DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
CNH, HĐH
ASEM
Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
Hiệp định đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương
APEC
TPP
Hiệp định thương mại tự do
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Kinh tế thị trường
Kinh tế - xã hội
Khoa học - công nghệ
Sản xuất - kinh doanh
Tư bản chủ nghĩa
Tổ chức thương mại thế giới
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa
FTA
ASEAN
KTTT
KT - XH
KHCN
SX - KD
TBCN
WTO
UBND
XHCN
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
DOANH NGHIỆP DỆT MAY CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1 Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
1.2 Quan niệm, tiêu chí và những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH DOANH
NGHIỆP DỆT MAY CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY
2.1 Khái quát về doanh nghiệp dệt may của thành phố Hà Nội
2.2 Ưu điểm, hạn chế về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt
May của thành phố Hà Nội hiện nay
2.3 Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về năng lực cạnh tranh
doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội hiện nay
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG
LỰC CẠNH TRANH DOANH NGHIỆP DỆT MAY
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM
NHÌN ĐẾN NĂM 2025
3.1 Quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt
May của thành phố Hà Nội
3.2 Giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội đến năm 2020 tầm
nhìn đến 2025
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
3
10
10
15
29
29
31
40
56
56
65
89
91
96
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường
và cạnh tranh ngày càng có vai trò tác động to lớn đối với mỗi quốc gia dân tộc
khi tham gia hội nhập quốc tế. Canh tranh, là một động lực quan trọng thúc đẩy
nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp phát triển; thông qua cạnh tranh xác lập
các doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt, loại bỏ các doanh nghiệp có sức cạnh
tranh kém. Chính vì lẽ đó mà năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
tranh của mỗi nền kinh tế nói chung, của các doanh nghiệp nói riêng là vấn đề
sống còn đối với mỗi quốc gia dân tộc và đối với mỗi doanh nghiệp.
Kể từ khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào các tổ chức kinh
tế khu vực và thế giới như: (ASEAN, ASEM, APEC,WTO)... Làm cho môi
trường cạnh tranh ngày càng trở lên khốc liệt đối với nền kinh tế và các doanh
nghiệp trong đó có doanh nghiệp dệt may của thành phố Hà Nội.
Hà Nội là Thủ đô của cả nước, với việc mở rộng địa giới hành chính đã
tạo nên những điều kiện thuận lợi để Hà Nội thu hút các doanh nghiệp nói
chung, doanh nghiệp Dệt May nói riêng vào đầu tư phát triển. Đến nay các
doanh nghiệp Dệt May của Hà Nội đã dần khảng định được vị thế, bước đầu
thể hiện được năng lực cạnh tranh, dần xây dựng được thương hiệu cho sản
phẩm của các doanh nghiệp mình. Một số doanh nghiệp Dệt May phát huy tốt
năng lực cạnh tranh, SX - KD có hiệu quả, tạo nhiều việc làm cho người lao
động, tăng doanh thu và tạo đà phát triển cho thành phố Hà Nội.
Để thực hiện mục tiêu phát triển các doanh nghiêp Dệt May đã đề ra trong
bối cảnh tình hình phát triển KT - XH của Thành phố còn nhiều khó khăn như:
thách thức to lớn đến các doanh nghiệp Dệt May, nhất là về năng lực cạnh tranh,
chất lượng tăng trưởng, nhu cầu vốn đầu tư vốn lớn. Đòi hỏi các doanh nghiệp
Dệt May cần có những định hướng và giải pháp cụ thể, phù hợp. Thực tế cho
thấy, hiện nay trên địa bàn Hà Nội còn một bộ phận doanh nghiệp Dệt May đang
3
đứng trước nguy cơ phải giải thể, phá sản, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, khả
năng chiếm lĩnh thị trường và mở rộng thị trường trong nước cũng như trên thế
giới còn hạn chế. Tình hình trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng một trong
những nguyên nhân cơ bản nhất là năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May
còn hạn chế. Để tồn tại trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện
nay, đòi hỏi phải có đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn
vấn đề: “Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội” làm
luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một trong những vấn
đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu ở nước ta trong
những năm vừa qua. Nổi bật là các công trình tiêu biểu sau:
* Những công trình nghiên cứu lý luận chung về cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, doanh nghiệp dệt may, tiêu biểu có các công
trình nghiên cứu như:
Đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở Việt
Nam hiện nay”, của tác giả Đỗ Huy Hà, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị
Quân sự, Hà Nội, 2004. Trong đó, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về cạnh
tranh, sức cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà
nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ ra thực trạng vấn đề cạnh tranh
và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Đồng thời, tác giả đề xuất quan
điểm và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước.
Đề tài: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn
cầu hóa” của tác giả Trần Sửu, Nxb Lao động 2006. Tác giả đã phân tích, đề
cập đến cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa và các yếu tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chỉ rõ các yếu tố cấu thành và tiêu chí
4
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó tác giả đánh
giá thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong
điều kiện toàn cầu hóa.
