Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ GIẢM NGHÈO bền VỮNG ở TỈNH hà NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.34 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG Ở TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY

10
10

1.1.
1.2.

Một số vấn đề lý luận về giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
Sự cần thiết và những nhân tố tác động đến giảm nghèo bền

1.3.

vững ở tỉnh Hà Nam
20
Kinh nghiệm giảm nghèo bền vững của một số địa

phương trong nước và bài học đối với tỉnh Hà Nam
26
Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở TỈNH
2.1.

HÀ NAM THỜI GIAN QUA
33
Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến giảm
nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam



2.2.

33

Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra về

giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
38
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY
MẠNH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG Ở TỈNH HÀ NAM
3.1.

TRONG THỜI GIAN TỚI
53
Quan điểm cơ bản đẩy mạnh giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà

3.2.

Nam trong thời gian tới
53
Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà
Nam trong thời gian tới

62

KẾT LUẬN

80


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

PHỤ LỤC

88


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đói nghèo là một hiện tượng xã hội, một phạm trù lịch sử, thu hút sự
quan tâm của cả cộng đồng quốc tế. Trong thế giới đương đại, nhiều quốc gia
trên thế giới đã nỗ lực xóa đói nghèo và đạt được những thành tựu nhất định.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy hàng tỷ người ở nhiều quốc gia vẫn còn nghèo khổ;
cuộc chiến chống đói nghèo gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể giải
quyết triệt để một sớm một chiều. Vì vậy, đây là vấn đề các chính phủ, các nhà
lãnh đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm ra giải pháp hạn chế và tiến tới
xoá bỏ cuộc sống nghèo khổ trên phạm vi toàn cầu... Bước vào thế kỷ XXI, đói
nghèo vẫn là một trong những thách thức lớn của nhân loại. XĐGN được coi là
một trong những nhiệm vụ quan trọng ưu tiên hàng đầu trong các mục tiêu phát
triển của thế giới hiện đại.
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề XĐGN luôn được Đảng, Nhà nước và
toàn xã hội quan tâm thực hiện trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN, đồng thời xem đó là nhiệm vụ quan trọng để phát triển nhanh và
bền vững. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng
định: “Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo
ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa các nguồn lực và
phương thức xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn,
phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để xóa đói, giảm nghèo

bền vững” [18, tr.229]. Chính phủ Việt Nam luôn coi vấn đề giảm nghèo và
GNBV là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển KT - XH của đất nước.
Hà Nam là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, cửa ngõ phía
Nam của Thủ đô Hà Nội, hơn 80% dân số sống ở khu vực nông thôn. Những
năm đầu tái lập tỉnh, cơ sở hạ tầng KT - XH thấp kém, hệ thống giao thông, hạ
tầng đô thị lạc hậu. Nền kinh tế thuần nông nhỏ lẻ, manh mún, tỷ trọng kinh tế
nông nghiệp chiếm gần 50%. Thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức
bình quân cả nước, đời sống của cán bộ, công chức và phần lớn dân cư gặp
khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao... Trước tình hình đó, những năm qua, Tỉnh
3


ủy, UBND tỉnh Hà Nam đã có nhiều chủ trương,biện pháp tích cực, khá đồng
bộ thực hiện công tác GNBV. Do đó, đời sống nhân dân được nâng cao, các
chính sách an sinh xã hội được thực hiện có hiệu quả. Nhưng do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, công tác GNBV ở Hà Nam hiện nay
còn nhiều vấn đề bất cập cả về chủ trương, chính sách cũng như công tác tổ
chức thực hiện. Hiện nay, trên địa bàn của tỉnh, số hộ nghèo, người nghèo, tỷ lệ
tái nghèo còn khá cao. Nếu không giải quyết triệt để tình trạng này, không
GNBV thì sự phân hóa giàu - nghèo sẽ gia tăng, kìm hãm sự phát triển bền vững
của tỉnh. Đây là một vấn đề lớn và phức tạp, nhưng từ trước đến nay chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, đề xuất chủ trương và giải
pháp đồng bộ, toàn diện, có tính khả thi về GNBV trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Vì
vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Các công trình và bài viết của người nước ngoài
Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, vấn đề nghèo và giải quyết tình
trạng nghèo đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu dưới các góc độ khác
nhau. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin như C.Mác và

Ph.Ăngghen đã từng đề cập vấn đề nghèo dưới góc độ kinh tế chính trị ở
nhiều tác phẩm như: “Bản thảo kinh tế - triết học”, “Tình cảnh giai cấp công
nhân ở Anh”, “Lao động làm thuê và tư bản”, đặc biệt là bộ “Tư bản” rất nổi
tiếng. Hai ông đã phân tích sâu sắc bản chất bóc lột của giới chủ tư sản, sự đối
lập giàu - nghèo, thảm cảnh của những người lao động làm thuê, lao động bị
tha hóa trong xã hội tư bản và nguyên nhân của thực trạng đó. Đồng thời, các
ông còn vạch rõ con đường, biện pháp giải quyết triệt để sự bất công, bất bình
đẳng và nghèo đói trong xã hội tư bản.
Trong một số tác phẩm của mình, V.I. Lênin đã đề cập đến thực trạng
và nguyên nhân đói nghèo của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân ở
nước Nga. Tiêu biểu là các tác phẩm: “Gửi nông dân nghèo”, “Sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, “Những biến đổi về kinh tế trong đời sống nông
4


dân”. Đặc biệt, Lênin đã khởi xướng và lãnh đạo thành công việc thực hiện
Chính sách kinh tế mới (NEP), khắc phục được sự khủng hoảng trầm trọng về
KT - XH, giải quyết nạn đói nghèo của nhân dân trong những năm đầu chính
quyền Xô viết non trẻ mới được thành lập.
Trong sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
tình trạng đói nghèo của nhân dân trong nước và người dân ở các nước thuộc
địa. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng này và con đường giải
phóng các dân tộc bị áp bức, bóc lột, đem lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc
cho các dân tộc thuộc địa và nhân dân lao động. Người đã xác định “đói”
cũng là một loại giặc và phải kiên quyết “Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm”. Trong cách mạng XHCN, Người đề xuất chủ trương: “Làm cho người
nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”,
“Tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”...
Trong cuốn “Việt Nam cải cách kinh tế theo hướng rồng bay” [Nguồn:
Viện phát triển quốc tế Harvard, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội 1994], các tác

giả cho rằng nghèo đói tại Việt Nam không đồng đều ở các vùng và nguyên
nhân của nó cũng khác nhau. Trong cuốn “Việt Nam đánh giá sự nghèo đói
và chiến lược phát triển” của Ngân hàng thế giới (WB) đã nêu thực trạng
nghèo đói, đưa ra chiến lược giảm nghèo, đó là: duy trì và đảm bảo tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, cung cấp đầy đủ các dịch vụ xã hội và hệ thống bảo
trợ xã hội. Nhóm tác giả trong cuốn “Quan hệ tài chính các cấp và xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam” đã nêu lên mối quan hệ phân cấp tài chính giữa
chính quyền trung ương với chính quyền địa phương trong XĐGN qua hệ
thống phân phối ngân sách. Trong cuốn “Vấn đề nghèo ở Việt Nam” của công
ty ADUKI, nhóm tác giả đã đánh giá tác động của công cuộc đổi mới đối với
nghèo, nêu một số vấn đề cần xem xét để nâng cao hiệu quả giảm đói nghèo ở
Việt Nam.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, nghèo là vấn đề đã được đề cập ở
nhiều tác phẩm của nhiều tác giả khác nhau. Trong tác phẩm “Kinh tế học”
của Samuelson, David Begg và trong tác phẩm “Kinh tế học công cộng” của
5


