải thích chủ yếu là do các biến kinh
tế vĩ mô (tăng trưởng GDP thực tế, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất, và nợ công). Ngoài ra,
những vấn đề này được giải thích bởi một số yếu tố trong ngân hàng cụ thể như các
chỉ số hiệu suất và hiệu quả. Chỉ số ROE và ROA được tìm thấy tác động nghịch
chiều đến nợ xấu. Chỉ số thiếu hiệu quả tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê với
nợ xấu.
Ahlem Selma Messai (2013), nghiên cứu yếu tố tác động đến nợ xấu của 85
ngân hàng trong ba nước (Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha) trong giai đoạn 2004-2008,
những quốc gia đã phải đối mặt với vấn đề tài chính sau cuộc khủng hoảng cho vay
dưới chuẩn vào năm 2008. Sử dụng dữ liệu bảng, nghiên cứu nhận thấy tốc độ tăng
trưởng của GDP, ROA tác động nghịch chiều với nợ xấu, tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất
tác động tích cực với nợ xấu.
Marijana Curak, Sandra Pepur và Klime Poposki (2013), nghiên cứu các yếu tố
quyết định nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Đông Nam Châu Âu với mẫu là 69 ngân
hàng tại 10 quốc gia trong giai đoạn 2003-2010. Kết quả cho thấy tăng trưởng kinh tế
thấp, lạm phát cao và lãi suất cao làm tăng nợ xấu. Ngoài ra, tác giả còn tìm thấy mối
quan hệ nghịch chiều giữa quy mô ngân hàng và nợ xấu, các ngân hàng lớn có thể giải
quyết tốt vấn đề thông tin bất cân xứng. Với nhân viên có kinh nghiệm và trình độ cao
và thông tin có chất lượng tốt, các ngân hàng lớn sẽ hiệu quả hơn trong phân tích tín
dụng và giám sát các khoản cho vay tới khách hàng.
Tehulu và cộng sự (2014), nghiên cứu được thực hiện để kiểm tra các yếu tố
ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Ethiopia. Phương pháp
nghiên cứu định lượng được áp dụng cho nghiên cứu này với dữ liệu bảng được thu

thập từ 10 NHTM Nhà nước và tư nhân từ năm 2007 đến năm 2011. Phân tích sử


24

dụng hiệu ứng ngẫu nhiên GLS hồi quy với kết quả hồi quy cho thấy tăng trưởng tín
dụng và quy mô của ngân hàng có tác động ngược chiều và có ý nghĩa thống kê đến
rủi ro tín dụng. Trong khi đó, hoạt động kém hiệu quả và tỷ lệ sở hữu có tác động tích
cực và có ý nghĩa thống kê đến rủi ro tín dụng. Cuối cùng, kết quả cho thấy lợi nhuận,
an toàn vốn và thanh khoản ngân hàng có mối quan hệ ngược chiều nhưng không
đáng kể về mặt thống kê đối với RRTD.
Hasna Chaibi và Zied Ftiti (2015), nghiên cứu tiếp cận phương pháp Dynamic
Panel Data để kiểm tra yếu tố tác động đến nợ xấu của các NHTM trong nền kinh tế
thị trường (đại diện là Pháp), so với một nền kinh tế dựa trên ngân hàng (đại diện là
Đức), trong 2005-2011. Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố đến chất lượng tín dụng
cho rằng có những hiệu ứng khác nhau giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau. Các
câu hỏi chính được thảo luận là các yếu tố tác động đến RRTD của hai nước. Kết quả
chỉ ra rằng ngoại trừ các tỷ lệ lạm phát, tập hợp các biến kinh tế vĩ mô được sử dụng
đều ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu của cả nền kinh tế. Kết quả này được giải thích bởi
thực tế là cả hai nền kinh tế thuộc khu vực đồng tiền chung Euro. Ngoài ra, nghiên
cứu cho thấy rằng so với Đức, nền kinh tế Pháp là nhạy cảm hơn với yếu tố trong nội
tại ngân hàng.
Đào Thị Thanh Bình và Đỗ Vân Anh (2013), sử dụng dữ liệu bảng nghiên cứu
các nhân tố ảnh hưởng đến nợ xấu với mẫu 14 NHTM Việt Nam từ 2008-2012, kết
quả cho thấy các biến kinh tế vĩ mô là không có ý nghĩa đáng kể về mặt thống kê khi
tác động đến các khoản nợ xấu. Quy mô ngân hàng có ý nghĩa thống kê, thể hiện mối
quan hệ đồng biến với nợ xấu, điều đó chỉ ra rằng giả thuyết “quá lớn để sụp đổ” là
đúng trong bối cảnh của Việt Nam. Tỷ số ROE có tác động nghịch chiều đến tỷ lệ nợ
xấu. Tỷ lệ nợ xấu của các năm trước cao có thể làm cho vấn đề hiện tại trở nên
nghiêm trọng hơn.

Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013) cũng sử dụng dữ liệu bảng được
để nghiên cứu 10 ngân hàng từ năm 2005 đến 2011 về các nhân tố ảnh hưởng đến nợ
xấu. Kết quả cho thấy các yếu tố vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng GDP tác động đáng
kể đến nợ xấu trong giai đoạn nghiên cứu. Tỷ lệ nợ xấu của năm trước và mức độ tăng
trưởng tín dụng ảnh hưởng mạnh lên tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng. Nghiên cứu còn


25

chỉ rằng một ngân hàng có mức nợ xấu cao hiện tại sẽ có tỷ lệ nợ xấu cao trong năm
tiếp theo, tăng trưởng tín dụng cao chưa làm tăng nợ xấu ngay lập tức mà sẽ có một độ
trễ sau một năm. Ngân hàng dành ít nỗ lực để đảm bảo chất lượng khoản vay sẽ có chi
phí hoạt động thấp, đồng thời cũng dẫn đến nợ xấu cao hơn. Quy mô có mối quan hệ
cùng chiều với nợ xấu, ngân hàng lớn thường mạo hiểm hơn trong việc cho vay, nợ
xấu sẽ cao hơn. Tỷ lệ nợ trên tổng tài sản tác động tích cực lên nợ xấu, ngân hàng
chấp nhận rủi ro cao khả năng dẫn đến nợ xấu cao.
Võ Thị Quý và Bùi Ngọc Toản (2014), nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
RRTD trên 26 NHTM giai đoạn 2009 – 2012. Dữ liệu bảng với phương pháp GMM
được sử dụng để khắc phục hiện tượng tự tương quan bậc nhất giữa các sai số và hiện
tượng biến nội sinh để đảm bảo các ước lượng thu được vững và hiệu quả. Kết quả
nghiên cứu cho thấy RRTD ngân hàng trong quá khứ với độ trễ một năm (LLRi,t-1), tỷ
lệ tăng trưởng tín dụng trong quá khứ với độ trễ một năm (LGi,t-1) và tỷ lệ tăng trưởng
GDP trong quá khứ với độ trễ một năm (∆GDPi,t-1) tác động có ý nghĩa đến RRTD
NHTM Việt Nam.
Nguyễn Thị Ngọc Diệp và Nguyễn Minh Kiều (2015), nghiên cứu nhằm mục
tiêu xác định nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng ảnh hưởng đến RRTD tại các NHTM
Việt Nam, bằng cách sử dụng dữ liệu bảng với phương pháp hồi quy bình phương bé
nhất (OLS). Từ đó, đưa ra một số gợi ý đối với nhà đầu tư cá nhân và góp phần giúp
các nhà quản lý ngân hàng nhận diện tác động ngược chiều của các yếu tố đặc điểm
ngân hàng đến RRTD, giúp kiểm soát tốt các tác động từ việc đẩy mạnh cho vay. Dữ

liệu trong nghiên cứu được thu thập từ số liệu trong báo cáo tài chính của 32 NHTM
Việt Nam từ năm 2010 đến 2013. Nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố tác động đến RRTD
là: tăng trưởng tín dụng, quy mô dư nợ, và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt
động cho vay.


×