Đề tài: “Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh
Thái Bình hiện nay” của tác giả Phạm Văn Minh, luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị, Hà Nội, 2009. Trong đó, tác giả đã làm rõ cở sở lý luận và
thực tiễn về cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa
và nhỏ và đề xuất những quan điểm giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc biệt là phần cở sở lý luận, tác giả làm rõ các
quan niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh
tranh, đồng thời tác giả cũng đưa ra những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Những công trình nghiên cứu về thực trạng, giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp, doanh nghiệp dệt may.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước chủ trương phát triển ngành dệt
may thành một trong những ngành trọng điểm, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh
của từng doanh nghiệp ngành dệt may. Phát triển ngành dệt may và nâng cao năng
lực cạnh tranh hàng dệt may đang là vấn đề đóng vai trò rất quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Nắm bắt được xu thế đó những năm qua đã có nhiều đề
tài, bài viết đã đi sâu phân tích thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp dệt may nói riêng, tiêu biểu như:
Đề tài: “Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
dệt may Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” của tác giả Phan Thanh
Nga, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, (2006).
Tác giả đã đi phân tích đánh giá những thực trạng của ngành Dệt May của
Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến những vấn đề còn tồn tại ở các doanh
5
nghiệp Dệt May như nguồn nguyên liệu của ngành đang phụ thuộc vào nhập
khẩu là chủ yếu, chất lượng và mẫu mã sản phẩm còn nhiều hạn chế. Từ đó
tác giả đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của danh nghiệp Dệt May
Đề tài: “Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở Đồng
Nai và tác động của nó đến đảm bảo kinh tế cho khu vực phòng thủ tỉnh” của
tác giả Vũ Đại Dương, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà Nội,
(2008). Tác giả đã đánh giá chi tiết phần thực trạng của các doanh nghiệp nhà
nước, trong đó tác giả chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
năng lực cạnh tranh kém của doanh nghiệp nhà nước nói chung, doanh nghiệp
tỉnh Đồng Nai nói riêng.
Đề tài: “giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế” của tác giả Doãn Thị Thùy Mai, luận văn thạc sĩ kinh tế trường đại học Ngoại
thương, Hà Nội, 2008. Để đề xuất được những giải pháp mang tính khả thi, tác giả
đã đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Việt Nam thời gian qua. Đặc biệt, tác giả đã nhấn mạnh đến các điểm yếu cốt tử
dẫn đến các doanh nghiệp có sức cạnh tranh kém trong thời gian qua, điển hình
như: chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, thị phần mà doanh nghiệp có
được, nguồn nhân lực, công tác quản trị doanh nghiệp còn nhiều hạn chế. Phần giải
pháp, tác giả đưa ra hai nhóm giải pháp cơ bản là: một nhóm giải pháp thuộc về vĩ
mô và nhóm giải pháp thuộc về doanh nghiệp
Luận án: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu vào thị
trường các nước EU của doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” của tác giả Nguyễn Hoàng, luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Ngoại thương, Hà Nội 2009. Trong đó tác giả đã phân tích cơ sở lý luận về
nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may sang
thị trường Liên hiệp châu Âu (EU); chỉ ra thực trạng năng lực cạnh tranh xuất
6
khẩu của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. Đồng thời, tác giả đề xuất
những quan điểm, giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu
của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam sang thị trường EU
Luận án: “Sử dụng công cụ tài chính nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO” của tác
giả Phạm Thị Minh Hiền, luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội 2011.
Tác giả đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam và thực
trạng sử dụng công cụ tài chính vĩ mô. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để có
cơ sở thực tiễn đề xuất các giả pháp sử dụng công cụ tài chính vĩ mô đối với doanh
nghiệp ngành Dệt May Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO.
Nhìn chung, các công trình, bài viết nêu trên đã tiếp cận nghiên cứu về
cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nói chung, doanh nghiệp Dệt May nói riêng, mang tính tổng quan, tầm
quốc gia, cạnh tranh ngành trên bình diện chung của nền kinh tế quốc dân hay
ở một số địa phương khác. Đó là những thông tin, tư liệu quý mà tác giả có kế
thừa cho công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Dệt May của thành phố Hà Nội. Do vậy, đề tài nghiên cứu mà tác giả lựa
chọn là một cách tiếp cận mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với thành
phố Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung, song không bị trùng lắp với các
công trình đã công bố
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn, đề xuất những quan điểm và giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành Phố Hà Nội
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành Phố Hà Nội.
