VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC TUẤN
TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI , 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN QUỐC TUẤN
TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành
: Chính trị học
Mã số
: 60 31 02 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Đình Hảo
HÀ NỘI , 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Chính
trị học “Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Quốc Tuấn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH
ĐẠO .................................................................................................................. 7
1.1. Cán bộ lãnh đạo và trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ..................... 7
1.2. Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong một số lĩnh vực .............. 17
1.3. Mối quan hệ của trách nhiệm chính trị với các phạm trù trách nhiệm khác....... 23
Chương 2. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO Ở QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................ 29
2.1. Khái quát về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ......................................... 29
2.2. Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà
Nội ................................................................................................................... 34
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM
CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI ................................................................................................................... 56
3.1. Một số quan điểm và phương hướng nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị
của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ............................... 56
3.2. Một số giải pháp ........................................................................................ 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ủy ban nhân dân
: UBND
Hội đồng nhân dân
: HĐND
Cơ quan hành chính nhà nước
: CQHCNN
Cơ quan nhà nước
: CQNN
Cơ quan chuyên môn
: CQCM
Mặt trận tổ quốc
: MTTQ
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta đã có những
đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ: "Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước
trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện,
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được
nhân dân tin tưởng”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ những
thành tựu 30 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó
có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo được
tôi luyện, trưởng thành qua thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần
độc lập tự chủ, trung thành với lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân
ta đã lựa chọn, có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chịu trách
nhiệm với những quyết định của mình trước Đảng và nhân dân, là nhân tố quan
trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước.
Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo luôn được đề cao trong việc thực
hiện những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Trong nhà nước pháp quyền,
nếu vi phạm công vụ làm ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức thì phải chịu trách nhiệm
tương xứng với tính chất và mức độ hành vi vi phạm, đặc biệt là trách nhiệm của
cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng nhà
nước pháp quyền, việc đề cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà
nước là một việc làm cần quan tâm hơn nữa trong việc cải cách hành chính nhà
nước và thực hiện tốt việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, nhà nước ta đang thực hiện cải cách hành chính và hướng đến xây
dựng nhà nước pháp quyền, vì vậy đặt ra yêu cầu đối với mỗi cán bộ công chức trong
việc thực thi nhiệm vụ ngày càng cao, đặc biệt là phải chịu trách nhiệm trong thực hiện
nhiệm vụ được giao nhất là đối với người cán bộ lãnh đạo. Người cán bộ lãnh đạo phải
làm gương, đi đầu, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, từ đó làm nền tảng cho
công cuộc cải cách một cách có hiệu lực và hiệu quả.
1
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm
2013; Luật tổ chức Chính phủ ngày 19/6/2015; Luật tổ chức chính quyền địa
phương 19/6/2015; Luật Phòng chống tham nhũng ngày 29/11/2005; Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí ngày 29/11/2005; Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước ngày 18/6/2009; Luật cán bộ, công chức ngày 13/11/2008... Những văn
bản pháp luật đó là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho việc thực thi công vụ của
cán bộ lãnh đạo cơ quan nhà nước.
Sự cần thiết phải nghiên cứu về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
xuất phát từ thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện
nay. Bên cạnh những mặt đạt được, thực tiễn thực hiện trách nhiệm chính trị của
cán bộ lãnh đạo còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của Trung ương Đảng, cụ thể là:
Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã nêu: “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo,
quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ,
tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Tuy nhiên, rất khó định lượng cụ thể
“một bộ phận” hay “một bộ phận không nhỏ” là bao nhiêu người trong đội ngũ cán
bộ, công chức ở nước ta. Việc xử lý trách nhiệm người cán bộ lãnh đạo trong thực
tiễn chưa đạt được như mong đợi, ở nhiều nơi, nhiều cấp, còn xảy ra tình trạng người
cán bộ lãnh đạo có những hành vi vi phạm, gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội
nhưng vẫn ung dung trong hàng ngũ công quyền, trong quá trình xử lý vẫn còn tình
trạng nể nang, né tránh. Vì vậy, tiếp tục nâng cao sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
của nhà nước trong việc xử lý trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là yêu cầu
cấp bách đặt ra hiện nay.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
đã được tiến hành từ lâu, song do gắn với chỉnh thể chung trong việc tham mưu cho
Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật nên vấn đề này chưa được tách ra và bàn
2
luận cụ thể. Việc tiếp tục tìm hiểu toàn diện về vấn đề này để có sự đánh giá khách
quan và chi tiết giúp tham mưu cho Đảng và Nhà nước ta hoàn thiện vấn đề này
trong lãnh đạo, quản lý là yêu cần cần thiết tập trung nghiên cứu hiện nay.