Joseph E. Stiglitz thì nghèo được đề cập dưới góc độ kinh tế học phúc lợi.
Còn trong tác phẩm “Chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản” của Michel
Albert và tác phẩm “Một thế giới không thể chấp nhận được” của Rơnê
Đuymông, thừa nhận nghèo khổ vẫn tồn tại và gia tăng ở các nước tư bản phát
triển cho dù giới lãnh đạo cố tình che đậy bằng cách này hay cách khác. Sự
phồn hoa và vẻ hào nhoáng trong chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề xóa
nhòa, khỏa lấp hố ngăn cách giàu - nghèo giữa giới chủ và người lao động.
Các tác giả xem vấn đề nghèo khổ trong xã hội tư bản là một trong nhiều
khuyết tật và là điều không thể chấp nhận được.
Trong cuốn “Hai mươi kiến nghị xóa đói giảm nghèo trong thời kỳ
chuyển đổi nền kinh tế Trung Quốc”, tác giả đã nhấn mạnh, để công tác
XĐGN có kết quả phải đẩy mạnh việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và

điều hòa quan hệ phân phối giữa khu vực thành thị và nông thôn. Đây cũng là
một gợi ý rất thiết thực trong hoạch định chính sách, giải pháp XĐGN ở nước
ta hiện nay.
* Các công trình và bài viết của tác giả trong nước
Từ trước cho đến nay, đã có nhiều cuốn sách, nhiều bài viết của các
tác giả được xuất bản đề cập đến đói nghèo và công tác XĐGN ở Việt Nam
nói chung, các khu vực và địa phương nói riêng. Đáng chú ý là công trình
nghiên cứu “Đói nghèo ở Việt Nam” của Bộ LĐ-TB&XH. Trong công trình
này, các tác giả đã đưa ra quan niệm, tiêu chuẩn đánh giá về nghèo đói, cung cấp
một bức tranh khá sinh động, sát thực về đói nghèo, những thành tựu và hạn chế
trong công tác xóa đói giảm XĐGN Trong cuốn “Nghèo đói và xoá đói giảm
nghèo ở Việt Nam” của Lê Xuân Bá và Chu Tiến Quang (đồng chủ biên), xuất
bản năm 2001, các tác giả đã tập trung làm sáng tỏ vấn đề nghèo đói với những
số liệu, tư liệu sống động, cùng những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này,
đồng thời đưa ra các biện pháp để XĐGN ở Việt Nam. Nhóm các tác giả trong
“Ảnh hưởng của tự do hóa giá cả và cải cách thị trường đối với tình trạng nghèo
đói tại nông thôn Việt Nam”, tập trung bàn về vấn đề nghèo đói ở nông thôn Việt
Nam và sự tác động của giá cả, thị trường đến nghèo đói. Trên cơ sở đó đưa ra
6


những khuyến nghị nhằm khắc phục vấn đề này.
Nhiều công trình, bài viết hướng vào giới thiệu mô hình, kinh nghiệm
XĐGN. Tiêu biểu là cuốn “Những mô hình, kinh nghiệm giảm nghèo ở Việt
Nam” của Bộ LĐ-TB &XH, xuất bản năm 2007; bài viết “Làm theo lời Bác,
lực lượng vũ trang Quân khu 5 thực hiện tốt mô hình “xóa một hộ đói, giảm
một hộ nghèo” của Trần Quang Phương, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 12,
2013... Vấn đề được bàn đến trong các công trình, bài viết này khá bổ ích, nó
đã giới thiệu, cập nhật được một số mô hình, kinh nghiệm giảm nghèo có hiệu
quả, giúp cho việc tiếp cận, nghiên cứu và áp dụng phù hợp với điều kiện thực

tế của mỗi địa phương.
Hướng nghiên cứu của một số tác giả khác lại tập trung bàn về giải
pháp XĐGN , như: “Các giải pháp xóa đói giảm nghèo” của Bùi Ngọc Thanh;
Luận án Tiến sĩ “Các giải pháp tín dụng đối với người nghèo ở Việt Nam hiện
nay” của Đào Văn Hùng, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, 2001; Luận án
Tiến sĩ Kinh tế “Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam” của Vũ Thị Hiểu Đại học Kinh tế quốc
dân Hà Nội, 1996; Luận văn Thạc sĩ “Một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa đói
giảm nghèo ở vùng Tây Bắc giai đoạn 2006 - 2010” của Ngô Xuân Quyết,
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, 2006; Luận văn Thạc sĩ “Giảm nghèo tại
các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa” của Nguyễn Công
Bằng, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, 2009; Luận văn Thạc sĩ “Giảm
nghèo trong quá trình đô thị hóa ở Hà Nội hiện nay” của Nguyễn Quang Quý,
Học viện Chính trị, 2013... Các đề tài nêu trên dựa vào kết quả nghiên cứu,
khảo sát để đề xuất các giải pháp giảm nghèo theo hướng bền vững ở Việt
Nam và một khu vực, một vùng, một địa phương cụ thể trong quá trình
CNH, HĐH đất nước. Những tư liệu, số liệu, đánh giá, phân tích và giải
pháp mà các tác giả đưa ra đáng trân trọng, giúp cho tác giả luận văn tiếp cận
nhiều thông tin bổ ích, nhiều lập luận khoa học về một số giải pháp XĐGN ở
Việt Nam và một số địa phương. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề đặt ra đối với
bình diện của cả quốc gia, mỗi vùng và từng địa phương về GNBV đáp ứng
7


với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình hiện nay chưa được làm sáng tỏ.
Đặc biệt là trước những tác động đa chiều đến KT - XH của đất nước, quá
trình tái cấu trúc của nền kinh tế, nhiều vấn đề mới đặt ra cho quá trình
GNBV đòi hỏi phải có nhận thức đầy đủ và sâu sắc. Theo hiểu biết của tác
giả, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống vấn đề