7
- Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh doanh nghiệp dệt
may của thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm
nhìn đến 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Trên cơ sở trình bầy có hệ thống các khái niệm công cụ về
cạnh tranh, năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tác giả
tập trung đi sâu xây dựng khái niệm trung tâm, chỉ ra nội dung và các yếu tố cấu
thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội ở
thị trường nội địa. Theo đó đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm và giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội
Về không gian: Doanh nghiệp dệt may của thành phố Hà Nội, trên địa
bàn Thành phố, do Sở Công thương quản lý
Về thời gian: Khảo sát thực trạng từ năm 2010 trở lại đây và đề xuất
các quan điểm, giải pháp cho giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2025.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng dựa trên phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đường lối phát triển kinh tế của
Đảng cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu đề tài này, tác giả sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu của Kinh tế chính trị học Mác-Lênin như: Tổng hợp,
8
phân tích các tài liệu, tư liệu liên quan đến đối tượng nghiên cứu; thống kê và
so sánh các số liệu, tư liệu phản ánh năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt
May của thành phố Hà Nội; kết hợp lôgíc và lịch sử trong xem xét đánh giá
năng lục cạnh tranh các doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội trong
thời gian qua. Đặc biệt, tác giả sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học
làm phương pháp chủ yếu trong thực hiện đề tài này
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm cả về
lý luận, thực tiễn của vấn đề năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung,
doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội nói riêng.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho cơ quan quản lý nhà nước của
thành phố Hà Nội, cho việc nghiên cứu giảng dậy môn kinh tế chính trị MácLênin, quản lý kinh tế ở các trường đại học, học viện trong hệ thống giáo dục
quốc dân của Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH DOANH NGHIỆP
DỆT MAY CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp
1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những
người, những tổ chức hoạt động nhằm đạt được những lợi ích như nhau. Cạnh
tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, cạnh tranh
kinh tế xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi
hàng hóa. Khi bàn về cạnh tranh kinh tế có rất nhiều quan niệm khác nhau.
Xét theo quan điểm tổng hợp: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó
các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ
đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị
trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có
lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh
tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối
với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”. [6, tr.56, 72].
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh trạnh là khả năng của các doanh
nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao
hơn trong điều kiện canh tranh quốc tế”.
Cùng với việc đưa ra các quan niệm khác nhau về cạnh tranh, các
nhà khoa học còn đi sâu nghiên cứu vai trò của cạnh tranh, mối quan hệ của
cạnh tranh với độc quyền, các hình thức cạnh tranh, thủ đoạn cạnh tranh.
Điển hình như:
Adam Smith với lý thuyết “Bàn tay vô hình” đã chủ trương tự do cạnh
tranh. Ông cho rằng, cạnh tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp
nhàng, có lợi cho xã hội. Mặt khác, Smith cho rằng cạnh tranh có tác dụng
10
quan trọng trong việc thúc đẩy lao động và điều tiết việc phân phối tư bản
một cách hợp lý. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Adam Smith
chỉ ra rằng: “Chỉ có thông qua tự do cạnh tranh một cách phổ biến mới xác
lập được một cách phổ biến sự quản lý tốt đẹp”. [43, tr.185].
Quan niệm về cạnh tranh của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - lênin đã
có sự nhìn nhận ở tầm bao quát và đưa ra khái niệm phạm trù có tính khái quát cao về
bản chất, của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường TBCN:
Trong các học thuyết kinh tế của mình, C.Mác cho rằng, cạnh tranh là thuộc
tính cố hữu của nền kinh tế thị trường, theo đó kinh tế thị trường càng phát triển thì
cạnh tranh ngày càng đa dạng, khốc liệt cả phạm vi và tính chất.
Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, cạnh tranh tự do là một đặc trưng
nổi bật của nền kinh tế thị trường TBCN. Các chủ thể kinh tế tự do sản xuất kinh
doanh và tự do cạnh tranh với nhau. Theo đó ở giai đoạn này cạnh tranh diễn ra ở
hai cấp độ cơ bản là cạnh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh
trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất
cùng một loại hàng hóa, nhằm mục đích giành ưu thế trong sản xuất và trong tiêu
thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh
giữa các xí nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm
mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, Lênin đã phân tích chứng minh
nhận định của C.Mác về: tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất, tập trung sản xuất
đến mức độ nhất định là dẫn đến độc quyền. Lênin đã phân tích các hình thức cạnh
tranh trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Từ những phân tích trên đây có thể hiểu cạnh tranh là quan hệ kinh tế
phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo đuổi
mục đích lợi nhuận tối đa. Hay nói cách khác đây chính là sự ganh đua giữa
các chủ thể nhằm giành được những điều kiện thuận lợi nhất cho mình để thu
được lợi nhuận cao nhất mà phía đối thủ cạnh tranh không thể đạt được. Từ
11
khái niệm trên đây, chúng ta thấy rằng cạnh tranh còn là một phương thức giải
quyết mâu thuẫn, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường.
Các chủ thể kinh tế thực hiện mục tiêu của mình, thu lợi nhuận của mình thông
qua các phương thức cạnh tranh hợp pháp, các cách thức cạnh tranh của các
chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Quan niệm về năng lực cạnh tranh
Trong khi nghiên cứu về cạnh tranh các nhà nghiên cứu còn sử dụng khái
niệm sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh (trong thực tế sức cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh được sử dụng như là khái niệm đồng nghĩa). Tuy nhiên, đây là khái
niệm phức hợp, phạm vi phản ánh của nó cũng rất đa dạng thuộc tầm vĩ mô, là
năng lực hay sức canh tranh của nền kinh tế; ở tầm vi mô là sức cạnh tranh hay
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Trong các tài liệu hiện nay liên quan đến vấn đề này chưa có định nghĩa
thống nhất về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể nêu ra
một số định nghĩa về năng lực canh tranh của các doanh nghiệp như sau:
Theo Philip Lasser: Năng lực cạnh tranh của công ty trong một lĩnh
vực xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để
có thể canh tranh thắng lợi. [49, tr.24].