Vì vậy, tôi chọn “Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo được một số tác giả nghiên cứu và đề
cập ở những khía cạnh khác nhau dưới nhiều hình thức như bài viết khoa học, bài tham
luận, báo chí như:
- Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, PGS. TS. Trịnh Đức Thảo - Phó viện trưởng Viện Nhà
nước và Pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
Tạp chí cộng sản, TS. Nguyễn Minh Phương, Viện Khoa học tổ chức, Bộ Nội vụ;
- Xác định rõ trách nhiệm trong quản lý hành chính nhà nước, Ths. Trần Thị Thanh
Mai, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực I;
- Vai trò người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện công tác
cải cách hành chính, tác giả Huỳnh Duy Nhân ();
- Vai trò người đứng đầu trong chống tham nhũng, tác giả Hồng Hải,
();
- Xử tham nhũng nhưng chưa “đụng” đến người đứng đầu, tác giả Quốc Thanh
( />Những bài viết đó đã luận giải một số khía cạnh khác nhau về trách nhiệm của cán
bộ lãnh đạo. Tuy nhiên, các bài viết chỉ phản ánh ở mức độ nghiên cứu hẹp và đi vào những
vấn đề mang tính chất cụ thể mà chưa bàn luận toàn diện vấn đề, nhất là trách nhiệm chính
trị của cán bộ lãnh đạo tại một quận nội thành của thành phố Hà Nội.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu chưa được hệ thống hóa một cách toàn
diện những vấn đề cơ bản về lý luận và pháp lý về trách nhiệm chính trị của cán bộ
3
lãnh đạo từ đó chưa có cơ sở xác định và cân nhắc việc xử lý trách nhiệm của cán bộ
lãnh đạo khi có vi phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu của luận văn với mục đích làm rõ vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý
về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Nhà nước. Phản ánh
thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà
Nội trong một số lĩnh vực hoạt động. Từ đó, đưa ra các giải pháp nâng cao trách nhiệm
chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo.
- Thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu trách nhiệm chính trị của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân
quận; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND; Chủ tịch UBND phường trên địa
bàn quận Đống Đa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là phạm vi lớn với nhiều nội dung, trong
khuôn khổ của luận văn chỉ tập trung luận giải về một số nội dung sau:
- Phạm vi về không gian: nghiên cứu và đánh giá thực trạng về trách nhiệm của
cán bộ lãnh đạo tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, là quận trung tâm của Thủ đô, các
vấn đề đặt ra của quận Đống Đa trong quản lý cần được quan tâm kịp thời.
- Phạm vi về thời gian: khảo sát nghiên cứu thực trạng về trách nhiệm chính trị
và xử lý trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
từ năm 2010 đến nay.
4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu để thực hiện luận văn là:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Việc nghiên cứu luận văn dựa trên
kết quả phân tích tài liệu thứ cấp là các công trình nghiên cứu có liên quan đến trách
nhiệm của cán bộ lãnh đạo. Qua đó, kế thừa và bổ sung thêm những kết quả của nghiên
cứu trước. Từ những tài liệu tác giả luận văn có sự phân tích, tổng hợp và đưa ra những
luận giải riêng về vấn đề trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo.
- Phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tế: Với phương pháp này, tôi
đã tiến hành khảo sát ý kiến của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đang làm ở cơ
quan Đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố
Hà Nội về đánh giá trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trên một số lĩnh vực quan
trọng và mang tính thời sự hiện nay.
- Phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; thu thập số liệu: tác giả luận
văn chủ yếu tiến hành phân tích các quy định pháp luật cũng như các báo cáo công tác
các lĩnh vực nghiên cứu của các cơ quan tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trên cơ
sở đó tổng hợp, thu thập số liệu và rút ra những điểm khái quát nhằm phục cho các
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh: Nghiên cứu trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
bằng cách so sánh quy định về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong văn bản
pháp luật này với văn bản pháp luật khác xem đã bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
chưa hay có mâu thuẫn, chồng chéo không.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận, luận văn góp phần định hình và làm vững chắc thêm khung lý luận
về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong cơ quan nhà nước.
5
- Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu
hoàn thiện các quy định của pháp luật, việc thực thi các quy định của pháp luật về trách
nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nói
riêng và cả nước nói chung. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên, học viên Học viện khoa học xã hội và các cơ sở đào tạo về lý luận chính trị. Từ
những kết quả nghiên cứu của luận văn là căn cứ để tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu
hơn về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn bao gồm các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo.
Chương 2: Thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa,
thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
6
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO
1.1. Cán bộ lãnh đạo và trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
1.1.1. Một số khái niệm
a) Chính trị
Thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ một danh từ tiếng Hy Lạp là “polis”, là
một trong những khái niệm cho đến nay vẫn chưa được xác định thống nhất trong giới
khoa học, thậm chí còn gây ra những cuộc tranh luận gay gắt. Trong khi đó, quan niệm
hiện đại về chính trị có rất nhiều nghĩa. Trong nhiều cuốn từ điển chính trị được hiểu
theo các nghĩa như sau [23]:
- Là một bộ phận của đạo đức có liên hệ nhiều hơn với cơ cấu nhà nước hay cơ
cấu xã hội nói chung so với cá nhân riêng biệt; một bộ phận của triết học đạo đức có
liên quan với những quan hệ và nghĩa vụ đạo đức của chính phủ hay các tổ chức xã hội
khác; đạo đức xã hội.