GNBV ở tỉnh Hà Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. Có thể khẳng định, đề
tài tác giả lựa chọn không trùng với các công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề GNBV ở tỉnh Hà Nam; từ đó
đề xuất quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu đẩy mạnh GNBV ở tỉnh Hà Nam
thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải và làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm về GNBV ở tỉnh
Hà Nam.
- Đánh giá thực trạng GNBV ở tỉnh Hà Nam thời gian qua.
- Đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu thực hiện GNBV
ở tỉnh Hà Nam thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Giảm nghèo bền vững trong giai đoạn hiện nay
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về GNBV trên địa bàn
tỉnh Hà Nam.
Về thời gian: Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu, phân tích số liệu
từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Luận văn dựa vào cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
8


chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để làm rõ cơ
sở lý luận và thực tiễn vấn đề giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam.
Đề tài tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về GNBV của các

tác giả trong nước, vận dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của tỉnh Hà
Nam. Đồng thời, dựa vào các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của UBND,
Cục Thống kê, Sở LĐ-TB&XH tỉnh Hà Nam đã được công bố từ năm 2005
đến nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng, đề tài sử dụng phương
pháp trừu tượng hóa khoa học kết hợp với các phương pháp được sử dụng
rộng rãi trong khoa học kinh tế chính trị như: Thống kê, so sánh, phân tích,
tổng hợp, khảo sát thực tiễn và chuyên gia nhằm giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về GNBV ở một số địa phương, cụ thể là tỉnh Hà Nam.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu và giảng dạy môn học Kinh tế chính trị Mác - Lênin
trong các học viện, nhà trường; đồng thời cung cấp cứ liệu khoa học có ý
nghĩa tham khảo và khuyến nghị đối với các địa phương và tỉnh Hà Nam về
xây dựng chủ trương, biện pháp GNBV.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương (7 tiết).

9


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
Ở TỈNH HÀ NAM HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
1.1.1. Quan niệm, tiêu chí về nghèo và giảm nghèo bền vững
* Quan niệm về nghèo

Đói, nghèo là một hiện tượng lịch sử, có thể sinh ra, tồn tại, phát triển và
mất đi ở mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia hay mỗi chế độ xã hội.
Vấn đề đói, nghèo đã thu hút được nhiều nhà khoa học, nhiều học giả, nhiều
trường phái trong lịch sử cũng như hiện tại quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,
mỗi thời đại khác nhau, ý thức hệ và cách tiếp cận khác nhau dẫn đến lý giải
khác nhau về bản chất, nguyên nhân và cách giải quyết đói, nghèo.
Các nhà triết học duy tâm dựa vào các lực lượng siêu nhiên như Chúa
trời, thánh thần để giải thích hiện tượng đói, nghèo, từ đó họ khuyên mọi
người nên an phận, thủ thường, chấp nhận với cuộc sống hiện tại. Khổng Tử,
nhà triết học Trung Quốc cổ đại, người sáng lập ra học thuyết Nho giáo đã đề
cập đến đói, nghèo trong quan điểm “thiên mệnh” của mình. Theo ông, mệnh
trời là ý trời, trời cho người ta sống được sống, bắt chết phải chết, cho giàu
được giàu, bắt nghèo phải nghèo. Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm, không
có cơ sở khoa học và đã bị Mặc Tử, nhà triết học duy vật sau này phê phán.
Trong quan điểm “phi thiên mệnh”, Mặc Tử cho rằng: Giàu, nghèo, thọ, yểu
không phải do định mệnh của trời mà do con người, nếu người ta nỗ lực làm
việc, tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói.
Thomas Robert Malthus (1766 - 1884), học giả kinh tế học tư sản cho rằng:
Đói, nghèo là do tình trạng dân số tăng theo cấp số nhân, của cải tăng theo cấp
số cộng, nên lượng lương thực, thực phẩm và các tư liệu sinh hoạt cần thiết khác
cho cuộc sống con người sẽ tụt xuống dưới mức cần thiết. Vì vậy, một bộ phận
dân cư phải sống trong điều kiện đói, nghèo là lẽ đương nhiên. Sai lầm của
Thomas Robert Malthus là đã so sánh sự gia tăng dân số cơ học ở Mỹ với tăng
tư liệu tiêu dùng ở Pháp để đưa ra mệnh đề trên. Mặt khác, ông không tính đến
10


sự phát triển của tiến bộ khoa học và đặc điểm phát triển của nhân khẩu học.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã từng đề cập đến đói, nghèo trong xã hội tư
bản. Trong nhiều tác phẩm của mình, các ông đã phác họa “bức tranh” chân

thực về tình trạng nghèo khổ của những người vô sản phải bán sức lao động
trong các nhà máy, hầm mỏ của các chủ tư bản để kiếm sống, nông dân bị
tước đoạt hết ruộng đất phải chạy ra thành phố bổ sung vào đội quân thất
nghiệp, phụ nữ và trẻ em bị vắt kiệt sức trong các xưởng thợ. Họ trở thành
nạn nhân của sự bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối của các chủ tư
bản. Các ông còn chỉ rõ hệ quả của tình trạng bóc lột này là tích lũy sự giàu
có về phía giai cấp tư sản và sự nghèo khổ về phía giai cấp vô sản; sự nghèo
khổ của giai cấp vô sản được thể hiện ở bần cùng hoá tương đối và bần cùng
hoá tuyệt đối. Bần cùng hoá tương đối giai cấp vô sản đó là tỷ lệ thu nhập của
họ trong thu nhập quốc dân ngày một giảm, còn tỷ lệ thu nhập của giai cấp tư
sản ngày một tăng. Bần cùng hoá tuyệt đối giai cấp vô sản đó là mức sống của
họ bị giảm sút so với nhu cầu sống của họ. Sự giảm sút về mức sống xảy ra
không chỉ trong trường hợp tiêu dùng cá nhân tụt xuống một cách tuyệt đối,
mà cả khi tiêu dùng cá nhân tăng lên nhưng mức tăng đó chậm hơn mức tăng
của nhu cầu sống do sự phát triển của KT - XH đem lại. Theo C. Mác và Ph.
Ăngghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn tới tình trạng đói, nghèo trong xã hội tư
bản là do sự phân phối bất công, bất bình đẳng của cải làm ra trong xã hội, nguồn
gốc sâu xa của tình trạng này là chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Do đó, chỉ khi nào xoá bỏ chế độ tư nhân chiếm hữu về tư liệu sản
xuất, xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ cộng sản
chủ nghĩa mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi
cảnh đói nghèo, lầm than.
Hiện nay, trên thế giới cũng có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo,
tiêu biểu như:
Uỷ ban Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc về châu Á - Thái Bình
Dương (ESCAP) đưa ra định nghĩa về vấn đề nghèo, đó là: “Nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con
11