Theo báo cáo vể sức canh tranh (1995) của diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) cũng chỉ ra rằng: Năng lực canh tranh quốc tế của doanh nghiệp là khả
năng của một công ty, một nước trong việc sản xuất ra của cải trên thị trường
thế giới nhiều hơn đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo TS. Vũ Trọng Lâm: “ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể
hiện ở khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và đạt các
mục tiêu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp
trong nước và quốc tế”. [29, tr.24- 25].
12
Theo TS. Nguyễn Hữu Thắng: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản
phẩm đầu ra, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các
yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững” [51, tr.19].
Trong nhận thức về năng lực cạnh tranh, cần có sự phân biệt năng lực canh
tranh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích cuối
cùng của doanh nghiệp trong cạnh tranh là lợi nhuận, lợi ích kinh tế cũng có nghĩa
là đảm bảo tính hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tức là có lợi nhuận sau khi trừ
chi phí nhưng không có năng lực canh tranh dài hạn nếu không duy trì được thị
phần trước các đối thủ có tiềm lực tài chính hùng mạnh hoặc thực hiện hành vi
bán phá giá. Hoặc có trường hợp doanh nghiệp có năng lực canh tranh nhưng
không đạt hiệu quả trong ngắn hạn nếu hành vi cạnh tranh đó nhằm chiếm lĩnh thị
trường... Như vậy, hiệu quả kinh doanh phản ánh tương quan giữa kết quả đạt
được so với chi phí bỏ ra, còn năng lực canh tranh của doanh nghiệp lại được xem
xét trong mối tương quan so sánh về tiềm năng, thực lực của nó với doanh nghiệp
khác trên cùng một phạm vi thị trường trong một thời gian nhất định về một loại
hàng hoá dịch vụ mà không phân biệt loại hình doanh nghiệp.
1.1.3. Quan niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Có thể hiểu năng lực cạnh tranh là tất cả những yếu tố cấu thành nên
các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường. Khái niệm năng lực cạnh
tranh có thể hiểu đồng nghĩa với khả năng cạnh tranh của mỗi một chủ thể
trên thị trường. Một chủ thể cạnh tranh yếu là một chủ thể không có năng lực
cạnh tranh hay nói khác chủ thể đó không có đủ các yếu tố tham gia quá trình
cạnh tranh trên thị trường. Và ngược lại một chủ thể mạnh trong quá trình
cạnh tranh là một chủ thể có năng lực cạnh tranh và có đầy đủ các yếu tố tham
gia quá trình cạnh tranh.
13
Trên các góc độ khác nhau, có các cách hiểu khác nhau về năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp [17, tr.43-53; 20, tr.56-63].
Theo Fafchamps thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình
thấp hơn giá trị của nó trên thị trường. Điều đó có nghĩa là, doanh nghiệp có khả
năng sản xuất ra loại sản phẩm có chất lượng tương tự như doanh nghiệp khác
nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh.
Theo Dunning thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
cung cấp sản phẩm của chính doanh nghiệp trên thị trường khác nhau mà
không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó. Theo cách hiểu này
thì một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là một doanh nghiệp có thể sản
xuất và bán sản phẩm đó ra trên các thị trường khác nhau vẫn thu được lợi
nhuận, không phụ thuộc vào địa điểm sản xuất sản phẩm đó.
Theo Randall thì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng
giành được, duy trì thị phần trên thị trường và lợi nhuận nhất định.
Cũng có quan điểm cho rằng, năng lực canh tranh của doanh nghiệp là
trình độ công nghệ có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị
trường, đồng thời duy trì mức thu nhập thực tế của mình.
Các quan điểm này tuy có nhiều điểm khác nhau và cũng chưa
định nghĩa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp một cách đầy đủ nhưng
qua đó có thể thấy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào hai
yếu tố là khả năng chiếm lĩnh thị trường và khả năng thu được lợi nhuận.
Hay nói cách khác, khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận và thị phần của
doanh nghiệp trên thị trường sản xuất hàng hoá đó tăng lên đồng nghĩa với
việc năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là mạnh. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế thì thị trường của doanh nghiệp không chỉ gói gọn là
thị trường trong nước nữa mà bao hàm cả thị trường quốc tế (cạnh tranh khi
xuất khẩu hay cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu ngay tại thị trường nội
địa). Dó đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp thường xuyên
phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức.
