DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chính trị quốc gia
Đạo đức cách mạng
Nhà xuất bản
Trung học phổ thông
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
CTQG
ĐĐCM
Nxb
THPT
XHCN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1
3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
NỘI THÀNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN
1.1.
NAY
Một số vấn đề lý luận về giáo dục đạo đức cách mạng
10
cho học sinh trung học phổ thông ở nội thành thành
1.2.
phố Hà Nội hiện nay
Thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh
10
trung học phổ thông ở nội thành thành phố Hà Nội
Chương 2
hiện nay
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO
30
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG Ở NỘI THÀNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
HIỆN NAY
Yêu cầu cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
48
cách mạng cho học sinh trung học phổ thông ở nội
2.2.
thành thành phố Hà Nội hiện nay
Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng giáo dục đạo
48
đức cách mạng cho học sinh trung học phổ thông ở nội
thành thành phố Hà Nội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
53
78
80
84
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức cách mạng là yếu tố cốt lõi trong phẩm chất nhân cách của con
người, có vai trò định hướng, điều chỉnh hoạt động của họ theo những giá trị
chuẩn mực xã hội - XHCN. Người có ĐĐCM là ngọn nguồn cho mọi thành
công của những lý tưởng, ước mơ chân chính, đồng thời là nền tảng nuôi
dưỡng trí tuệ, tài năng cho họ. Sinh thời, Chủ tịnh Hồ Chí Minh đã dạy: Phải
quan tâm chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc
làm cần kíp. Giáo dục ĐĐCM cho thế hệ trẻ là một nội dung căn bản trong
chiến lược xây dựng con người mới XHCN “vừa hồng vừa chuyên” đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong đó, giáo dục
ĐĐCM cho học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội là nền tảng cho sự
hình thành phẩm chất chính trị tinh thần, nhân cách công dân thế hệ mới, kế
tục sự nghiệp xây dựng Thủ đô và đất nước giàu mạnh, văn minh.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang bước vào giai đoan mới, có
cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức. Sự
nghiệp giáo dục và đào tạo đang đặt ra yêu cầu mới. Hội nghị lần thứ Tám
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, khóa XI đã ra Nghị
Quyết số 29 - NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế”. Một trong những nội dung
mới trong quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo là: Chuyển mạnh
quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực, phẩm chất người học. Trong đó, phẩm chất ĐĐCM của học sinh THPT
cần phải được quan tâm, chú trọng đầu tư thỏa đáng, bảo đảm cho họ phát
triển trí tuệ, năng lực và tài năng vững bước trong tương lai.
Trong những năm qua, công tác giáo dục đạo đức xã hội nói chung,
giáo dục ĐĐCM nói riêng ở các trường THPT nội thành thành phố Hà Nội, đã
3
được các cấp, ngành quan tâm, chú trọng. Các nhà trường đã tích cực đổi mới
chương trình, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, ngày càng nâng cao
chất lượng và hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, trước sự tác động tiêu cực của
đời sống xã hội, nhất là những mặt trái của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng
không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức của
một bộ phận không nhỏ học sinh THPT. Việc xây dựng chương trình nội
dung giáo dục ĐĐCM, có trường còn chưa phù hợp, hình thức, phương pháp
giáo dục thiếu linh hoạt, sáng tạo, trách nhiệm của các chủ thể giáo dục có
biểu hiện chưa tích cực, hiệu quả giáo dục còn thấp. Từ thực tiễn giáo dục
ĐĐCM cho học sinh THPT và hệ quả tiêu cực của nó đang đòi hỏi hoạt động
này phải được nhìn nhận, đánh giá nghiêm túc, khách quan và xác định những
nguyên tắc, phương pháp giáo dục phù hợp, ngày càng nâng cao chất lượng
hiệu quả. Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức cách
mạng cho học sinh trung học phổ thông ở nội thành thành phố Hà Nội hiện
nay” làm luận văn thạc sĩ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, vấn đề đạo đức nói chung, giáo dục ĐĐCM nói
riêng đã có nhiều công trình khoa học ở nước ngoài và trong nước bàn đến
với các góc độ tiếp cận khác nhau. Trong đó, một số công trình nghiên cứu
nổi bật sau:
* Các công trình khoa học ở ngoài nước.
Trong cuốn sách “Đạo đức học” của G.Bandzeladze, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1985, tác giả đã tập trung luận giải 2 vấn đề tổng quát là đặc trưng
của đạo đức và quy luật phát triển của đạo đức, từ đó xác định những nguyên
lý, nguyên tắc của đạo đức Cộng sản chủ nghĩa.
Trong cuốn sách “Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng” của Giáo sư La Quốc
Kiệt, Nxb CTQG, Hà Nội, 2003, tác giả trình bày một cách hệ thống những
yêu cầu chuẩn mực đạo đức và phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức.
4
Trong cuốn sách “Thế nào là quân nhân có đạo đức”, của Đ.A. Vôn-côgô-nốp (1977), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1982, tác giả đã đưa ra những
khái niệm cơ bản của đạo đức học Mác – Lênin, chỉ rõ nội dung và những khía
cạnh biểu hiện của đạo đức quân nhân, luận giải những phẩm chất đạo đức cần
thiết của người chiến sĩ Xô Viết. Đồng thời, xác định phương pháp, tu dưỡng rèn
luyện phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người quân nhân cách mạng.
* Các công trình khoa học ở trong nước
Trong cuốn sách “Phát triển con người toàn diện thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước” của Phạm Minh Hạc, Nxb CTQG, Hà Nội,
2001, tác giả đã nêu lên 6 giải pháp cơ bản giáo dục đạo đức cho con người
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đó là: tiếp tục đổi mới nội dung,
hình thức giáo dục đạo đức trong các trường học; củng cố ý tưởng giáo dục ở
gia đình và cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc
giáo dục đạo đức cho con người; kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức với việc
thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức
thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện đạo
đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho cán bộ đảng viên, cho thầy cô các
trường học; xây dựng một cơ chế tổ chức và chỉ đạo thống nhất toàn xã hội về
giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức cho mọi người.