- Là hoạt động chính trị hay là thực tiễn chính trị;
- Là quan hệ chính trị hay là cuộc cạnh tranh giữa các nhóm lợi ích xung đột với
nhau, cũng như các cá nhân vì quyền lực và vai trò thủ lĩnh.
- Là sự lãnh đạo chính trị (thực hiện chính sách, đường lối) vì cá mục đích
riêng tư.
- Là các nguyên tắc, các chính kiến, các ý kiến hay sở thích chính trị của các cá
nhân riêng tư.
- Là tổng thể các mối quan hệ tương tác hay cạnh tranh giữa những người sống
trong cùng một xã hội.
- Là khoa học chính trị.
Mỗi nhóm nghiên cứu có cách thức định nghĩa riêng về chính trị. Theo quan
điểm của mỗi nhóm họ có xu hướng tìm hiểu nghiên cứu về chính trị đi theo những
hướng khác nhau, từ đó rút ra những kết luận khác nhau về chính trị:
7
Nhóm định nghĩa xã hội học về chính trị họ căn cứ trên cách tiếp cận xã hội
học, các định nghĩa chính trị thông qua những hiện tượng xã hội khác nhau như: kinh
tế, nhóm xã hội, pháp luật, đạo đức, văn hóa, tôn giáo.
Nhóm các định nghĩa thực thể luận về chính trị:
Nhóm định nghĩa này định hướng vào việc vạch ra cơ sở đầu tiên cấu thành chính
trị. Trong nhóm này phổ biến nhất là định nghĩa về chính trị như hành động hướng vào
quyền lực: giành lấy nó, giữ lấy và sử dụng nó. Theo M. Weber, chính trị là “khát vọng
tham gia vào quyền lực hay là có ảnh hưởng tới việc phân chia quyền lực, cho dù là giữa
các quốc gia, giữa các nhóm người ở bên trong một quốc gia”.
Nhóm định nghĩa khoa học kiến tạo cho rằng: các hoạt động chính trị vạch ra
tính động thái, quá trình chính trị. Họ đánh giá chính trị như là quá trình soạn thảo,
thông qua và thực hiện những quyết định bắt buộc đối với toàn thể xã hội. Quan niệm
như vậy về chính trị cho phép phân tích những giai đoạn thực hiện quan trọng nhất của
nó. Những giai đoạn đó bao gồm: xác định mục đích chính trị, thông qua quyết định; tổ
chức quần chúng và huy động các nguồn lực để thực hiện các mục đích ấy; điều tiết
hoạt động chính trị…
Khái quát các nhóm định nghĩa về chính trị, chúng ta có thể khái quát định
nghĩa về chính trị như sau: Chính trị là hoạt động của các nhóm xã hội và của cá
nhân nhằm nhận thức và thể hiện lợi ích tập thể mẫu thuẫn của mình, nhằm hoạch
định những quyết sách bắt buộc đối với toàn thể xã hội, được thực hiện nhờ quyền
lực nhà nước”.
b) Trách nhiệm chính trị
* Quan niệm về trách nhiệm
Thuật ngữ trách nhiệm được sử dụng rất phổ biến trong ngôn ngữ đời sống
hằng ngày cũng như trong những các văn bản pháp luật. Trong tiếng Anh, có hai
thuật ngữ cùng được hiểu là „„trách nhiệm”: Một là “responsibility”; Hai là
“accountability”. Hai từ này thường được dùng thay thế cho nhau, tuy nhiên, có sự
khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ trách nhiệm với nghĩa là “responsibility” thường
được hiểu là việc phải làm, như là bổn phận, nghĩa vụ [13]. Còn "accountability" có
8
nghĩa rộng hơn responsibility, không chỉ có nghĩa là những việc phải làm, mà còn
bao gồm việc đứng ra nhận và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện những việc đó.
“Trách nhiệm” theo nghĩa là “Accountability” thể hiện khả năng của một cá nhân, tổ
chức thừa nhận về những gì mình đã làm khi thực hiện một việc nào đó; đồng thời,
nó bao hàm nghĩa vụ giải thích, báo cáo, thông tin, biện giải về những việc đó và
những hệ quả, cũng như việc sẵn sàng chịu sự đánh giá, phán xét, thậm chí là trừng
phạt cả về mặt pháp lý và đạo đức đối vói những hệ quả đó.
Ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “trách
nhiệm”. Một số tác giả tiếp cận thuật ngữ “trách nhiệm” theo nghĩa là nghĩa vụ,
nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn. Ví dụ, tác giả Đỗ Minh Hợp hiểu trách nhiệm là
“bổn phận phải thực hiện, nó còn là điều không được làm, được làm, phải làm và
nên làm (...). Trách nhiệm là những gì mà họ buộc phải làm và phải chịu sự giám sát
của người khác” [25]. Theo tác giả Nguyễn Văn Phúc, trách nhiệm “thường được
hiểu là khả năng của con người ý thức được những kết quả hoạt động của mình,
đồng thời là khả năng thực hiện một cách tự giác những nghĩa vụ được đặt ra cho
mình” [41]. Còn tác giả Cao Minh Công thì cho rằng “trách nhiệm là sự thực hiện
bổn phận, nghĩa vụ của chủ thể đối với người khác, với xã hội một cách tự giác.