người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương”.
Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen (Đan Mạch) năm 1995 đã đưa ra định nghĩa về nghèo: "Người
nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1 USD (đô la) mỗi ngày cho
mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại".
Nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình XĐGN
ở Việt Nam, năm 1995, cho rằng: “Nghèo là tình trạng thiếu khả năng trong việc
tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh tế”.
Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đưa ra định nghĩa: “Nghèo là một khái
niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ
gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến
năng lực như dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương,
không có quyền phát ngôn và không có quyền lực”.
Mặc dù còn có những nội dung khác nhau, nhưng các quan niệm trên
đều có điểm chung là: Nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện, đó
là thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để bảo đảm
tiêu dùng ở mức độ tối thiểu, đặc biệt là những lúc khó khăn, dễ bị tổn thương
trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó
khăn tới những người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình
ra quyết định, có cảm giác không được người khác tôn trọng.
Từ quan niệm chung này, người ta còn đi sâu nghiên cứu và đưa ra hai
khái niệm khác, đó là nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
Nghèo tương đối, là một phạm trù chỉ mức sống của một cộng đồng hay
một nhóm dân cư này thấp so với mức sống của cộng đồng hay nhóm dân cư
khác. Quan niệm này có phần phiến diện, vì nếu đặt trong sự so sánh thu nhập
giữa các nhóm dân cư trong xã hội, chẳng hạn chia xã hội thành năm nhóm
theo thu nhập, thì ở bất cứ xã hội nào cũng có nhóm giàu nhất, nhóm nghèo
nhất và nhóm trung bình. Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy, ngay trong nhóm
12



dân cư nghèo có một bộ phận rất nghèo, nghèo tuyệt đối, nghĩa là họ phải
sống trong điều kiện cùng cực, đói ăn, thiếu mặc.
Nghèo tuyệt đối, là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã
hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa
phương [1, tr.70]. Khái niệm này do Uỷ ban KT - XH châu Á - Thái Bình Dương
của Liên Hợp Quốc (ESCAP) đưa ra tại Hội nghị bàn về giảm nghèo, đói ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái
Lan và đã được nhiều nước chấp nhận. Khái niệm này có tính định hướng về
phương pháp nhận diện những nét cơ bản, phổ biến của nghèo, vì chuẩn mực của
nghèo còn để ngỏ về mặt lượng hoá. Khái niệm trên chưa đề cập tới chuẩn mực
của nghèo, chưa lượng hoá được nghèo và chưa tính tới sự khác nhau về mức
sống giữa các vùng trong một nước cũng như giữa các nước với nhau.
Nghèo ở Việt Nam cũng bao gồm nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
Nghèo tương đối là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình
của cộng đồng tại thời điểm xét; nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân
cư có thu nhập không đủ thoả mãn các nhu cầu tối thiểu (ăn, mặc, ở, các nhu cầu
văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại và giao tiếp xã hội) để duy trì cuộc sống.
Tóm lại: Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo, nhưng điểm chung
nhất để xác định nghèo vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thỏa mãn những nhu
cầu cơ bản của con người. Sự khác nhau duy nhất là thỏa mãn ở mức cao hay
mức thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển KT - XH cũng như
phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
* Tiêu chí về nghèo, cận nghèo
Để đo lường nghèo khổ, cần phải xác định chuẩn nghèo (ngưỡng nghèo).
Những người có mức thu nhập dành cho chi tiêu vật chất dưới ngưỡng này
được coi là những người nghèo. Những người có mức thu nhập dành cho chi
tiêu vật chất sát ngưỡng này được coi là những người cận nghèo.

13


Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2011 - 2015 như sau:
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000
đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng [xem phụ lục 1].
Như vậy, chuẩn hộ nghèo, cận nghèo tiếp cận, đo lường thông qua tiêu chí
thu nhập. Phương pháp tiếp cận chuẩn nghèo bằng thu nhập đã bộc lộ những hạn
chế. Thực tế, có những nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng được bằng tiền, có
những người tuy không nghèo về thu nhập nhưng lại không tiếp cận được một số
nhu cầu cơ bản về điều kiện sống, y tế, giáo dục, thông tin... Nếu chỉ sử dụng
thước đo thu nhập thì chưa phản ánh đầy đủ, chính xác, thậm chí bỏ sót đối tượng
nghèo. Vì vậy, chuẩn nghèo mới cần tiếp cận đa chiều, gồm: Y tế, giáo dục, điều
kiện sống, tiếp cận thông tin, bảo hiểm và trợ giúp xã hội.
Từ trước đến nay, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đối
với hộ nghèo nông thôn và thành thị được đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, giúp
vốn sản xuất, chăn nuôi, hoặc những chương trình hỗ trợ xây nhà. Ngoài ra, còn
rất nhiều chương trình an sinh xã hội khác, đã giúp cho nhiều gia đình thoát
nghèo, vươn lên khá giàu.
Tuy nhiên, có những khác biệt về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã
hội, trình độ và chất lượng nguồn nhân lực giữa các khu vực, các vùng trong cả
nước và ngay cả trong một tỉnh, do đó, việc giảm nghèo cần phải tính đến đặc

thù các khu vực để có chủ trương, cơ chế, chính sách và biện pháp phù hợp.
14


* Quan niệm về giảm nghèo
Theo nghĩa chung nhất về mặt số học, giảm nghèo là giảm thiểu một số
hộ nghèo trên một địa bàn; giảm thiểu số xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo
của một quốc gia.
Dưới góc độ Kinh tế chính trị học, giảm nghèo là những hoạt động
mang tính chủ quan của con người nhằm duy trì, phát triển sản xuất, tạo thêm
nhiều của cải vật chất, tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của mọi tầng lớp dân cư; đảm bảo cho người dân, từng đơn vị, địa phương
thuộc diện nghèo, có mức sống trên chuẩn nghèo do từng quốc gia quy định.
Theo tác giả: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện cho bộ phận dân cư
nghèo tiếp cận với các nguồn lực cần thiết để họ tự nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Kết quả giảm nghèo biểu
hiện ở sự giảm xuống về số lượng người nghèo hoặc sự giảm xuống của tỷ lệ
phần trăm số hộ nghèo trong tổng số hộ, mức sống chung của toàn bộ cộng
đồng được nâng lên. Nói cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển một bộ
phận dân cư nghèo lên mức sống cao hơn hay thoát nghèo nhờ sự hỗ trợ của
Nhà nước, cộng đồng và sự nỗ lực vươn lên của bản thân các hộ nghèo.
Giảm nghèo là một quá trình lâu dài, từng bước giảm nghèo, không thể xóa
được nghèo ngay trong một thời gian ngắn. Chỉ khi xã hội loài người đạt tới trình độ
xã hội cộng sản chủ nghĩa như Mác, Ăngghen dự báo, cội rễ của nghèo không còn,
hiện tượng nghèo không còn, thì sẽ không còn việc giảm nghèo. Do đó, việc đánh giá
mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian và thời gian nhất định.
Nghèo có nhiều lý do, nên có nhiều quan niệm về giảm nghèo như: Nếu hiểu
nghèo là do sự đình đốn của phương thức sản xuất đã bị lạc hậu thì giảm nghèo
chính là quá trình chuyển đổi sang phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn. Nếu hiểu
nghèo là do sự bất công trong vấn đề sở hữu và phân phối thặng dư xã hội thì giảm

nghèo là quá trình xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và chế độ phân
phối này. Còn nếu hiểu nghèo là do tình trạng thất nghiệp gia tăng, hoặc xã hội rơi
vào khủng hoảng, suy thoái thì giảm nghèo là tạo nhiều việc làm, xã hội ổn định và
phát triển...
15