Trong cuốn sách “Những vấn đề về giáo dục học” của Đặng Vũ Hoạt,
Nxb Giáo dục Hà Nội, 1984, tác giả đã đi sâu nghiên cứu vai trò của giáo viên
trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh và đưa ra một số định hướng
cho giáo viên trong việc đổi mới nội dung, cải tiến phương pháp giáo dục đạo
đức cho học sinh trường phổ thông.
Theo hướng nghiên cứu trên, cuốn sách “Một số khái niệm về quản lý
giáo dục” của Đặng Quốc Bảo, trường Cán bộ Quản lí giáo dục và Đào tạo
Trung ương 1, Hà Nội, 1998, tác giả đã đưa ra một số ý kiến về nhân cách thế
hệ trẻ, học sinh THPT.
5
Một số công trình khác có liên quan như cuốn sách:“Sự biến đổi thang
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới
cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay”của Nguyễn Chí Mỳ, Nxb CTQG, Hà
Nội, 2009; cuốn sách: “Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt
Nam” của Vũ Khiêu và Thành Duy, NXb khoa học xã hội, Hà Nội, 2000; cuốn
sách: “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” của Huỳnh
Khánh Vinh, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001… Các công trình trên nghiên cứu các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, vai
trò của đạo đức xã hội, những tác động của điều kiện lịch sử mới đến sự phát
triển đạo đức của con người Việt Nam, của cán bộ, đảng viên, thế hệ trẻ trong
thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định
phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức mới trong điều kiện mới.
Luận án: “Vai trò của đạo đức với sự hình thành nhân cách người Việt
Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay”của Lê Thị Thủy, Hà Nội 2011; cuốn
sách:“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” do Phó Giáo sư Thành Duy làm
chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996… các công trình trên đã nghiên cứu một
cách có hệ thống và sâu sắc về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh khẳng định vai
trò, giá trị to lớn của nó trong sự nghiệp cách mạng của đất nước.
Một số cuốn sách: “Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ Đảng
viên hiện nay - Thực trạng và giải pháp” của Tiến sĩ Đào Duy Quát (chủ biên),
Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tác giả đã đưa ra các quan điểm, nhận thức đúng
đắn và bổ ích về đạo đức, lối sống đúng đắn lành mạnh trong xã hội chúng ta
hiện nay; “Giáo dục đạo đức cách mạng trong thời kỳ mới” (Chương trình bồi
dưỡng chuyên đề dành cho cán bộ, đảng viên và nhân dân) của Ban Tuyên giáo
Trung ương, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2008, cuốn sách đã đưa ra một hệ
thống các khái niệm đạo đức cơ bản nhằm xây dựng nền tảng tinh thần của xã
hội, phát huy vai trò của đạo đức trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
6
Đề tài: “Giáo dục đạo đức cách mạng cho quân nhân ở đơn vị cơ sở hiện
nay - thực trạng và giải pháp”, đề tài cấp Viện Khoa học xã hội nhân văn quân
sự - Bộ Quốc Phòng, Mã số: KH.B5.01, 2000, do Đoàn Mô - Chủ biên. Trong
công trình này tác giả đã làm rõ các vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận nhằm
xây dựng đạo đức của người cán bộ quân đội hiện nay, phân tích làm rõ bản chất
quá trình phát triển ĐĐCM, đánhgiá thực trạng và đề xuất các giải pháp có tính
phương pháp luận để phát triển ĐĐCM.
Các cuốn sách: “Chuẩn mực đạo đức con người Việt Nam hiện nay”
của Nguyễn Ngọc Phú, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2006; “Vận dụng tư
tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về đạo đức trong xây dựng đạo đức
quân nhân hiện nay” của Đặng Đức Thắng, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội,
2010; “Bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sĩ quan trẻ hiện nay” của
Phạm Xuân Hảo, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2010. Từ các góc độ tiếp
cận khác nhau, những công trình trên đã trình bày sâu sắc các quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam về phẩm
chất, chuẩn mực của ĐĐCM, lối sống, lối sống XHCN và ĐĐCM cho đội ngũ
cán bộ, sĩ quan và sĩ quan trẻ trong quân đội, đưa ra những yêu cầu, giải pháp
để giáo dục, bồi dưỡng lối sống XHCN và ĐĐCM cho đội ngũ này. Từ đó đề
xuất ra hệ thống các giải pháp nhằm xây dựng chuẩn mực đạo đức con người
Việt Nam, bồi dưỡng đạo đức, lối sống cho quân nhân và đội ngũ sĩ quan
trong Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Một số bài viết tiêu biểu như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề giáo
dục đạo đức cách mạng cho thanh niên” của thạc sĩ Thái Bình Dương, Tạp chí
Giáo dục Lý luận, Số 9, 2005; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên” của Ngô Thị Thu Hà, Tạp chí Giáo dục Lý luận,
số 5, 2007; “Giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh lớp 10 trung học phổ
thông qua việc dạy và học môn giáo dục công dân của Nguyễn Văn Cư, Tạp
chí Giáo dục, số 186, kỳ 2-3/2008. Các bài viết trên đã kế thừa di sản của Chủ
7
tịnh Hồ Chí Minh về vai trò quan trọng và tiềm năng to lớn của thanh niên, từ
đó tác giả đề xuất những giải pháp cơ bản để giáo dục ĐĐCM cho thanh niên,
khẳng định thanh niên là một trong những động lực chủ yếu của cách mạng,
là lực lượng quyết định với vận mệnh của dân tộc.
Từ tổng quan diễn đạt các công trình trên đây cho thấy, vấn đề ĐĐCM
và giáo dục ĐĐCM đã được nghiên cứu ở các góc độ, đối tượng khác nhau.