Trách nhiệm đối lập với vô trách nhiệm, gắn liền với chịu trách nhiệm” [9, tr.43].
Một số tác giả lại hiểu trách nhiệm có nghĩa là “chịu trách nhiệm” với hàm ý
là phải gánh một hậu quả bất lợi nào đó. Tác giả Lê Như Thanh cho rằng trách
nhiệm “đó là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính trừng phạt của nhà nước) mà
công chức phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
được giao phó, tức là khi vi phạm trách nhiệm theo nghĩa tích cực. Trách nhiệm
tiêu cực thể hiện trong việc áp dụng các biện pháp xử lý những chủ thể vi phạm các
nghĩa vụ và quyền” [44, tr. 43]. Trách nhiệm ở đây đồng nghĩa với hậu quả bất lợi
phải gánh chịu, là chịu trách nhiệm khi thực hiện không đúng trách nhiệm theo
nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn.
Như vậy, cả hai góc độ tiếp cận trên đây về trách nhiệm đều có những điểm hợp
lý, tùy vào mục đích vận dụng mà có thể dùng một trong hai cách hiểu cho phù hợp.
9
* Trách nhiệm chính trị
Trách nhiệm chính trị là loại trách nhiệm rất quan trọng của cán bộ lãnh đạo.
Đây là loại hình trách nhiệm được xác định bởi các quan hệ và thể chế chính trị.
Việc thiết lập nên chủ thể của trách nhiệm chính trị, cơ chế đảm bảo, cũng như chế
tài áp dụng đối với các chủ thể này... đều thông qua cơ chế chính trị. Chủ thể của
trách nhiệm chính trị là những người nắm các chức danh được hình thành thông
qua sự tín nhiệm của cử tri hoặc cơ quan đại diện cử tri, cụ thể là thông qua cơ chế
bầu hay phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm.
Cơ sở của trách nhiệm chính trị là sự tín nhiệm của cá nhân hoặc cơ quan có
thẩm quyền hoặc có ảnh hưởng mang tính quyết định đến chức vụ mà chính khách
đang nắm giữ. Tùy thể chế mà trách nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín
nhiệm của cử tri một cách trực tiếp (người dân trực tiếp bầu) hoặc một cách gián
tiếp - thông qua cơ quan đại diện cử tri (HĐND và Quốc hội). Về nội dung, nhìn
chung trách nhiệm chính trị là trách nhiệm về “hình ảnh chính trị”. Hình ảnh chính
trị của cán bộ lãnh đạo xuất phát từ yếu tố quan trọng và cơ bản nhất, đó là các
chính sách mà cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện. Cán
bộ lãnh đạo có trách nhiệm ban hành và triển khai thực hiện chính sách ở ngành,
lĩnh vực, địa phương mình quản lý.
Chế tài duy nhất của trách nhiệm chính trị, đó là sự “bất tín nhiệm”. “Trách
nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín nhiệm. Và sự bất tín nhiệm chính là
loại chế tài duy nhất ở đây” [15]. Với trách nhiệm chính trị, còn tín nhiệm thì
người cán bộ lãnh đạo còn chức quyền, hết tín nhiệm thì người cán bộ lãnh đạo hết
chức quyền. Người cán bộ lãnh đạo có thể không mắc lỗi và không phải chịu trách
nhiệm pháp lý, nhưng họ phải từ chức, đơn giản vì họ không làm tốt vai trò của mình
và cơ quan, đơn vị cần có những người khác thay thế để làm tốt hơn. Nếu họ không
từ chức, thì sẽ bị bãi nhiệm vì không nhận được đủ sự tín nhiệm của cử tri.
Trên cơ sở phân tích về thuật ngữ “trách nhiệm” và thuật ngữ “chính trị” từ
góc độ quản lý nhà nước có thể hiểu “trách nhiệm chính trị” theo hai hướng như sau:
Một là, Trách nhiệm chính trị là trách nhiệm trong những việc nên làm, phải
10
làm, bao gồm việc tự đứng ra nhận và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện các
nhiệm vụ liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý.
Hai là, Trách nhiệm chính trị là việc chịu trách nhiệm bất lợi, áp dụng các
biện pháp xử lý của pháp luật về kết quả thực hiện nhưng việc nên làm, phải làm,
được làm.
c) Cán bộ lãnh đạo
Theo Luật cán bộ công chức 2008: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [30].
Cán bộ lãnh đạo của tổ chức, thành viên đứng đầu này thể hiện những ứng
xử của mình trong các mối quan hệ giữa mình với các nhân viên và giữa mình với
các chủ thể bên ngoài, chủ thể cấp trên (nếu có). Những ứng xử trong nội bộ tổ
chức là cơ bản, quyết định sự toàn vẹn tư cách chủ thể người cán bộ lãnh đạo, còn
trong mối quan hệ với bên ngoài, ứng xử của cán bộ lãnh đạo tổ chức phản ánh sự
giao tiếp, trao đổi cũng có khi là bổn phận phải báo cáo, phải cung cấp.