14
Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào
năng lực khai thác các thế mạnh độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí
thấp và tính mới của sản phẩm. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp
cần xác định được lợi thế của mình mới có thể giành thắng lợi. Có hai nhóm lợi thế
cạnh tranh, đó là:
Một là, lợi thế về chi phí: Tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ
cạnh tranh. Các yếu tố sản xuất như máy móc, công nghệ, vốn và lao động
thường được xem là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh.
Hai là, lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm
tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc
nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị
trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ. [41, tr.87-92].
Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế
so sánh của nó. Các quan điểm cổ điển về khả năng cạnh tranh đều dựa trên
việc so sánh các yếu tố cấu thành nên sản phẩm như: vốn, lao động, nguyên
liệu, chi phí, giá thành, giá bán, thị phần, lợi nhuận... Một sản phẩm được coi
là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có mức giá thấp hơn.
Từ những vấn đề đã nêu trên, tác giả quan niệm: năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp là khả nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản
phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, sử dụng có hiệu quả các yếu tố
sản xuất nhằm đạt lợi nhuận cao và phát triển bền vững
1.2. Quan niệm, tiêu chí đánh giá, các yếu tố ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của
thành phố Hà Nội
Quan niệm về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp dệt may của thành phố
Hà Nội, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Có quan điểm
gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May với ưu thế của sản phẩm
15
mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại gắn năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp Dệt May theo thị phần mà doanh nghiệp đang chiếm giữ, có
người lại đồng nghĩa năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May với hiệu quả
của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu năng lực cạnh
tranh chỉ là thực lực và lợi thế của bản thân doanh nghiệp thì chưa đủ bởi vì
doanh nghiệp cạnh tranh có thắng lợi hay không lại bị tác động của rất nhiều
nhân tố, trong đó có sự tác động động của ngoại lực, của sự vay mượn tạm
thời để duy trì vị trí của nó trên thị trường bằng rất nhiều cách khác nhau.
Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp Dệt May thực lực rất nhỏ nhưng vẫn
duy trì được vị trí của nó trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Do vậy, nếu chỉ hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May là thực
lực và lợi thế của doanh nghiệp sẽ làm giảm những suy nghĩ sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám huy động thực lực hoặc những lợi thế của doanh nghiệp
khác vào việc duy trì vị trí của doanh nghiệp trên thị trường.
Từ phân tích về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp ở trên, từ góc độ tiếp cận của luận văn, tác giả khái quát:
Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của thành phố Hà Nội là khả năng
khai thác, huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như nhân
lực, vật lực, tài lực... để tạo ra năng suất và chất lượng sản phẩm cao hơn so với
đối thủ cạnh tranh; đồng thời, biết lợi dụng các điều kiện khách quan một cách
có hiệu quả để tạo ra lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ, xác lập vị thế cạnh
tranh của mình trên thị trường.
Từ khái niệm trên cho thấy:
Trước hết, nói đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May của
thành phố Hà Nội là khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thông thường khi đánh giá lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May
phải đánh giá thông qua so sánh các yếu tố nội tại của doạnh nghiệp với các
16
doanh nghiệp khác cùng loại trên các mặt như quy mô, khả năng tham gia cạnh
tranh và rút khỏi thị trường, quy mô và sản phẩm, năng lực quản lý, năng suất
lao động, trình độ công nghệ. Vì vậy để đánh giá năng lực cạnh tranh doanh
nghiệp Dệt May của Hà Nội phải xem xét khả năng tạo dựng các lợi thế, khả
năng duy trì và sử dụng các lợi thế, khả năng sáng tạo và nâng cao các lợi thế
trước các đối thủ. Doanh nghiệp Dệt May nào có khả năng đổi mới và sáng tạo
lớn thì doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh cao. Ngoài ra, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp Dệt May còn được thể hiện ở chiến lược kinh doanh
thích hợp và hiệu quả kinh doanh từ khâu nắm bắt thông tin đến khâu tổ chức
sản xuất, từ đổi mới công nghệ đến phương pháp quản lý phục vụ, từ đổi mới
mặt hàng, các loại hình dịch vụ đến công việc tiếp thị, quảng cáo.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp có được phải dựa trên cơ sở
khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó tạo ra năng suất,
chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp là
năng suất, trong đó năng suất được đo bằng giá trị gia tăng do một đơn vị lao
động (hay một đơn vị vốn) tạo ra trong một đơn vị thời gian. Năng suất là
nhân tố quyết định quan trọng nhất của mức sống dài hạn và là nguyên nhân
sâu xa của thu nhập bình quân đầu người. Đến lượt nó năng suất lao động lại
phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Theo đó có ba nhân tố tác động trực tiếp tới năng suất của doanh
nghiệp đó là: môi trường kinh doanh, trình độ phát triển cụm ngành, hoạt
động và chiến lược của doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh là điều kiện
bên ngoài giúp doanh nghiệp đạt được mức năng suất và trình độ đổi mới,
sáng tạo cao nhất. Chất lượng của môi trường kinh doanh thường được
đánh giá qua bốn đặc tính tổng quát bao gồm các điều kiện về nhân tố đầu
vào, các điều kiện cầu, các ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan và
chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Trong đó, các điều kiện
17
về yếu tố đầu vào có thể được chia thành cơ sở hạ tầng nguồn vốn, nguồn
nhân lực, nguồn tài sản vật chất, và nguồn kiến thức. Các địa phương đều
có những yếu tố này nhưng sự phối hợp của các nhân tố đó lại rất khác
nhau và lợi thế cạnh tranh từ các nhân tố này phụ thuộc vào việc chúng
được triển khai và hiệu quả hay không.