Một số công trình đã phân tích, luận giải khá sâu sắc cả về phương diện lý
luận, thực tiễn thể hiện tính khoa học, tính chính trị, thực tiễn của vấn đề
nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề
giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT một cách toàn diện, hệ thống dưới góc
độ chính trị - xã hội. Vì thế, đề tài: “Giáo dục đạo đức cách mạng cho học
sinh trung học phổ thông ở nội thành thành phố Hà Nội hiện nay” mà tác giả
lựa chọn nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp không trùng lặp với các công
trình đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục
ĐĐCM cho học sinh các trường THPT ở nội thành Thành phố Hà Nội; đề
xuất một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ĐĐCM
cho học sinh các trường THPT nội thành thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT ở
nội thành thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đánh giá thực trạng giáo dục đạo ĐĐCM cho học sinh THPT ở nội
thành thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất yêu cầu và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng,
giáo dục ĐĐCM cho học sinh các trường THPT ở nội thành thành phố Hà
Nội hiện nay.
8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động giáo dục ĐĐCM cho học sinh
THPT trong một số trường công lập ở 5 quận nội thành thành phố Hà Nội; các
số liệu sử dụng trong đề tài từ 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng; giáo dục ĐĐCM để
nghiên cứu hoạt động giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT ở nội thành thành
phố Hà Nội hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Phân tích và tổng
hợp, lôgíc, lịch sử, nghiên cứu tư liệu, điều tra xã hội học, so sánh, phương pháp
chuyên gia và các phương pháp liên ngành khác để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Ýnghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ khoa
học cho hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho học sinh THPT ở các trường
thuộc nội thành thành phố Hà Nội: đồng thời, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu, giảng dạy môn giáo dục công dân ở các nhà trường THPT
địa bàn thành phố Hà Nội cũng như cả nước.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở NỘI THÀNH THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về đạo đức cách mạng và
giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh trung học phổ
thông ở nội thành thành phố Hà Nội hiện nay
1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và đạo đức cách mạng
* Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức và đạo đức cộng sản
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ buổi bình minh của
lịch sử xã hội loài người. Những tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, đạo đức học
đã hình thành hơn 26 thế kỉ trước đây trong triết học phương Đông như: Trung
Quốc, Ấn Độ… và triết học phương Tây như: Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại…
Đạo đức theo tiếng Latin là từ ghép của movis có nghĩa là lề thói và
moralis nghĩa là đạo nghĩa, hay còn gọi đạo đức với nghĩa dùng để chỉ những
lề thói và tập tục của xã hội được mọi người thừa nhận và chi phối các hành
vi giao tiếp hàng ngày. Trong triết học Trung Quốc cổ đại, đạo đức được xem
là khái niệm luân thường đạo đức của con người, nó được hiểu là các vấn đề
tốt – xấu, đúng – sai trong lương tâm con người.
Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và
duy vật) đều rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo
đức. Họ không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận
động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính
cách là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn
nhận một cách tách rời cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà
triết học, đạo đức trước Mác đã tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở
ngay chính bản tính của con người, hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài
10
con người, bên ngoài xã hội. Nét chung của các lý thuyết này là không coi
đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực khách quan. Trái với các quan điểm
trên, các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin đã xem xét vấn đề đạo đức và
giáo dục đạo đức dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng thể hiện bản
chất khoa học và cách mạng của nó.
Với việc phát hiện ra tính quy định của phương thức sản xuất đời sống
vật chất đối với đạo đức và các hiện tượng tinh thần khác, C.Mác khẳng định:
Đạo đức chính là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh và bị quy định bởi
tồn tại xã hội. Điều đó có nghĩa là, các quan niệm, quan điểm, nguyên tắc,
chuẩn mực, lý tưởng, niềm tin và tình cảm đạo đức,… tức toàn bộ ý thức đạo
đức, xét đến cùng, đều là biểu hiện của một trạng thái, một trình độ phát triển
nhất định những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Đạo đức có bản chất
xã hội, nó không phải là biểu hiện của một sức mạnh nào đó ở bên ngoài xã
hội, bên ngoài các quan hệ người, cũng không phải là sự biểu hiện của những
năng lực thiên nhiên, nhất thành bất biến của con người.
Tiếp tục và cụ thể hóa tư tưởng của C.Mác tính quy định của tồn tại xã
hội đối với ý thức xã hội nói chung và đạo đức nói riêng, Ph.Ăngghen đã luận
chứng cho bản chất xã hội của đạo đức bằng việc chỉ ra tính thời đại, tính dân
tộc và tính giai cấp của đạo đức. Ph.Ăngghen khẳng định về thực chất và xét
đến cùng, các nguyên tắc, chuẩn mực, các quan niệm đạo đức chẳng qua là
sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế. Đồng thời, đạo đức còn
bị chi phối bởi những yếu tố mang tính dân tộc, “Từ dân tộc này sang dân tộc
khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện - ác đã
biến đổi nhiều đến mức chúng thường đều ngược hẳn nhau [30, tr.135].
Cùng với tính thời đại và tính dân tộc, Ph.Ăngghen đặc biệt chú ý đến
tính giai cấp của đạo đức. Ông cho rằng: Trong xã hội có phân chia giai cấp,
mỗi hệ thống đạo đức đều biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Không
có đạo đức chung chung đứng trên mọi sự phân biệt giai cấp. Mỗi hệ thống
11
đạo đức đều phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp xã hội tương ứng.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Con người dù tự giác hay không tự giác rút cuộc
đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ những quan hệ thực tiễn
đang làm cơ sở cho giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế trong đó
người ta sản xuất và trao đổi”. [30, tr.136].
Đạo đức được rút ra từ nguyên tắc lợi ích, đó là thứ đạo đức bị giới
hạn bởi lợi ích giai cấp. Mặc dù vậy cũng thừa nhận mối liên hệ giữa lợi
ích và đạo đức được xem là một bước tiến chung về đạo đức. Nó cho thấy,
đạo đức có cơ sở đời sống hiện thực của con người. C.Mác viết: “Nếu như
lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức
làm cho cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với lợi ích của
toàn thể loài người” [29, tr.199-200].