Trong phạm vi của đề tài này, những người cán bộ lãnh đạo được đề cập là:
- Chủ tịch ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện);
- Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp xã);
- Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các cấp.
Trong các CQNN cán bộ lãnh đạo sẽ là người chịu trách nhiệm chính quản lý
CQNN nơi mình công tác trong quá trình thực thi công vụ, đó là những ứng xử của
cán bộ lãnh đạo với các thành viên khác của một cơ quan, và đây cũng là những ứng
xử phổ biến, liên tục và cơ bản của người cán bộ lãnh đạo trong các CQNN nói trên.
“Vị trí cao nhất” của cán bộ lãnh đạo được hình thành nên bởi các yếu tố cơ bản là
nghĩa vụ, quyền, việc chịu trách nhiệm. Các yếu tố cụ thể về nghĩa vụ, quyền, việc
11
chịu trách nhiệm của từng cán bộ lãnh đạo các tổ chức khác nhau là không giống
nhau. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm từng tổ chức, từng bối cảnh,
giai đoạn, thời kỳ, từng địa phương, vùng lãnh thổ, quốc gia khác nhau; mối quan
hệ trách nhiệm theo chiều ngang, chiều dọc giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ
thống; mức độ phân cấp giữa cấp trên, cấp dưới; tương quan quyền lực trong tổ
chức; các yếu tố thể chế chính trị, văn hóa, lịch sử... Tuy nhiên, nhìn chung, tất cả
những người ở vị trí đứng đầu có điểm chung, đó là: cán bộ lãnh đạo là người gánh
vác nghĩa vụ lớn lao, nặng nề nhất, tương xứng với nghĩa vụ đó là có quyền lực cao
nhất, quyền lợi nhiều nhất, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm cao nhất về
hoạt động của tổ chức.
Tóm lại, cán bộ lãnh đạo là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị với
những thẩm quyền và trách nhiệm tương ứng để hoàn thành tốt vai trò là người
lãnh đạo.
d) Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
Dưới góc độ là người cán bộ lãnh đạo có các nghĩa vụ mà bất cứ người nào ở
vị trí cao nhất trong tổ chức cũng phải thực hiện, đó là thực hiện vai trò của người
lãnh đạo như: Thiết lập tầm nhìn cho tổ chức; Tập hợp quần chúng; cổ vũ, động
viên toàn bộ đội ngũ; Xây dựng chiến lược cho tổ chức; Ra quyết định; Tạo ra
những sự thay đổi; Tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh, đồng thời thực hiện
vai trò của người quản lý như lập kế hoạch, ngân sách, tổ chức, biên chế, kiểm soát,
và giải quyết vấn đề [51, p.26].
+ Cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước vi phạm của bản thân:
Việc gánh chịu trách nhiệm chính trị do chính hành vi của mình gây ra là lẽ
đương nhiên có ở mỗi vị trí công việc của người cán bộ lãnh đạo. Người cán bộ lãnh
đạo cũng là một thành viên cấu thành tổ chức, cơ quan, đơn vị nên bản thân người cán
bộ lãnh đạo phải gánh chịu trách nhiệm chính trị với bất kỳ hình thức nào, miễn là nó
tương xứng với tính chất, mức độ của sự vi phạm.
+ Khi các thành viên khác của CQNN vi phạm:
Không phải mọi sự vi phạm trong quản lý từ phía các thành viên khác của
12
CQNN đều làm cho cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm. Trước hết, mỗi cá nhân
trong CQNN thuộc sự quản lý của cán bộ lãnh đạo, phải chịu trách nhiệm chính trị
về sự vi phạm công vụ của mình, về phía cán bộ lãnh đạo, trong những trường hợp
nhất định, cán bộ lãnh đạo mới liên đới chịu trách nhiệm chính trị về những vi phạm
do thành viên khác của CQNN gây ra, trong vai trò là người quản lý của CQNN.
Trên cơ sở những phân tích trên về thuật ngữ “trách nhiệm”, “trách nhiệm
chính trị” và “cán bộ lãnh đạo” từ góc độ quản lý, “trách nhiệm chính trị của cán bộ
lãnh đạo” có thể được hiểu như sau:
Một là, Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là những việc mà cán bộ
lãnh đạo nên làm, phải làm, bao gồm việc tự đứng ra nhận và chịu trách nhiệm liên
đới về những vi phạm do thành viên khác của CQNN gây ra, trong vai trò là người
lãnh đạo của CQNN.
Hai là, Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là việc chịu trách nhiệm
bất lợi, áp dụng các biện pháp xử lý của pháp luật về kết quả thực hiện không tốt
những việc nên làm, phải làm, được làm của người cán bộ lãnh đạo.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
Để một chủ thể quản lý nói chung và cán bộ lãnh đạo chịu trách nhiệm chính
trị cần có hai tiêu chí sau:
a) Tiêu chí 1: Căn cứ vào các quy định của pháp luật
Cán bộ lãnh đạo là một định chế pháp lý, vậy không thể quy trách nhiệm và
buộc người cán bộ lãnh đạo gánh chịu hậu quả bất lợi nếu có khi phạm xảy ra mà
thiếu vắng những quy định trong pháp luật về những hành vi nào của cán bộ lãnh
đạo phải chịu trách nhiệm chính trị.