* Quan niệm về giảm nghèo bền vững
Bền vững theo tiếng Anh: Sustainability là khả năng duy trì. Trong sinh
thái học, từ “bền vững” lý giải cách thức hệ thống sinh học duy trì được sự đa
dạng giống loài và sinh sôi theo thời gian. Những vùng đất ẩm ướt và khu
rừng tươi tốt lâu đời là điển hình cho hệ thống sinh học bền vững. Đối với con
người, tính bền vững là khả năng duy trì lâu dài trạng thái sức khỏe tốt, điều
này chịu ảnh hưởng bởi môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Theo Từ điển tiếng Việt, bền vững là vững chắc và bền lâu [36, tr.45].
Trong nhiều thập kỷ qua, nhiều quốc gia trên thế giới chỉ quan tâm đến
tăng trưởng về mặt kinh tế, ít chú trọng đến mặt xã hội và môi trường sống,
dẫn đến những hậu quả tiêu cực và kém tính bền vững trong phát triển. Vì
vậy, phát triển bền vững là yêu cầu tất yếu đặt ra đối với mọi quốc gia trên thế
giới. Năm 2002, tại Johannesburg - Cộng hòa Nam Phi, Hội nghị Thượng
đỉnh thế giới về phát triển bền vững đã tổng kết và đánh giá lại 10 năm thực
hiện Chương trình Nghị sự phát triển bền vững toàn cầu, trên cơ sở đó bổ
sung và hoàn chỉnh khái niệm về phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là
quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của
sự phát triển, đó là: Phát triển kinh tế; phát triển xã hội và bảo vệ môi trường
nhằm đáp ứng nhu cầu và đời sống của con người trong hiện tại, nhưng không
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Từ những quan niệm trên, tác giả cho rằng: GNBV là hoạt động có tính
chủ động, tích cực của các chủ thể lãnh đạo, quản lý nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội, các chủ thể kinh tế, doanh nghiệp và sự nỗ lực vươn lên của

các đối tượng nghèo nhằm tạo ra các điều kiện vật chất - kỹ thuật, kỹ năng,
tri thức… để phát triển KT - XH, nâng cao mức thu nhập, thỏa mãn các nhu
cầu cơ bản về vật chất, tinh thần của con người một cách vững chắc và lâu
bền, tiến tới không còn đối tượng nghèo và tái nghèo tồn tại.
GNBV là một quá trình chủ động, tích cực, với nỗ lực và quyết tâm cao
của mọi cấp, mọi ngành, mọi lực lượng, trong đó có ý thức tự vươn lên thoát
nghèo của các hộ nghèo. Mục tiêu GNBV là nâng cao mức sống, thu nhập của
16


các đối tượng nghèo một cách vững chắc. Phương thức GNBV chủ yếu thông
qua các hoạt động phát triển KT - XH và tạo điều kiện cho đối tượng nghèo
được tham gia và thụ hưởng thành quả phát triển đó. Theo đó, đòi hỏi phải có
chiến lược, kế hoạch, chương trình xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian,
nội dung, biện pháp, lực lượng, vật chất đảm bảo. GNBV không thể một sớm
một chiều, không phải là trách nhiệm của một cấp, ngành, một lực lượng nào,
mà đòi hỏi sự vào cuộc của cả cộng đồng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước ta.
1.1.2. Quan niệm, nội dung giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
* Quan niệm về giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
Từ góc độ tiếp cận về GNBV nói chung, tác giả cho rằng: GNBV ở tỉnh
Hà Nam là quá trình hoạt động chủ động, tích cực của cấp ủy, chính quyền,
các ban ngành, đoàn thể, tổ chức, lực lượng, doanh nghiệp và sự nỗ lực vươn
lên của các hộ nghèo, người nghèo trong toàn tỉnh nhằm phát triển KT - XH,
nâng cao mức thu nhập, đáp ứng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản về vật chất
và tinh thần của con người một cách vững chắc và lâu bền, tiến tới không còn
hộ nghèo và tái nghèo tồn tại.
Khái niệm chỉ rõ chủ thể GNBV là cấp ủy, chính quyền và hệ thống
chính trị; các tổ chức, lực lượng, doanh nghiệp và các hộ nghèo, người nghèo
trong tỉnh. Đối tượng GNBV là các hộ nghèo và người nghèo ở dưới chuẩn

nghèo đã xác định theo tiêu chí chung (tùy theo thời gian nhất định) trên địa
bàn tỉnh.
Mục tiêu GNBV là căn cứ vào các tiêu chí vùng nghèo, hộ nghèo và
người nghèo đã xác định trong từng giai đoạn để phấn đấu giảm dần tỉ lệ vùng
nghèo, hộ nghèo và người nghèo hàng năm một cách vững chắc, tiến tới
không còn vùng nghèo, hộ nghèo, người nghèo trên địa bàn tỉnh. Phương thức
giảm nghèo là: Phát triển kinh tế bền vững, thực hiện tốt các chính sách an sinh
xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra các điều kiện vật chất - kỹ thuật hỗ
trợ các đối tượng nghèo vươn lên thoát nghèo theo phương châm “Cho cần câu,
dạy cách câu, chứ không chỉ cho xâu cá”.
17


* Nội dung giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
Nội dung của chương trình giảm nghèo xét trên giác độ các vấn đề
can thiệp bao gồm nhiều biện pháp được sử dụng như: hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ
đất đai sản xuất và nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ y tế và giáo dục...
các biện pháp này có thể chia thành ba nhóm chính: Nhóm các chính sách hỗ
trợ cho người nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập; nhóm các chính sách
tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và nhóm các
chính sách tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người nghèo. Căn cứ vào
điều kiện cụ thể của địa phương, có thể xác định nội dung GNBV ở Hà Nam
như sau:
Một là, đẩy mạnh phát triển KT - XH của địa phương bền vững, tạo ra
các điều kiện, cơ hội để các đối tượng nghèo và dân cư địa phương có việc
làm, thu nhập ổn định, trang trải được các nhu cầu cơ bản của cuộc sống.
Khi đánh giá vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác
nhau lựa chọn phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau, song cách
xác định và mức độ cụ thể có những khía cạnh khác nhau. Để làm căn cứ tính
toán mức nghèo đói người ta đều thống nhất dựa vào hai loại chỉ tiêu sau:

Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân người/tháng hoặc năm và được đo
bằng chỉ tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi. Chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn,
nhà ở, mặc, y tế, giáo dục và các điều kiện đi lại.
Như vậy, tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan
tâm nhất đối với công tác giảm nghèo. Phần lớn người nghèo ở các nước đang
phát triển phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao động, công việc trên địa bàn họ
cư trú, tiền lương hay từ những hình thức lao động khác. Tình trạng thiếu việc
làm và năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là
khá phổ biến đối với người nghèo. Vì vậy, để tăng thu nhập cho người nghèo
phải có giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất.... để hỗ trợ tăng
năng suất lao động và tạo việc làm cho người nghèo là cơ bản nhất.
Hai là, tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ thuật, phát triển năng lực
SXKD (tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm) cho người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo.
18


Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường xa các trung tâm kinh tế và
dịch vụ xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so với những vùng
khác, phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới, nước sinh hoạt, thiếu
thông tin, thiếu chợ đầu mối, giao thông đi lại khó khăn... Do đó, năng suất
lao động thấp, trong khi đó giá cả sản phẩm do người sản xuất bán lại rẻ do
vận chuyển khó khăn. Cơ hội tự vươn lên của người nghèo ở những vùng này
lại càng khó khăn hơn. Mặt khác, nghèo thường gắn liền với dân trí thấp, do
nghèo mà không có điều kiện đầu tư cho con cái học hành. Dân trí thấp thì
không có khả năng để tiếp thu tiến bộ của khoa học - kỹ thuật áp dụng vào
sản xuất và không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ văn minh của nhân
loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để
giảm nghèo cần phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho
người nghèo là giải pháp có tính chiến lược lâu dài.

Điều đó cho thấy: Nhà nước cần ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng
nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo, người nghèo được tiếp cận hệ thống cơ sở
hạ tầng tốt hơn đi đôi với nâng cao trình độ SXKD cho hộ nghèo, người
nghèo là một nội dung quan trọng trong công tác GNBV ở Hà Nam hiện nay.
Ba là, hỗ trợ về cơ chế, chính sách và bảo đảm an sinh xã hội đối với
các đối tượng nghèo. Một nội dung quan trọng của GNBV là phải tạo điều
kiện để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài
chính, tín dụng và tiến bộ khoa học - công nghệ. Hỗ trợ người nghèo về y tế
để họ có điều kiện chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có
điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây là yếu tố quan trọng để tăng trưởng về
phát triển.
Người nghèo là những người có thu nhập thấp nên những lao động
nghèo thường thiếu vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu thông
tin thị trường và thiếu kiến thức về KHCN. Do vậy, hoạt động giảm nghèo phải
hỗ trợ cho người nghèo có được sự tiếp cận tốt hơn những yếu tố trên.
Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
19


hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở địa phương. KTTT có tác dụng to lớn trong
việc giải phóng các động lực tăng trưởng kinh tế, song lại là tác nhân thúc đẩy
phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Do vậy, giải quyết tốt mối quan hệ tăng
trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội ở địa phương cũng là một nội
dung, yêu cầu của GNBV.
Trong thực tiễn công tác giảm nghèo diễn ra tình trạng khá phổ biến là có
nhiều hộ gia đình sau khi thoát nghèo một thời gian, nhưng do nhiều nguyên
nhân khác nhau như: gặp rủi ro trong kinh doanh, ốm đau, do tác động của
phân hoá giàu - nghèo của quá trình phát triển... lại trở thành những hộ nghèo
(tái nghèo). Vì vậy, nhiệm vụ của công tác giảm nghèo không chỉ hỗ trợ để hộ
nghèo, người nghèo sinh tồn và vượt qua ngưỡng nghèo một cách thụ động

mà phải có giải pháp tích cực để hộ nghèo, bản thân người nghèo chủ động tự
vươn lên thoát nghèo vững chắc tiến tới trở thành hộ khá, hộ giàu”.
1.2. Sự cần thiết và những nhân tố tác động đến giảm nghèo bền
vững ở tỉnh Hà Nam
1.2.1. Sự cần thiết giảm nghèo bền vững ở tỉnh Hà Nam
Giảm nghèo bền vững không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà nó
còn là vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng, do đó giảm nghèo bền vững góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng và văn minh” mà Đảng ta đã xác định.
Một là, GNBV phù hợp với xu thế chung, đồng thời thực hiện nhất
quán quan điểm, chính sách ưu việt của Đảng và Nhà nước ta.
Từ lâu nay, thế giới luôn quan tâm đến vấn đề nghèo đói và tìm mọi cách
để giải quyết vấn nạn này. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên
hợp quốc năm 2000, có 189 quốc gia thành viên nhất trí thông qua Tuyên bố
Thiên niên kỷ và cam kết đạt được 8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG)
vào năm 2015. Tuyên bố Thiên niên kỷ và các mục tiêu là lộ trình tiến tới xây
dựng một thế giới không còn nghèo đói, tất cả trẻ em được học hành, sức khỏe
của người dân được nâng cao, môi trường được duy trì bền vững, mọi người
được hưởng tự do, công bằng và bình đẳng
20


Hai là, xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của việc GNBV đối với phát triển KT
- XH của tỉnh Hà Nam hiện nay. GNBV vững có vai trò, vị trí quan trọng đối với
sự phát triển nhiều mặt của tỉnh Hà Nam. Cụ thể:
Về kinh tế: GNBV tạo nhu cầu, kích thích nguồn cung, thúc đẩy phát
triển kinh tế, SXKD, tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa góp phần thỏa mãn
nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của tỉnh, đóng góp quan trọng vào sự tăng
trưởng kinh tế, tăng nguồn thu ngân sách địa phương.
Về văn hóa - xã hội: GNBV góp phần quan trọng tạo sự ổn định, đồng