Theo quan điểm này, vấn đề không phải ở chỗ hợp một cách tách rời
giữa lợi ích và đạo đức, mà là giải quyết như thế nào quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội để hành vi thực hiện lợi ích của con người trở thành
hành vi có đạo đức. Lợi ích cá nhân khi phù hợp với lợi ích xã hội thì trở
thành một bộ phận của lợi ích xã hội và trong trường hợp đó, hành vi thực
hiện lợi ích cá nhân là chính đáng về mặt đạo đức. Tuy nhiên, trong điều kiện
xã hội còn phân chia giai cấp, thì lợi ích cá nhân khó có thể phù hợp với lợi
ích xã hội một cách phổ biến. Vì vậy, ra sức làm cho lợi ích của cá nhân cá
biệt phù hợp với lợi ích của toàn thể loài người chính là ra sức điều hành cho
sự hình thành xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Ở đó, lợi ích cá nhân hoàn toàn
thống nhất với lợi ích toàn thể xã hội, của loài người.
Về giáo dục đạo đức, C.Mác đã nêu ra quan niệm và vai trò của nó đối
với sự hình thành nhân cách và nhân cách đạo đức. Lần đầu tiên trong lịch sử,
C.Mác đã nêu ra khái niệm giáo dục đạo đức một phạm vi khái quát rộng lớn
với tư cách là qúa trình hình thành và phát triển những năng lực, những phẩm
chất đạo đức của con người; do đó, làm cho nó có nội dung đầy đủ và phong
12
phú hơn. Giáo dục đạo đức, theo nghĩa rộng là sự hình thành đạo đức, không
đơn giản chỉ là việc truyền đạt, dạy dỗ những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội,
cách ứng xử giữa người với người theo những yêu cầu nhất định (các hệ
thống giáo dục đạo đức trước Mác chỉ dừng lại ở quá trình này). C.Mác đặc
biệt chú ý đến việc tạo ra “hoàn cảnh có tính người”, “những điều kiện xứng
đáng nhất, hợp với bản chất người nhất”, coi đó là cơ sở, đồng thời là một
phương tiện hữu cơ của giáo dục đạo đức, là điều kiện tối hậu quyết định sự
phát triển đạo đức con người. Trong giáo dục đạo đức, C.Mác chủ trương phải
kết hợp hai phương tiện: Truyền đạt và nêu gương. Những tấm gương đạo
đức là hiện thân sinh động của giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Nhờ vậy,
chúng có sức cảm hóa, có khả năng thâm nhập một cách tự nhiên vào ý thức
con người. Đòi hỏi nhà giáo dục đạo đức phải là tấm gương về đạo đức.
Nhưng để trở thành tấm gương, họ cần phải có những phẩm chất đáp ứng các
yêu cầu của giáo dục. Vì vậy, bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo
dục. Khẳng định tiến bộ của đạo đức, chỉ ra tính quy luật của sự phát triển đạo
đức: Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra dự báo về sự xuất hiện một
nền đạo đức mới – đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nền đạo đức này là sự tiếp
tục và phát triển của đạo đức vô sản xuất hiện cùng giai cấp vô sản trong lòng
xã hội tư bản. Mặc dù vậy, đạo đức vô sản chứa đựng một số lượng nhiều nhất
những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài và tiêu biểu cho tương lai. Cùng
với thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản, đạo đức cộng sản sẽ được xác lập như một
nền “… đạo đức thực sự có tình người, đứng trên những đối lập giai cấp và trên
mọi hồi ức về những đối lập ấy” [30. tr.137].
Kế thừa những quan điểm tiến bộ về đạo đức của C.Mác, V.I.Lênin
khẳng định: “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và
hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản” [27, tr.372]. Do đó, đạo
đức cộng sản là “… những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và
góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản
đang sáng tạo ra xã hội mới của người cộng sản” [27, tr.369].
13
Sự hình thành nền đạo đức mới, suy cho cùng, phải thể hiện ở những
nhân cách đạo đức, là những chủ thể của các quan hệ, các hoạt động người.
Vì thế, giáo dục đạo đức nhằm hình thành và phát triển những năng lực đạo
đức cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội, hơn là quan tâm của các học
thuyết về đạo đức.
* Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn
diện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người, từ việc tư đến việc
công, từ lao động sản xuất ở hậu phương đến chiến đấu ngoài mặt trận, từ học
tập, công tác đến sinh hoạt hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bàn đến
đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc
gia đến quốc tế. Người đã xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện, khách
quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và mỗi
con người, từ đó, khái quát thành tư tưởng đạo đức mang tên mình.
Chủ tịch Hồ chí Minh không đưa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhưng
trong sử dụng thuật ngữ đạo đức được dùng với 3 nghĩa: Rộng, hẹp, và rất
hẹp. Nghĩa rộng, đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con người tự
giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính
người trong các quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tư tưởng.
Nghĩa hẹp, đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành vi con
người trong quan hệ giữa người với người trong hoạt động sống. Nghĩa rất
hẹp đó là hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện
quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với người khác, thể
hiện lương tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù
không lặp lại. Hồ Chí Minh tập trung bàn nhiều về đạo đức theo nghĩa hẹp
với 3 mối quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với
việc) và ĐĐCM.
14
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm ĐĐCM là đạo đức của người cách
mạng xuất hiện trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ĐĐCM
gồm những nội dung cơ bản sau: Một là, trung thành vô hạn với Tổ quốc, tận
hiếu với nhân dân, suốt đời phấn đấu cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; ba là, luôn yêu
thương, quý trọng con người, sống có tình, có nghĩa; bốn là, có tinh thần quốc
tế trong sáng.