Việc xác định trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo theo các quy định
trong pháp luật gặp khó khăn là các lĩnh vực quản lý thuộc thẩm quyền của cán bộ
lãnh đạo rất đa dạng, phong phú và nhiều khi đan xen với nhau, liên hệ với nhau rất
chặt chẽ, làm cho việc liệt kê những hành vi nào phải chịu trách nhiệm chính trị bao
giờ cũng mang tính tương đối và nằm trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
13
Về pháp lý hiện nay, căn cứ xác định chế độ trách nhiệm chính trị đối với
cán bộ lãnh đạo và cấp phó của cán bộ lãnh đạo được quy định như sau:
+ Căn cứ nghĩa vụ, nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi của cán bộ, công chức và
những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm quy định tại Luật cán bộ,
công chức và các văn bản pháp luật khác liên quan.
Căn cứ vào mối quan hệ và nội dung phân công công tác giữa trách nhiệm
chính trị của cán bộ lãnh đạo với cấp phó của cán bộ lãnh đạo trong chỉ đạo, quản
lý, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước [10].
b) Tiêu chí 2: Căn cứ vào hành vi vi phạm chế độ trách nhiệm chính trị của cán bộ
lãnh đạo
Những hành vi không hợp pháp của cán bộ lãnh đạo chưa hẳn đều bị áp dụng
trách nhiệm chính trị. Để xác định được hành vi nào phải chịu trách nhiệm chính trị,
về lý thuyết pháp luật, hành vi đó phải hội đủ các điều kiện cần thiết (cấu thành vi
phạm pháp luật) để chịu trách nhiệm chính trị.
Theo quy định hiện hành, cán bộ lãnh đạo có hành vi vi phạm những nội
dung sau đây sẽ chịu trách nhiệm chính trị [10]:
+ Chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được
giao lãnh đạo, quản lý.
+ Gương mẫu và nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của cấp trên; tổ chức, điều hành cơ
quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất
lượng và đúng thời hạn được giao; quyết định chủ trương, giải pháp cần thiết để
hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
+ Căn cứ các quy định về phân công, phân cấp và nhiệm vụ, quyền hạn được
giao, ban hành văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của các cấp phó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấu thành hoặc từng cán bộ,
công chức, viên chức thuộc quyền.
+ Tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng lương, cử dự thi
nâng ngạch, quyết định nâng ngạch, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, cho nghỉ chế
14
độ và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
+ Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản công được giao; phòng, chống cháy
nổ và bảo đảm an toàn lao động tại cơ quan, tổ chức, đơn vị.
+ Thực hiện đúng quy định của pháp luật về văn hóa công sở; không để xảy
ra tình trạng cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý có thái độ hách
dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, công vụ.
+ Tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong phạm vi thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật.
+ Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước; về
phát ngôn, khai thác, quản lý và sử dụng mạng Internet trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
+ Các chế độ trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, chỉ có thể áp dụng trách nhiệm chính trị đối với các vi phạm của cán
bộ lãnh đạo khi hội đủ các lý lẽ nêu trên, trong đó quy định của pháp luật về những
hành vi của cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm là nền tảng.
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo
a. Yếu tố khách quan
Các yếu tố thuộc về nhà nước, điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, yếu tố công
dân...là những yếu tố hết sức rộng lớn, ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm
chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nhiều chiều cạnh, mức độ với tính chất khác nhau. Sự
ảnh hưởng này có thể là tích cực hay tiêu cực, trực tiếp hay gián tiếp, ít hay nhiều tùy
thuộc vào bối cảnh, thời điểm cũng như nhiều vấn đề khác có liên quan đến việc thực
hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Nhìn chung, khi điều kiện kinh tế văn hóa - xã hội ổn định, thuận lợi sẽ khiến cho việc thực hiện trách nhiệm chính trị
của cán bộ lãnh đạo dễ dàng đạt kết quả mong muốn và ngược lại.
Trong các yếu tố về điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, yếu tố liên quan đến
văn hóa, đặc biệt là văn hóa quản lý, văn hóa trách nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Trong môi trường mà văn
15
hóa quản lý hướng nhiều đến tính hiệu quả, nhấn mạnh tính trách nhiệm trong thực
thi công việc và đề cao việc chịu trách nhiệm cá nhân sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện tốt trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo, ngay cả khi các yếu tố
pháp luật có thể là chưa hoàn thiện.
Yếu tố công dân bao gồm nhiều yếu tố như trình độ dân trí, nhu cầu, nguyện
vọng, mức độ hợp tác, đặc biệt là năng lực thực thi quyền dân chủ của họ có thể ảnh
hưởng lớn đến việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Khi nhu
cầu và khả năng thực thi quyền dân chủ của công dân ngày càng cao thì cán bộ lãnh
đạo ngày càng phải nâng cao chất lượng thực thi trách nhiệm của mình.