thuận trong xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, sự chênh lệch mức
sống giữa các khu vực, tầng lớp dân cư; củng cố và giữ vững niềm tin của
nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền địa phương; đồng thời, góp phần đẩy lùi
tiêu cực và tệ nạn xã hội... Chỉ tiêu Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần
thứ XIX, khóa 2015 – 2020 đề ra: Giải quyết việc làm mới bình quân 16.000
lao động/năm; đến năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị còn 3,3%; tỷ
lệ nghèo bình quân giảm 1,3%/năm trở lên [47, tr.22]
Về quốc phòng - an ninh: GNBV góp phần tăng thêm nguồn lực để
củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Đẩy lùi
việc lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, phát triển KT - XH và
khoảng cách giàu - nghèo trên địa bàn tỉnh để chống phá cách mạng của các
thế lực phản động, thù địch.
Ba là, GNBV nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững
của tỉnh.
Trên phương diện nào đó, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần
đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình giảm nghèo thì nguồn lực
dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét một cách toàn
diện về dài hạn thì kết quả GNBV lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và
bền vững. Mặt khác, GNBV phản ánh rõ nét bản chất ưu việt của chế độ
XHCN là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân, đẩy lùi bất bình đẳng và đói nghèo. GNBV trên địa bàn tỉnh
Hà Nam mặc dù phải đối diện với những khó khăn, thách thức không nhỏ cần
21


phải vượt qua, song những tiền đề và điều kiện cơ bản đã được tạo dựng trong
nhiều năm qua là cơ sở hiện thực, đồng thời, việc khảo sát nghiên cứu đánh
giá đúng thực trạng và tìm ra chủ trương, quyết sách và giải pháp GNBV
đúng, trúng, hiệu quả sẽ đem lại sự thành công, theo đó, mục tiêu phát triển
bền vững của tỉnh sẽ được hiện thực hóa.

1.2.2. Những nhân tố cơ bản tác động đến giảm nghèo bền vững ở
tỉnh Hà Nam
Để đánh giá được tình trạng nghèo ở tỉnh Hà Nam, trước tiên cần phải
tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giảm nghèo và GNBV và mối
quan hệ giữa chúng. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giảm nghèo và
GNBV nó không chỉ đơn thuần là nhân tố về kinh tế hoặc thiên tai, địch hoạ
gây ra. Mà có sự đan xen của cái tất yếu lẫn cái ngẫu nhiên, của cả nguyên
nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, cả tự
nhiên lẫn kinh tế - xã hội.
Một là, hệ thống cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh
Có thể khẳng định, cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước, của tỉnh
vừa là khung khổ pháp lý, vừa là “bà đỡ” cho GNBV của tỉnh Hà Nam. Thực
tế những năm qua đã chứng minh nhờ có nhiều chủ trương, chính sách giảm
nghèo và GNBV như: chính sách hỗ trợ các địa phương xây dựng kết cấu hạ
tầng KT - XH; chính sách trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức
để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo một cách bền
vững; chính sách trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất, đất
ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào nghèo; chính
sách khuyến khích các doanh nghiệp, trước hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
các hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn
vùng núi… đã tác động trực tiếp tới giảm nghèo của tỉnh.
Hai là, tác động của quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa trên địa bàn tỉnh
Sự phát triển đô thị ở Hà Nam đã, đang và sẽ diễn ra rất mạnh ở các khu đông
dân cư, đặc biệt là các xã dọc đường quốc lộ và ở các làng nghề truyền thống. Dự
tính đến năm 2020, tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh Hà Nam đạt 35%; xây dựng Thành phố
22


Phủ Lý thành đô thị loại II vào năm 2018; xây dựng và phát triển các thị trấn tiềm
năng thành thị xã, đô thị loại IV thuộc tỉnh vào năm 2016; xây dựng, phát triển các

thị trấn huyện lỵ tiềm năng vào năm 2015 trên tinh thần Nghị quyết số 05-NQ/TU
của Tỉnh ủy Hà Nam về phát triển đô thị [47, tr.6,22]. Nhờ quá trình CNH, HĐH và
đô thị hóa ở Hà Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, mang lại diện
mạo mới, thúc đẩy phát triển KT - XH; đồng thời góp phần quan trọng vào quá
trình GNBV của tỉnh.
Đồng thời, với tác động tích cực của CNH, HĐH và đô thị hóa, thì nguy cơ
xuất hiện tác động tiêu cực là rất lớn, làm cản trở việc thực hiện mục tiêu không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Bên cạnh những bộ phận dân cư có thể
nhanh chóng ổn định cuộc sống cũng như hoạt động kinh doanh, một bộ phận dân cư
không nhỏ chịu tác động tiêu cực của đô thị hóa cần được quan tâm giúp đỡ để
không rơi vào tình trạng nghèo hoặc tái nghèo. Vì phần lớn người nghèo có nhận
thức và hiểu biết về vấn đề nghèo và cách thức, biện pháp thoát nghèo rất hạn
chế. Người nghèo ở nước ta nói chung và tỉnh Hà Nam nói riêng thường tập
trung ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nơi đang chịu ảnh hưởng rất
lớn của những tập quán, thói quen canh tác, sản xuất lạc hậu, được truyền từ
đời này sang đời khác nên rất khó thay đổi với tư tưởng bảo thủ, không chịu
tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn mới đã và đang là nhân tố cản trở
người nghèo vươn lên phát triển SXKD.
Một số hộ khác do thiếu kiến thức, kinh nghiệm, thông tin về thị
trường, cách thức, tổ chức SXKD không phù hợp dẫn đến bị thua lỗ, thậm chí
phá sản. Rất nhiều hộ nghèo được nhận hỗ trợ từ phía Nhà nước, của tỉnh
song đã không cố gắng để thoát nghèo, tâm lý trông chờ, ỷ lại vào các nguồn
hỗ trợ, cho nên hỗ trợ hết lại tiếp tục nghèo. Tình trạng trên làm cho các chính
sách giảm nghèo thường khó đạt được hiệu quả như dự định, tái nghèo cao.
Do đó, đòi hỏi trong các chính sách giảm nghèo, ngoài các cơ chế hỗ trợ thì
cần phải khơi dậy và phát huy tinh thần tự lực, khát vọng cho người nghèo
tự vươn lên GNBV, không trông chờ, ỷ lại.
23