Đạo đức cách mạng là cái gốc của nhân cách, là nền tảng của người
cách mạng. ĐĐCM và đạo đức đời thường là hoàn toàn thống nhất với nhau,
sẽ không có đạo đức đời thường tách rời với ĐĐCM và cũng không thể có
ĐĐCM đứng ngoài, đối lập với đạo đức đời thường. Vì vậy, không thể bào
chữa cho khuyết điểm của bản thân mình, “cái đó là việc riêng của tôi, gia
đình tôi, không liên quan gì đến cái chung”. Cái riêng mà phù hợp với cái
chung (của Đảng, của cách mạng, của nhân dân) thì đó là đạo đức. Cái riêng
mà đi ngược với cái chung là chủ nghĩa cá nhân, là vi phạm đạo đức.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức mới là ĐĐCM, nó khác với đạo
đức cũ về chất, ngược lại nó hoàn toàn thống nhất với đạo đức của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Đó là sự kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc với
đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân và tinh hoa đạo đức của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức Việt
Nam. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng
lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu
ngửng lên trời” [45, tr.220]. Đạo đức cũ - đạo đức thực dân phong kiến, là thứ
đạo đức ích kỷ, nó kìm hãm, trói buộc con người, tàn phá con người. Còn đạo
đức mới - ĐĐCM là: “Quyết tâm giúp đỡ loài người ngày càng tiến bộ và
thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn giữ vững tinh thần chí công vô tư”;
“Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau thiên hạ” là “Vô luận trong hoàn cảnh
15
nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”, “là hòa
mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng
nghe ý kiến của quần chúng” [46, tr.609].
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đạo đức là nền tảng của người cách mạng,
cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người còn ví
đạo đức đối với người cách mạng như sức khỏe của người gánh nặng và đi xa.
Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ cách mạng không dễ dàng, đơn giản mà bao giờ
cũng khó khăn, phức tạp. Thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đòi hỏi người cách
mạng phải có quyết tâm phấn đấu thật cao, phải dám hy sinh, phải kiên trì bền
bỉ “thắng không kiêu, bại không nản”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng lấy đạo đức làm gốc, không có nghĩa là
tuyệt đối hóa mặt đức, xem nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, “hồng”
và “chuyên” phải kết hợp, phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể thiếu
mặt này hay thiếu mặt kia.
Như vậy, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đạo đức cách
mạng là toàn bộ những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh những
hành vi của con người trong quan hệ với người khác, với cộng đồng và với
bản thân mình theo mục tiêu lý tưởng của cách mạng XHCN. Dựa vào những
chuẩn mực đó, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm
về thiện và ác, về cái không được làm và nghĩa vụ phải làm.
Về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm
chăm lo mọi mặt cho thanh, thiếu niên, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ thành đội hậu
bị vững chắc của Đảng. Người luôn nhắc nhở Đảng và Nhà nước phải giáo
dục lý tưởng, ĐĐCM, văn hóa, khoa học kỹ thuật, rèn luyện năng lực thực
tiễn cho thanh niên… Ngay từ khi hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn thế hệ trẻ nước nhà tiếp thu một nền giáo
dục Cộng sản Chủ nghĩa tốt đẹp. Trong đó, giáo dục đạo đức được đặt lên
hàng đầu và để các em trở thành những con người tốt, những công dân tốt, có
16
ích cho bản thân, gia đình và đất nước. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục, đào tạo, nổi bật là quan điểm giáo dục toàn diện. Trong đó,
Người luôn coi trọng cả “đức” và “tài” và thường nhấn mạnh mối quan hệ
không thể tách rời của hai mặt đó trong sự hoàn thiện nhân cách con người
mới, để có được một người cán bộ vừa “hồng” vừa “chuyên”. Người nhấn
mạnh: “Thanh niên phải có đức có tài. Có tài mà không có đức ví như một
anh làm kinh tế rất giỏi nhưng lại đi đến thụt kém thì chẳng những không
làm được việc gì có ích cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không
lợi gì cho loài người”. [46, tr.399].
Người chỉ ra sự khác nhau trong quan niệm về đạo đức của mỗi chế độ,
mỗi thời đại, “Đạo đức ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày
nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới” [41, tr.149]. Có đạo đức mới thì có
con người mới XHCN, nhiệm vụ của nhà trường dưới chế độ mới là đào tạo
nên những con người có đạo đức, có kiến thức, có văn hóa, kỹ năng lao động
nghề nghiệp chứ không phải đào tạo ra “một lũ cao bồi”. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, giáo dục là để hình thành và phát triển nhân cách cho con người. Do đó,
giáo dục bao gồm cả dạy người lẫn dạy chữ, trong đó dạy người là mục tiêu
cao nhất. Giáo dục hình thành nhân cách cho con người có ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Con người với nhân cách hoàn thiện vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Sự nghiệp cách mạng do
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, suy cho cùng là
nhằm mục tiêu giải phóng con người, hướng con người tới chân, thiện, mỹ, làm
cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Mặt khác, con người có đạo đức, trí
tuệ là động lực quan trọng đưa cách mạng đến thắng lợi. Người cho rằng:
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa, tức là
phải có những người có đạo đức xã hội chủ nghĩa… Đạo đức xã hội chủ nghĩa
là cần kiệm xây dựng nước nhà” [48, tr.542].
17
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dành nhiều công sức cho việc đào tạo, bồi dưỡng các thế cách mạng Việt
Nam. Với tấm lòng yêu thương bao la, với trí tuệ sâu sắc và kinh nghiệm
phong phú, Người đã dìu dắt thế hệ trẻ, trực tiếp tổ chức công tác đào tạo thế
hệ trẻ và tự mình nêu gương sáng về mọi mặt cho thanh thiếu niên noi theo.
Trước lúc đi xa người còn căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: “Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [49, tr.622].