Sự thực thi quyền dân chủ của công dân thể hiện qua nhiều phương diện,
trong đó quan trọng là thực hiện việc giám sát đối với việc thực hiện trách nhiệm
chính trị của cán bộ lãnh đạo qua các cơ quan đại diện cử tri (Quốc hội, HĐND),
qua các phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình, phát thanh, báo chí, Internet),
qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo...
b. Yếu tố chủ quan
Các yếu tố chủ quan thuộc về bản thân cán bộ lãnh đạo, bao gồm hai mặt cơ
bản là Tài và Đức. Đây là yếu tố ảnh hưởng có tính quyết định đến kết quả thực
hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Nếu cán bộ lãnh đạo có đầy đủ năng
lực cũng như đạo đức sẽ là tiền đề để thực hiện tốt trách nhiệm chính trị, đáp ứng
yêu cầu của nhà nước và mong đợi của xã hội. Ngược lại, nếu cán bộ lãnh đạo thiếu
một trong hai yếu tố năng lực hoặc đạo đức thì việc thực thi trách nhiệm khó có thể
đạt kết quả tốt. Đặc biệt, nếu cán bộ lãnh đạo thiếu cả hai yếu tố: vừa kém năng lực,
vừa không có đạo đức trong thực thi công vụ, thì sẽ dẫn đến những hệ lụy không
mong muốn cho nền công vụ và xã hội.
Việc tìm hiểu cụ thể từng yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm
chính trị của cán bộ lãnh đạo là vấn đề lớn, cần dành cho một nghiên cứu độc lập.
Trong khuôn khổ có hạn của đề tài, tôi chỉ tập trung vào hai yếu tố sau đây:
+ Yếu tố pháp luật về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo (một trong
số các yếu tố khách quan thuộc về nhóm yếu tố Nhà nước).
16
+ Yếu tố năng lực và đạo đức của bản thân cán bộ lãnh đạo (yếu tố chủ quan).
Việc lựa chọn hai yếu tố này xuất phát từ tầm quan trọng của chúng đối với
việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo.
1.2. Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong một số lĩnh vực
Mỗi lĩnh vực quản lý đều ghi dấu ấn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý việc
thực hiện trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng
tới lợi ích của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong xã hội. Có thể nói, hoạt
động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo tác động mạnh mẽ đến sự vận hành của xã hội,
gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống của người dân ở từng địa
phương, từng ngành, từng lĩnh vực. Nếu lĩnh vực nào kém phát triển, thì trước hết
phải quy trách nhiệm cho cán bộ lãnh đạo địa phương, lĩnh vực đó. Thực tiễn các
quốc gia trên thế giới và nước ta đã chỉ ra rằng bằng các chính sách, quyết sách do
mình đưa ra, người cán bộ lãnh đạo có thể làm thay đổi đời sống chính trị, xã hội,
kinh tế của một cộng đồng dân cư, một địa phương và cả đất nước. Người cán bộ
lãnh đạo có tầm nhìn bao quát, quán xuyến chung tất các các lĩnh vực tại địa
phương, ngành mình quản lý. Họ là người có trách nhiệm định hướng sự phát triển,
tạo sự ổn định cho các ngành, lĩnh vực mình quản lý. Một lĩnh vực quản lý yếu kém
người cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm, tùy theo mức độ vi phạm sẽ chịu xử lý
bằng các hình thức kỷ luật khác khác nhau như: khiển trách, cảnh cáo, cách chức và
chịu trách nhiệm dân sự, vật chất, hình sự theo quy định của pháp luật.
Người cán bộ lãnh đạo tại địa phương, đơn vị để xảy ra các kết quả tiêu cực
trong thực thi nhiệm vụ trên các ngành lĩnh vực thuộc địa phương, đơn vị mình
quản lý, thì dù không phải là người trực tiếp gây ra kết quả tiêu cực đó nhưng cũng
sẽ phải chịu trách nhiệm trên cương vị là người lãnh đạo địa phương, đơn vị. Trong
trường hợp một lĩnh vực nào đó có kết quả hoạt động tiêu cực, hoặc xảy ra vụ việc
tiêu cực, người cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm và“hình ảnh chính trị” của
họ cũng sẽ bị ảnh hưởng. Người dân sẽ đánh giá mức độ tín nhiệm về năng lực quản
lý, lãnh đạo của cán bộ và ý thức chính trị của cán bộ lãnh đạo ngành, địa phương
để xảy ra vụ việc tiêu cực.
17
1.2.1. Trong lĩnh vực quản lý và sử dụng cán bộ, công chức
Quản lý và sử dụng cán bộ, công chức đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải có
tầm nhìn chiến lược và phương pháp bố trí khoa học nhằm đạt được mục đích cuối
cùng là hiệu quả trong công việc. Nếu trong quá trình quản lý và sử dụng cán bộ,
công chức gặp sai lầm sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn cho tổ chức và đơn vị. Vì vậy
người cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm chung trong hoạt động quản lý và sử
dụng cán bộ, công chức.