Đối với các doanh nghiệp Dệt May một số nhân tố như nhân lực, kiến
thức, và vốn có thể di chuyển qua lại giữa các địa phương, cho nên việc có
sẵn các nhân tố này ở mỗi địa phương không phải là một lợi thế cố hữu, bất di
bất dịch. Hơn nữa, nguồn dự trữ các nhân tố đầu vào mà một địa phương có
được ở một thời điểm cụ thể không quan trọng bằng tốc độ và tính hiệu quả
mà địa phương đó tạo ra cũng như việc nâng cấp và sử dụng các nhân tố này
trong ngành nghề cụ thể. Chính vì vậy, ngoài bốn đặc tính kể trên thì cần phải
nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hoạch định và
thực thi các chính sách kinh tế, trong việc định hình nhu cầu và thiết lập các
tiêu chuẩn cho cạnh tranh nhằm hướng đến việc cải thiện năng suất lao động.
Nhân tố về hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp Dệt May đánh giá
các điều kiện bên trong nhằm giúp doanh nghiệp đạt được mức năng suất và
trình độ đổi mới sáng tạo cao nhất dựa trên độ tinh thông, những kỹ năng, năng
lực và thực tiễn quản lý của doanh nghiệp. Nhân tố này bao gồm những đánh giá
từ nền tảng học vấn và trình độ chuyên môn của chủ doanh nghiệp Dệt May,
trình độ hiểu biết và khả năng ứng dụng khoa học - công nghệ và công nghệ
thông tin trong kinh doanh, những chuẩn mực cao về quản trị, điều hành, cả
năng lực đối thoại, tư vấn và phản biện chính sách của doanh nghiệp Dệt May.
Thứ ba, sức cạnh tranh của doanh nghiệp quyết định đến sự phát triển
của doanh nghiệp. Trong nền KTTT, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
phụ thuộc rất lớn vào sự tín nhiệm của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp.
Trong khi đó, uy tín của doanh nghiệp thông thường lại do chính năng lực nội
tại của doanh nghiệp quyết định, tức là do chính những ưu thế về thương hiệu,
18
chất lượng sản phẩm, khả năng đáp ứng nhu cầu phong phú,đa dạng của
người tiêu dùng quyết định.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May
Đánh giá về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May ngày nay
thường dựa vào các tiêu chí sau:
* Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp Dệt May trên thị trường. Do đặc điểm mỗi sản phẩm sản xuất
ra có đặc trưng khác nhau, nên khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp Dệt May
được quyết định bằng việc chất lượng sản phẩm sản xuất ra cao hơn so với sản
phẩm dệt may cùng loại của doanh nghiệp khác. Chất lượng đóng vai trò quan
trọng trong việc đánh giá khả năng cạnh tranh của một sản phẩm của doanh
nghiệp Dệt May, quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp cũng như thị phần của
doanh nghiệp Dệt May có được trên thị trường. Nhờ nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ mà vị thế của doanh nghiệp Dệt May ngày càng được củng cố và
mở rộng, uy tín, danh tiếng sẽ giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều khách hàng,
tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất và qua đó tạo điều kiện để đầu tư nâng cao chất
lượng sản phẩm dệt may ngày càng đáp ứng hơn với thị trường, nhất là chu kỳ sản
phẩm dệt may có vòng đời rất ngắn. Nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là một
yếu tố để doanh nghiệp đó có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các
doanh nghiệp Dệt May trên thị trường nội địa, bảo vệ thị trường trong nước và gia
tăng thị phần trên thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt may của doanh nghiệp mình.
Đó cũng là biện pháp hữu hiệu để kết hợp hài hoà các loại lợi ích của doanh
nghiệp Dệt May, với lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của người lao động.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh được nhìn nhận trên quan
điểm tổng hợp. Có thể thấy rằng, nâng cao chất lượng sản phẩm là giải pháp
hàng đầu để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đó trên mọi thị trường trong
điều kiện tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế như hiện nay.