Con đường hình thành ĐĐCM theo tư tưởng Hồ Chí Minh là con
đường giáo dục, rèn luyện, kết hợp tự giáo dục, tự rèn luyện thông qua hoạt
động thực tiễn và phải tu dưỡng kiên trì, bền bỉ suốt đời. Bởi vì, “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và cũng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”. Mặt khác, đạo đức của con người “phần nhiều
do giáo dục mà nên”, vì thế, phải kết hợp việc giáo dục của các tổ chức với
phát huy cao độ vai trò tự giáo dục rèn luyện của mỗi người.
1.1.2. Đặc điểm, nội dung, vai trò về giáo dục đạo đức cách mạng cho
học sinh trung học phổ thông ở nội thành thành phố Hà Nội hiện nay
* Đặc điểm học sinh trung học phổ thông ở nội thành Thành phố Hà Nội
Học sinh THPT ở nội thành Thành phố Hà Nội là một bộ phận của học
sinh THPT của Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung, vì thế họ
vừa có biểu hiện đặc điểm chung, vừa có những nét đặc thù bởi sự quy định,
tác động của các điều kiện, hoàn cảnh môi trường xã hội, gia đình đến quá
trình học tập, tu dưỡng và phát triển nhân cách. Học sinh THPT ở nội thành
thành phố Hà Nội có thể khái quát một số đặc điểm sau:
Một là, học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội có sự chuyển
biến nhanh về thể chất.
Theo điều 4, điều 23 của Luật giáo dục 2005 và điều 26 trong những
điểm mới của Luật Giáo dục 2005 ở nước ta: Giáo dục THPT được thực hiện
18
trong ba năm học, từ lớp mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười
phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười lăm. Điều lệ trường trung học
ở nước ta cũng quy định rõ tuổi của học sinh THPT là từ 15 đến 19 tuổi.
Đây là lứa tuổi nở rộ sức mạnh thể chất, tinh thần và trí tuệ; lứa tuổi với
những hoạt động đặc trưng để hình thành nhân cách và phẩm chất của một
công dân, hình thành thế giới quan và lý tưởng; là lứa tuổi luôn luôn tự tìm
hiểu bản thân mình và tìm hiểu người khác; lứa tuổi tự khẳng định và tìm
cách xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội.
Cũng như đối tượng là học sinh THPT khác, học sinh THPT ở nội
thành thành phố Hà Nội là lứa tuổi đang dần dần hoàn chỉnh về mặt thể chất.
Tuy nhiên do tác động của điều kiện kinh tế - xã hội thủ đô, điều kiện gia
đình, nguồn gốc gia đình, cuộc sống ngày càng được nâng cao hơn trước nên
học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội có sự phát triển tốt hơn về chiều
cao, trọng lượng, thể trạng so với học sinh ngoại thành, nông thôn. Có thể nói
đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân đối, đẹp và khỏe mạnh, bắt đầu có
sự trưởng thành về giới tính. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi
quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não
phát triển. Bộ não, hệ thần kinh các em phát triển và khỏe mạnh, tạo cơ sở cho
các em tiếp thu, xử lý một khối lượng lớn tri thức trong quá trình học tập.
Hai là, đa số học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội có trí tuệ,
năng lực nhận thức nhanh.
Học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội đa số là người có tố chất,
có trí tuệ, khả năng nhận thức nhanh các tri thức tự nhiên, xã hội và kỹ năng
sống. Bởi vì, nguồn gốc xuất thân và điều kiện học tập của đa số học sinh
được bảo đảm tốt. Đa phần học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội đều
được sinh ra và lớn lên ở Thủ đô – trung tâm chính trị, xã hội của cả nước,
nên họ có điều kiện học tập tốt hơn so với học sinh ở ngoại thành và các địa
phương khác. Họ có điều kiện không chỉ tiếp cận nguồn tri thức chủ yếu qua
19
thầy cô và sách vở, mà còn tiếp cận dễ dàng thông qua các phương tiện truyền
thông hiện đại như báo trí, truyền hình, mạng internet...những kho tàng tri
thức của nhân loại.
Mặc dù học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội có điều kiện tiếp
cận các nguồn thông tin tri thức nhanh, nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng bởi
những tác động tiêu cực của mặt trái xã hội, như tệ nạn xã hội, môi trường
sống, mặt trái của nền kinh tế thị trường...
Ba là, phần lớn học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội có sự
phát triển nhanh về tâm lý, ý thức và sớm hình thành thế giới quan.
Họ là những người có thay đổi, phát triển nhanh đời sống tâm lý, nhạy
cảm trước những tích cực và tiêu cực của xã hội. Học sinh THPT thuộc lứa
tuổi giàu ý chí, khát vọng, tình cảm và cảm xúc; ham hiểu biết, hăng hái tham
gia các hoạt động của Đoàn, hoạt động xã hội, có nhu cầu về tình bạn, tình
yêu. Những đặc điểm này tác động tích cực tới việc xây dựng và phát triển
nhân cách của học sinh, giúp các em làm phong phú thêm đời sống nội tâm và
thu lượm được nhiều kinh nghiệm xã hội. Đây cũng là lứa tuổi có những hạn
chế nhất định. Đó là tâm lý ít nghe, ít bàn luận đến các vấn đề chính trị, thời
sự. Các em còn thiếu kinh nghiệm sống nên đời sống tâm lý dễ bị chi phối, dễ
mơ hồ về chính trị, dễ bị kẻ xấu lợi dụng.
Thực tiễn cuộc sống trong nội thành, bên cạnh những cái đáng tự hào của
Thủ đô thì còn vô số những điều thị phi liên quan đến mọi mặt của đời sống xã
hội, vì vậy nó tác động đến sự tiếp nhận và xử lý thông tin của học sinh THPT
ở nội thành thành phố Hà Nội cũng khác so với học sinh ngoại thành và nông
thôn để thich nghi với điều kiện sống, học tập và sinh hoạt của mình.