- Một số hành vi mà người cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm chính trị [25]:
+ Khi phát hiện cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý vi phạm
pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ, người cán bộ lãnh đạo không có biện
pháp kiên quyết để chấm dứt hành vi vi phạm đó và không kịp thời áp dụng biện
pháp khắc phục có hiệu quả.
+ Không giao nhiệm vụ hoặc giao nhiệm vụ cho cấp dưới không rõ; không
kiểm tra hoặc thiếu kiểm tra, đôn đốc cấp dưới thực hiện.
+ Cấp dưới đã báo cáo, xin chỉ thị những vấn đề thuộc thẩm quyền của người
cán bộ lãnh đạo nhưng không kịp thời giải quyết theo quy định.
+ Đưa ra ý kiến chỉ đạo trái pháp luật, chung chung, không rõ ràng, không
nhất quán, gây lãng phí ngân sách, tài sản của Nhà nước; tham mưu, đề xuất, trình
cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản trái pháp luật;
không thực hiện đúng thời hạn nhiệm vụ được giao.
+ Cấp phó, người đại diện hoặc người được ủy quyền làm trái chế độ, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà pháp luật đã
giao cho người cán bộ lãnh đạo.
+ Để cấp phó và cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý tham
nhũng, lãng phí.
+ Để tình trạng đơn, thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp, kéo dài.
+ Xử lý không nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật của cấp dưới
hoặc bao che cho hành vi vi phạm pháp luật của cấp dưới.
- Hình thức trách nhiệm chính trị tương ứng:
18
Tại Nghị định 157/2007/NĐ-CP, quy định chế độ trách nhiệm đối với người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ.
Trong đó, người cán bộ lãnh đạo được nghiên cứu trong luận văn này cũng là người
nắm giữ trọng trách là người đứng đầu cơ quan, đơn vị. Tùy theo tính chất và mức
độ của hành vi vi phạm, người cán bộ lãnh đạo phải chịu một hoặc nhiều hình thức
trách nhiệm chính trị sau đây:
+ Trách nhiệm kỷ luật: Cán bộ lãnh đạo và cấp phó của người cán bộ lãnh
đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước vi phạm các quy định của pháp luật
trong thi hành nhiệm vụ, công vụ, nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm phải bị xử lý kỷ luật. Việc
xử lý kỷ luật phải tuân theo các quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán
bộ, công chức.
+ Trách nhiệm dân sự: Cán bộ lãnh đạo và cấp phó của người cán bộ lãnh đạo
cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước nếu có hành vi vi phạm pháp luật trong thi
hành nhiệm vụ, công vụ, gây thiệt hại, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, uy
tín của cơ quan, tổ chức, đơn vị đến mức phải chịu trách nhiệm dân sự thì ngoài việc
bị xử lý kỷ luật phải bị xử lý về trách nhiệm dân sự.
+ Trách nhiệm vật chất: Cán bộ lãnh đạo và cấp phó của người cán bộ lãnh
đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước nếu có hành vi vi phạm pháp luật trong
thi hành nhiệm vụ, công vụ làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây ra thiệt
hại về tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự thì phải chịu trách nhiệm vật chất theo quy định của pháp luật.
+ Trách nhiệm hình sự: Cán bộ lãnh đạo và cấp phó của người cán bộ lãnh đạo
cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ nếu phạm một
tội đã được Bộ luật hình sự quy định thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định.
Việc xử lý trách nhiệm hình sự đối với cán bộ lãnh đạo và cấp phó của người cán bộ
lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước phải tuân theo quy định của pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự.
19
1.2.2. Trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng
Cán bộ, công chức trong cơ quan, tổ chức nhà nước, đặc biệt là người cán bộ
lãnh đạo phải thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về phòng chống tham
nhũng. Trong đó khoản 2, Điều 5, Luật phòng, chống tham nhũng đã quy rõ trách
nhiệm của người đứng đầu, người lãnh đạo cơ quan, tổ chức trong công tác phòng
chống tham nhũng.
Luật phòng, chống tham nhũng quy định một số yêu cầu đối với người có
chức vụ, quyền hạn đó là: Gương mẫu, liêm khiết; định kỳ kiểm điểm việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ và trách nhiệm của mình trong việc phòng ngừa, phát
hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng; Chịu trách nhiệm khi
để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách; thực hiện nhiệm vụ, công vụ đúng quy định của pháp luật; kê khai tài sản
theo quy định của Luật này và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của
việc kê khai đó [28].
- Trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra
hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách được
áp dụng quy định tại Điều 54 Luật phòng, chống tham nhũng. Trong đó quy định
người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trong các vấn đề liên quan
đến tham nhũng [28]:
+ Chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
+ Chịu trách nhiệm trực tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng của người
do mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ.
+ Chịu trách nhiệm liên đới về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh
vực công tác và trong đơn vị do cấp phó của mình trực tiếp phụ trách.
- Xử lý trách nhiệm người đứng đầu, người lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị
khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách áp dụng các quy định tại điều 55 Luật Phòng chống tham nhũng [28]:
20