19
* Đa dạng hóa sản phẩm
Trong cơ chế thị trường hiện nay, quan hệ cung cầu là quan hệ chủ yếu quyết
định sự tồn tại cũng như phát triển của thị trường hàng hoá đó và là yếu tố xác định khả
năng sản xuất, tiêu thụ mỗi mặt hàng dệt may. Một sản phẩm dệt may có thể đứng
vững trên thị trường thì phải được sự chấp nhận của người tiêu dùng. Trong quá trình
tồn tại và phát triển của thị trường luôn nảy sinh những nhu cầu mới, đặt ra những đòi
hỏi cao hơn, khắt khe hơn hay nói cách khác là “cái mới phải tốt hơn, ưu việt hơn cái
cũ”. Đối với mỗi doanh nghiệp Dệt May khi tham gia thị trường đều chịu ảnh hưởng
của yêu cầu này và để tồn tại, phát triển thì đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn hoàn thiện
sản phẩm của mình. Hơn nữa cũng cần phải tìm ra những sản phẩm mới đa dạng,
phong phú sẽ thay thế khi sản phẩm cũ đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn được thị
trường chấp nhận, thậm chí còn phải nhận biết cơ hội khi sản phẩm đang ở trong giai
đoạn suy thoái không chờ đến khi thị trường từ chối sản phẩm của mình. Mức độ đa
dạng hoá sản phẩm hay cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú sẽ giúp doanh nghiệp Dệt
May ổn định doanh thu, tăng thị phần và phát triển một cách tốt nhất. Để đa dạng hoá
sản phẩm doanh nghiệp Dệt May cần dựa vào lợi thế so sánh của mình để sản xuất ra
những sản phẩm có chất lượng tốt, được thị trường chấp nhận, phát huy được lợi thế
tương đối so với các doanh nghiệp Dệt May khác trong nước, các doanh nghiệp Dệt
May của nước khác.
* Giá thành sản phẩm
Giá cả là một trong những yếu tố quan trọng trong chiến lược cạnh
tranh của doanh nghiệp Dệt May, cạnh tranh bằng giá cả đồng nghĩa với việc
sản xuất với chi phí thấp để bán với mức giá thấp hơn so với đối thủ cạnh
tranh trên thị trường.
Giá cả của một sản phẩm dệt may trên thị trường được xác định thông
qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau
để đi tới một mức giá cuối cùng mà với mức giá đó thì cả hai bên đều có lợi.
Nếu như chênh lệch về giá cả giữa chủ thể và đối thủ cạnh tranh thấp hơn so
20
với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh trong khi giá trị sử dụng là
tương đương nhau, thì chủ thể hay cụ thể hơn là doanh nghiệp Dệt May đã
đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Điều đó
tạo điều kiện cho sản phẩm của doanh nghiệp Dệt May ngày càng có chỗ đứng
trên thị trường, tức là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh cao.
Yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp Dệt May là phải hạ giá thành sản phẩm
nhưng vẫn phải đạt chất lượng tiêu chuẩn để sản phẩm dệt may có khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
* Vị thế, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường
Vị thế của doanh nghiệp Dệt May trên thị trường thể hiện bằng thị trường mà
doanh nghiệp đó dành được. Nếu thị trường của doanh nghiệp Dệt May lớn hơn các
đối thủ cạnh tranh khác thì điều đó cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp đạt hiệu quả, chiếm một vị trí ổn định trên thị trường. Thị trường của
doanh nghiệp Dệt May cũng như các thị trường khác, có ý nghĩa quan trọng, ảnh
hưởng đến doanh thu, lợi nhuận cũng như sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, uy tín của doanh nghiệp cũng đánh giá vị trí của doanh Dệt May
nghiệp trên thị trường.
Uy tín của doanh nghiệp Dệt May là một yếu tố vô hình nhưng có ảnh
hưởng khá lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cạnh
tranh bằng uy tín có nghĩa là mang đến cho người tiêu dùng sự tin cậy vào mình
về sản phẩm, chất lượng, giá cả, mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm dệt may mà
mình sản xuất ra. Để có được điều này phải cần một quá trình phát triển lâu dài.
Khi doanh nghiệp Dệt May chiếm được uy tín của người tiêu dùng thì sản phẩm
của doanh nghiệp trên thị trường sẽ được khách hàng chú ý nhiều hơn và tiêu
dùng nhiều hơn. Để tạo lập được uy tín đòi hỏi doanh nghiệp Dệt May phải có
tiềm lực tài chính vững mạnh, chất lượng sản phẩm cao, các loại hình dịch vụ đa
dạng, phong phú và tiện lợi với khách hàng.
21
* Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Dệt May là tập hợp các
kênh phân phối sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Tùy theo đặc điểm của
doanh nghiệp Dệt May, của sản phẩm và thị trường tiêu thụ mà các doanh nghiệp
lựa chọn kênh phân phối một cách hợp lý hoặc sử dụng hỗn hợp các kênh phân
phối để phát huy tối đa lợi thế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp Dệt May sử dụng
công cụ này để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá và nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Yếu tố này ngày càng trở nên quan trọng đối với
doanh nghiệp Dệt May trong quá trình hội nhập quốc tế và trong thị trường cạnh
tranh khốc liệt hiện nay.