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế
giới quan - hệ thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các nguyên tắc và
quy tắc cư xử… những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội để xây dựng một hệ
thống quan điểm riêng trong giai đoạn này đã được hình thành (đặc biệt là sự
20
phát triển của tư duy lý luận, tư duy trừu tượng). Suốt thời gian học tập ở
THPT, học sinh đã lĩnh hội được những tâm thế, thói quen đạo đức nhất định,
ý thức được cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác… thông qua các tiêu chuẩn và
nguyên tắc hành vi xác định.
Bốn là, học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội dễ hòa nhập
cộng đồng, nhưng tính tự lập, tính kiên trì vượt khó không cao so với học sinh
ngoại thành và các địa phương khác. Họ là người dễ hòa nhập vào tập thể,
nhanh chóng hình thành các nhóm có cùng sở thích, sở trường, sở đoản hoặc
những biểu hiện tương đồng khác. Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi mang tính
chất tập thể nhất, các em rất coi trọng việc sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi
để khẳng định vị trí của mình trong nhóm. Trong các lớp học dần dần xảy ra
một sự phân cực nhất định - xuất hiện những người được lòng nhất và những
người ít được lòng nhất. Những em có vị trí thấp, ít được lòng các bạn thường
băn khoăn, suy nghĩ nhiều về nhân cách của mình.
Cùng với sự trưởng thành nhiều mặt, quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào
cha mẹ dần dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập. Sự mở rộng
phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hoá hoạt động riêng của học sinh THPT là
do số lượng nhóm mà các em tham gia tăng lên. Việc tham gia vào nhiều
nhóm sẽ dẫn đến những sự khác nhau nhất định và có thể xung đột về vai trò
nếu cá nhân phải lựa chọn giữa các vai trò khác nhau ở các nhóm.
Bên cạnh đó sự kiên trì, bền bỉ, vượt qua khó khăn thử thách của học
sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội hạn chế hơn so với học sinh THPT
ở ngoại thành Hà Nội và các vùng nông thôn, xuất thân từ nông dân. Đa phần
học sinh ở nội thành có điều kiện vật chất đầy đủ, tinh thần phong phú, nhiều gia
đình có điều kiện kinh tế, mức sống cao đáp ứng mọi nhu cầu học tập và vui
chơi của con cái mình. Do vậy, mỗi khi gặp khó khăn trong học tập, trong quan
hệ với bạn bè, thầy cô thì sự kiên trì vượt khó không cao.
Nghiên cứu, xem xét đặc điểm tâm sinh lý học sinh THPT là một trong
những căn cứ quan trọng để xác định nội dung, cách thức giáo dục ĐĐCM
21
phù hợp, góp phần thực hiện tốt chương trình, mục tiêu giáo dục THPT trong
quá trình hình thành nhân cách những công dân Thủ đô trong giai đoạn mới.
* Quan niệm về giáo dục đạo đức cách mạng cho học sinh trung học
phổ thông ở nội thành thành phố Hà Nội
Giáo dục - hiểu theo nghĩa rộng là quá trình trao đổi và chuyển giao tri
thức, là sự đạt được những giá trị và các mô hình hành vi theo một mục đích,
yêu cầu định sẵn. Hiểu theo nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình hình thành
nhân cách con người dưới ảnh hưởng của hoạt động có mục đích của nhà giáo
dục trong hệ thống các cơ quan giáo dục và dạy học.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Giáo dục là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng
nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực
như yêu cầu đề ra.
Dưới góc độ triết học, có thể hiểu rằng, giáo dục ĐĐCM cho học sinh
THPT ở nội thành thành phố Hà Nội là một quá trình tương tác lẫn nhau giữa
hai mặt của một vấn đề. Một mặt đó là sự tác động từ bên ngoài vào đối tượng
giáo dục (sự tác động của tri thức, văn hóa nhân loại thông qua các chủ thể sư
phạm đến mọi hoạt động của học sinh). Mặt khác, thông qua sự tác động này,
đối tượng giáo dục (học sinh THPT) tiếp thu, tự biến đổi, tự hoàn thiện phẩm
chất nhân cách đầy đủ theo những nguyên tắc, chuẩn mực của con người mới
XHCN, của người cách mạng.
Về bản chất, giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT ở nội thành thành
phố Hà Nội là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động nhận thức cho học sinh,
nhằm giúp họ nhận thức đúng, có tình cảm và thái độ đúng, hình thành những
thói quen hành vi ứng xử với mọi người, cộng đồng xã hội và cao hơn nữa là
Tổ quốc, vận mệnh dân tộc. Quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động của học
sinh ở trường THPT, cũng như ngoài xã hội được tiến hành có kế hoạch chặt
chẽ, có mục đích rõ ràng, dựa trên những điều kiện vật chất bảo đảm nhất
22
định nhằm thực hiện những lợi ích tinh thần của học sinh cũng như của các
chủ thể giáo dục. Đó là hoạt động tự giác, sáng tạo, có sự đổi mới thường
xuyên về hình thức, phương pháp tổ chức, qua đó học sinh THPT có thể tiếp
nhận những tri thức đạo đức một cách thuận lợi, tuân theo quy luật của quá
trình nhận thức, phù hợp với những đặc điểm về thể chất, tinh thần của họ.
Tuy nhiên, hoạt động tiếp nhận những tri thức ĐĐCM của học sinh THPT ở
nội thành thành phố Hà Nội cũng bị chi phối bởi tính quy luật riêng. Đó là
tính quy luật của sự tiếp nhận tri thức chính trị - xã hội, tính quy luật của sự
hình thành, phát triển những phẩm chất chính trị tinh thần ở lứa tuổi đang
hoàn chỉnh về thể chất, đang ấp ủ những hoài bão, ước mơ cho tương lai.
Vì thế, quá trình tổ chức, hoạt động giáo dục ĐĐCM và tự giáo dục,
rèn luyện của học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội luôn bị chi phối,
tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan khác nhau. Sự tác động
đa chiều của các chủ thể, đối tượng giáo dục đối với các khâu, các mối quan
hệ giữa truyền thụ và lĩnh hội, nhận thức và hành động hành vi trong giáo
dục, rèn luyện và tự giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với học sinh THPT. Đó là
một quá trình khó khăn, phức tạp, đòi hỏi các chủ thể giáo dục và đối tượng
giáo dục phải nhận thức sâu sắc các mối liên hệ bản chất của nó, đồng thời
phải có lòng kiên trì, bền bỉ, tâm huyết, say mê với nhiệm vụ.