Ba là, tác động của sự phát triển KTTT định hướng XHCN trên địa bàn tỉnh
Sự phát triển của KTTT đã có tác động tích cực đến GNBV ở những
khía cạnh như: KTTT đã đề cao trách nhiệm cá nhân gắn liền động cơ và hiệu
quả trong hoạt động của con người. Nó buộc người ta phải khắc phục lối tư
duy cảm tính, chủ quan thụ động và phải tự rèn luyện, nâng cao phương thức
tư duy lý tính. Mục đích, động cơ hoạt động kinh tế phải trên cơ sở hiện thực
và phải đi đôi với những biện pháp, phương tiện hữu hiệu để hiện thực hóa
trong thực tế. KTTT luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt, để tồn tại, chiến thắng
trong cạnh tranh buộc người SXKD phải năng động, nhạy bén, nắm bắt cơ hội
để làm giàu, nếu không sẽ bị phá sản, nghèo đói. Theo đó, đòi hỏi con người
phải cải tiến quy trình SXKD cho hợp lý, áp dụng tiến bộ KHCN, tăng năng
suất lao động, giảm chi phí sản xuất để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có sức
cạnh tranh cao hơn. KTTT rất nghiệt ngã, lạnh lùng đào thải những trì trệ, lạc
hậu, lỗi thời của con người và các sản phẩm yếu kém. Do vậy, người nghèo nếu
không tự cố gắng vươn lên bằng sự hiểu biết, cách tính toán làm ăn hiệu quả, lựa
chọn mô hình kinh tế phù hợp và sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng đồng sẽ nghèo đói.
Trước khi KTTT xâm nhập vào Hà Nam, kinh tế của các hộ nông dân, nông thôn
phát triển chủ yếu theo hướng tự cung tự cấp, hoạt động sản xuất và trao đổi
hàng hóa trên thị trường còn rất hạn chế, chủ yếu ở các vùng đô thị. Đến nay,
nền KTTT đã phát triển sâu rộng tới các thôn, xóm, khu dân cư thông qua các
hoạt động SXKD, buôn bán, trao đổi hàng hóa rất sôi động. Trên thực tế, sự phát
triển của KTTT ở nước ta nói chung và tỉnh Hà Nam nói riêng đã dẫn đến sự
phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc. Nhiều hộ, nhiều người dân giàu lên
trong KTTT, nhưng cũng nhiều hộ, nhiều người dân, chủ yếu là dân cư nông
thôn, miền núi, những người yếu thế rơi vào vòng xoáy nghèo đói.
Bốn là, tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”

24


[18, tr.235-236]. Nhờ thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn đó, đã mở ra
nhiều cơ hội thuận lợi, thu hút nguồn lực quan trọng từ bên ngoài, kết hợp
giữa phát huy nội lực với ngoại lực tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa đến những
thành tựu to lớn về phát triển KT - XH, quốc phòng - an ninh được củng cố,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc. Quá trình hội nhập ngoài việc tăng vị thế trên trường quốc tế
nước ta và tỉnh Hà Nam cũng đã thu hút được một số lượng đáng kể vốn đầu
tư nước ngoài (Nhật Bản, Hàn Quốc...) và viện trợ phát triển chính thức quốc
tế (từ năm 2011 đến 31/3/2015 toàn tỉnh đã thu hút được 191 dự an, trong đó
có 88 dự án của FDI) [47, tr.2]; tiếp thu những thành tựu mới về khoa học
công nghệ cũng như tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến phục
vụ cho sự phát triển của đất nước, của tỉnh.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế có tác động hai mặt tới GNBV, vừa
tạo cơ hội thu hút nguồn lực cho giảm nghèo, song cũng làm trầm trọng thêm
tình trạng phân hóa giàu nghèo và nghèo đói trong nước. Tham gia vào quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bên cạnh những cơ hội thì Việt Nam nói
chung và tỉnh Hà Nam nói riêng cũng phải đối mặt với những thách thức
nghiêm trọng, đặc biệt là những vấn đề trực tiếp tác động đến đói, nghèo.
Kinh tế trong nước và của tỉnh chịu ảnh hưởng mạnh của những biến động
trên thế giới như khủng hoảng, giá cả gia tăng, trong khi nội lực còn hạn chế,
yếu kém. Điều này tác động đến SXKD và giá cả các mặt hàng trên địa bàn
của tỉnh, mà người nghèo luôn là nhóm đối tượng khó khăn nhất khi giá cả
các mặt hàng phục vụ sản xuất và sinh hoạt tăng.
Năm là, sự biến đổi khó lường của khí hậu thời tiết, dịch bệnh.
Biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh đang trở thành những
vấn đề mang tính toàn cầu. Nước ta nói chung và tỉnh Hà Nam nói riêng chịu
ảnh hưởng lớn của sự biến đổi khí hậu dẫn đến thời tiết, khí hậu ngày càng

khắc nghiệt, thiên tai bão, lũ, lụt, hạn hán, dịch bệnh diễn ra với quy mô lớn,
khốc liệt và khó lường hơn; ô nhiễm môi trường, đặc biệt là rác thải sinh hoạt,
khu chăn nuôi tập trung, nước sông Nhuệ, sông Đáy, nước thải làng nghề, bụi
25


khu vực sản xuất xi măng, khai thác đá.... [47, tr.16]. Ngân hàng thế giới
(WB) ước tính 33% diện tích đất tự nhiên và 76% dân số Việt Nam dễ bị ảnh
hưởng bởi thiên tai, trong khi 89% GDP được tạo ra ở các vùng chịu ảnh
hưởng của thiên tai [26, tr.60]. Người nghèo thường tập trung ở vùng nông
thôn, vùng dễ bị thiên tai, khả năng chống chọi với thiên tai, dịch bệnh rất
thấp. Đây cũng là thách thức tác động không nhỏ đến quá trình GNBV ở tỉnh
Hà Nam.
1.3. Kinh nghiệm giảm nghèo bền vững của một số địa phương
trong nước và bài học đối với tỉnh Hà Nam
1.3.1. Kinh nghiệm giảm nghèo bền vững của một số địa phương
* Kinh nghiệm của tỉnh Lai Châu: Trải qua 4 năm (2007 - 2010) hiện
chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững và 2 năm thực hiện Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP, các huyện nghèo của Lai Châu đã có những chuyển biến
tích cực, đó là: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn cũ thống kê năm 2010 giảm còn
21,94%. Hàng nghìn hộ gia đình đã được chuyển đến ở trong căn nhà mới,
khang trang, chắc chắn; điện lưới quốc gia đã được đầu tư về đến trung tâm
xã, hàng nghìn hộ gia đình được nghe đài, xem ti vi; nhiều hộ dân đã được hỗ
trợ vốn để mua cây, con giống, phát triển nghề phụ tạo ra thu nhập cao hơn
những năm trước; hàng ngàn trẻ em có thêm quần áo ấm, sách bút, đồ dùng
học tập để đến trường…
Có được kết quả trên là do Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các sở, ngành
chức năng cấp tỉnh, huyện, HĐND, UBND các huyện đã chỉ đạo quyết liệt
việc tổ chức triển khai thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền
vững và Nghị quyết 30a; làm tốt công tác tuyên truyền tạo ra sự đồng thuận,

sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với các cấp cơ sở và
người dân; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát từ cấp tỉnh đến huyện đối
với tiến độ thực hiện các dự án; dân chủ trong xây dựng các dự án nên tính
khả thi của dự án cao.
* Kinh nghiệm của tỉnh Sóc Trăng: Là một tỉnh ven biển thuộc đồng
bằng sông Cửu Long, nằm ở hạ nguồn sông Hậu, có diện tích tự nhiên 3.223
26


×