Ngoài sáu tiêu chí trên còn rất nhiều tiêu chí khác nữa để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May trên thị trường. Các doanh
nghiệp Dệt May muốn đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của mình thì cần
phải kết hợp các chỉ tiêu đó một cách hợp lý. Mỗi tiêu chí đều có những ưu
nhược điểm khác nhau nên khi kết hợp chúng sẽ bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình và các đối thủ
cạnh tranh là một yêu cầu tất yếu đòi hỏi các doanh nghiệp Dệt May phải thực
hiện để từ đó giúp các doanh nghiệp Dệt May có chiến lược kinh doanh tốt
mang lại lợi nhuận cao nhất và chiếm được ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp Dệt May
* Các yếu tố khách quan
Thứ nhất, môi trường chính trị, luật pháp và hệ thống chính sách kinh tế
Môi trường chính trị ổn định luôn luôn là tiền đề cho việc phát triển và mở
rộng các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Dệt May, các tổ chức cá nhân
trong và ngoài nước. Môi trường pháp lý là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
tạo ra một hành lang cho hoạt động của các doanh nghiệp, ảnh hưởng đến các hoạt
động của doanh nghiệp Dệt May như sản xuất kinh doanh cái gì, sản xuất bằng
cách nào, bán cho ai ở đâu, nguồn đầu vào... Các doanh nghiệp Dệt May phải chấp
22
hành các quy định của pháp luật, phải thực hiện các nghĩa vụ của mình với nhà
nước, với xã hội và với người lao động như thế nào là do luật pháp quy định (nghĩa
vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm bảo đời sống cho cán
bộ công nhân viên trong doanh nghiệp).
Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân,
tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... Là các yếu tố tác động trực tiếp
tới hoạt động sản xuất kinh doanh từng doanh nghiệp Dệt May. Nếu tốc độ tăng
trưởng nền kinh tế quốc dân cao, các chính sách của Chính phủ khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm
phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu người tăng... Sẽ tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh và ngược lại.
Thứ hai, môi trường quốc tế
Thương mại quốc tế có liên quan nhiều tới các quốc gia trên thế giới,
do vậy, môi trường kinh tế, chính trị của thế giới có tác động rất lớn đối với
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May.
Hiện nay, xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, từng khu vực thành lập nên khu vực mậu dịch tự do,
các công ty khác nhau trên thế giới cũng có sự sáp nhập nhằm mở rộng hoạt
động và thị trường tiêu thụ. Trong xu thế đó, việc Việt Nam gia nhập các tổ
chức APEC, FTA, WTO, đã tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nước có
điều kiện phát triển. Bên cạnh những thuận lợi của quá trình hội nhập kinh tế
đưa lại, thì quá trình hội nhập này cũng đặt ra những thách thức ảnh hưởng
không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt May.
Nhiều nước trên thế giới một mặt vẫn tích cực tham gia hội nhập,
nhưng vẫn tìm mọi biện pháp nhằm bảo hộ cho các ngành sản xuất của mình.
Thông qua các biện pháp bảo hộ mậu dịch như: hạn ngạch nhập khẩu; cấp
giấy phép nhập khẩu; quản lí ngoại hối và biện pháp thuế quan.
23
Các biện pháp trên đã khiến cho cạnh tranh của các doanh nghiệp trở
nên ngày càng gay gắt trên thị trường.
Bên cạnh đó, hiện nay nhiều nước trên thế giới đang tăng cường đầu tư cho
doanh nghiệp Dệt May nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm dệt
may.
Thứ ba, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành Dệt May
ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp Dệt
May, ảnh hưởng tới giá bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm... Do vậy ảnh hưởng
tới hiệu quả của mỗi doanh nghiệp Dệt May.
Trong cơ chế thị trường, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Dệt May cùng
sản xuất hoặc cung cấp một sản phẩm, dịch vụ cùng loại là hết sức gay gắt, nhất là
các mặt hàng chiến lược của các doanh nghiệp Dệt May có mức lợi nhuận cao. Điều
này buộc các doanh nghiệp Dệt May phải có chính sách cạnh tranh linh hoạt (sản
phẩm, giá cả, marketing...) nhằm tăng cường mở rộng chiếm lĩnh thị trường. Doanh
nghiệp Dệt May phải biết tận dụng những kẽ hở của đối phương, đánh vào những
yếu điểm đó để có thể làm nổi bật những ưu thế về hàng hoá, dịch vụ của mình. Bên
cạnh đó phải cố gắng tìm hiểu mục tiêu hiện tại và tương lai của đối thủ cạnh tranh là
gì? Và đối thủ cạnh tranh đánh giá như thế nào về mục tiêu và năng lực của các đối
thủ cạnh tranh của họ. Một đối thủ cạnh tranh mà họ đã từng nổi tiếng trên thương
trường thì khả năng cạnh tranh được là rất khó khăn. Các doanh nghiệp Dệt May
phải phân tích được điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh để có những biện
pháp hợp lý trong từng điều kiện, từng hoàn cảnh. Tất cả phải đều nhằm vào mục tiêu
cao nhất của doanh nghiệp và lợi nhuận, vị thế, an toàn. Ngoài ra, một yếu tố cũng có
tác động không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó là tình hình kinh
doanh của các đối tác trong cùng một tập đoàn kinh doanh. Đây là yếu tố thuộc môi
24
trường vĩ mô của doanh nghiệp Dệt May.
25