Từ những phân tích tích trên đây, tác giả quan niệm: Giáo dục ĐĐCM
cho học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội là hoạt động tương tác có
tổ chức, có kế hoạch, quy trình của các chủ thể giáo dục và học sinh, thông
qua quá trình truyền thụ, lĩnh hội và rèn luyện theo những nguyên tắc, chuẩn
mực của người cách mạng, góp phần hoàn thành tốt chương trình, mục tiêu
giáo dục của nhà trường, hình thành nhân cách công dân, phát triển nguồn
nhân lực trẻ của Thủ đô và đất nước.
Mục đích giáo dục ĐĐCM là: Xây dựng những nguyên tắc, chuẩn
mực của người cách mạng cho học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà
Nội, tạo nền tảng tinh thần, để họ thực hiện tốt nhiệm vụ học tập và tu
23
dưỡng, phấn đấu trở thành người thanh niên, người công dân Thủ đô có
đức, có tài, góp phần vào sự nghiệp xây dựng, phát triển nguồn nhân lực trẻ
của Thủ đô và cả nước.
Chủ thể giáo dục: Hoạt động giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT ở
nội thành thành phố Hà Nội là các tổ chức, các lực lượng sư phạm, quản lí
giáo dục của nhà trường, xã hội và gia đình học sinh. Mỗi lực lượng có vị trí,
vai trò khác nhau và phương pháp tác động riêng đối với quá trình hình thành
ý thức, hành vi ĐĐCM của học sinh. Tuy nhiên, các lực lượng đó có mối
quan hệ mật thiết với nhau, là tiền đề, điều kiện hổ trợ cho nhau, tạo nên sức
mạnh tổng hợp tác động đến nhận thức và hành động của học sinh. Trong các
lực lượng ấy thì đội ngũ giáo viên ở trường THPT ở nội thành thành phố Hà
Nội giữ vai trò chủ đạo, quyết định đến quá trình hình thành nên phẩm chất
ĐĐCM của học sinh.
Đối tượng giáo dục: Học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội là
đối tượng của hoạt động giáo dục ĐĐCM. Họ chịu sự tác động của các lực lượng
giáo dục, tiếp nhận, lĩnh hội các tri thức ĐĐCM một cách chủ động, tích cực, sáng
tạo. Đồng thời, họ là chủ thể của của hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM. Nói
cách khác, học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội vừa là đối tượng, vừa là
chủ thể của hoạt động giáo dục ĐĐCM và tự giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, giữ vai
trò quyết định trực đến kết quả cuối cùng của hoạt động này.
Về hình thức, phương pháp giáo dục ĐĐCM: Trong quá trình giáo dục
nhân cách cho học sinh, nhất là giáo dục ĐĐCM thì nội dung giáo dục bao
giờ cũng gắn với hình thức và phương pháp giáo dục. Đó là con đường để
truyền thụ những thông tin tri thức đạo đức đến người học một cách dễ dàng,
hấp dẫn, hiệu quả, khiến họ có hứng thú, say mê, không nhàm chán trong lĩnh
hội và ra sức tu dưỡng, rèn luyện theo những nguyên tắc, chuẩn mực ĐĐCM.
Cả hình thức và phương pháp giáo dục ĐĐCM cho học sinh THPT ở nội
thành thành phố Hà Nội được thể hiện thông qua quá trình tổ chức dạy và học
các môn học, nhất là các môn học xã hội và môn giáo dục công dân là chủ
24
yếu. Giáo dục ĐĐCM còn được thông qua các hình thức, phương pháp khác
như: Các hoạt động ngoại khóa, các hoạt động văn hóa, thể thao của các tổ
chức đoàn thể. Kết hợp giữa nhà trường với xã hội và gia đình học sinh, giáo
dục bằng việc nêu gương tốt, việc tốt, thông qua tự tu dưỡng, tự rèn luyện
ĐĐCM của học sinh ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động.
Các hình thức và phương pháp giáo dục ĐĐCM như trên là một chỉnh thể
thống nhất, quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ cho nhau trong quá trình thực
hiện. Tuy vậy, mỗi hình thức, phương pháp có vai trò, thế mạnh riêng, đòi hỏi tổ
chức hoạt động giáo dục ĐĐCM cho học sinh, các chủ thể giáo dục phải nắm
vững những ưu điểm, hạn chế của từng hình thức, phương pháp; đồng thời tích
cực, sáng tạo ra các hình thức, phương pháp mới thích hợp với đặc điểm học
sinh, nhiệm vụ của nhà trường và từng điều kiện, hoàn cảnh nhất định.
* Nội dung giáo dục đạo đức cách mạng
Hoạt động giáo dục ĐĐCM cho các đối tượng về cơ bản bám sát những
nội dung biểu hiện của ĐĐCM theo tư tưởng Hồ Chí Minh (Đạo đức Hồ Chí
Minh); quan điểm chỉ đạo của Đảng . Tại Nghị quyết Trung ương Chín khóa
XI, Đảng ta khẳng định: “ Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con
người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc,
lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng
đồng, xã hội và đất nước” [17, tr. 47]. Tuy vậy, tùy từng đối tượng cụ thể để
xác định những nội dung cụ thể sao cho phù hợp. Đối với học sinh THPT cả
nước nói chung, học sinh THPT ở nội thành thành phố Hà Nội nói riêng, nội
dung ĐĐCM được xác định là: Lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân
tộc, lý tưởng XHCN và niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo; lòng nhân ái, biết quý trọng lao động và các thành quả lao động; về
tính trung thực, khiêm tốn, dũng cảm, lời nói đi đôi với việc làm; về ý thức
25