Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN KINH tế tư NHÂN TRONG CÔNG NGHIỆP và DỊCH vụ ở TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.06 KB, 109 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công ty cổ phần
Doanh nghiệp tư nhân
Hội đồng nhân dân
Kinh tế tư nhân
Kinh tế - xã hội
Kinh tế thị trường
Kinh tế vốn đầu tư nước ngoài
Lực lượng sản xuất
Quan hệ sản xuất
Thời kỳ quá độ
Trách nhiện hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CNXH
CNH, HĐH
CTCP
DNTN
HĐND
KTTN
KT-XH
KTTT
KTVĐTNN
LLSX
QHSX
TKQĐ


TNHH
UBND
XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ
1.

3

NHÂN TRONG CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở TỈNH
PHÚ THỌ

1.1

Một số vấn đề chung về kinh tế tư nhân, phát triển kinh

1.2

tế tư nhân
Quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến phát

11
11

triển kinh tế tư nhân trong công nghiệp và dịch vụ ở
tỉnh Phú Thọ


24

CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở TỈNH PHÚ THỌ

37

Chương THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
2.
2.1.
2.2.

Thành tựu, hạn chế phát triển kinh tế tư nhân trong công
nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ
Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra

37

cần giải quyết đối với phát triển kinh tế tư nhân trong
công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ

Chương QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT
3.

53

TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG CÔNG
NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở TỈNH PHÚ THỌ THỜI
GIAN TỚI


3.1.

Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân trong công nghiệp

3.2.

và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới
Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong công nghiệp và

dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ thời gian tới
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

65
65
72
93
95
99

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chuyển nền
kinh tế từ tập trung kế hoạch hóa sang phát triển nền KTTT, Đảng và Nhà
nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích phát triển KTTN,
do vậy KTTN được khẳng định cả về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt kinh tế,

các nghị quyết của Đảng đều coi KTTN là một phương hướng phát triển và là
bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Về mặt pháp lý, chính sách của
Nhà nước với kinh tế tư nhân ngày càng rõ và được luật hoá như Hiến pháp
(1992 và 2013), Luật Công ty (1990), Luật Doanh nghiệp (2000), Luật Doanh
nghiệp chung 01/01/2006 và mới đây là Luật Doanh nghiệp 2015 cùng các
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Kinh tế tư nhân ra đời phát triển đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Điều này, đã được khẳng định trong các Văn kiện và
Nghị quyết Trung ương của Đảng qua các kỳ Đại hội. Trên cơ sở kế thừa, phát
triển quan điểm của Đảng về KTTN qua các kỳ Đại hội, cũng như thông qua
việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH 5 năm 2011 - 2015
và phương hướng nhiệm vụ phát triển KT - XH 5 năm 2016 – 2020; thông qua
tổng kết thực tiễn 30 năm công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tại Đại hội XII
Đảng tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích, tạo
thuận lợi, phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh
tế, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện
chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp.
Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào
các tập đoàn kinh tế nhà nước” [21, tr. 108].
Cũng như trong cả nước, KTTN ở Phú Thọ nói chung và KTTN trong
công nghiệp và dịch vụ nói riêng có vị trí vai trò quan trọng và ngày càng
được khẳng định là nhân tố quan trọng trong cơ cấu kinh tế của Tỉnh như:
góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã
hội, tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu ngân sách, khai thác được thế mạnh

3


tiềm năng của KTTN đối với các sản phẩm công nghiệp truyền thống và
những ngành dịch vụ có thế mạnh của Tỉnh, góp phần giữ vững ổn định

chính trị xã hội trong Tỉnh... Song thực tế cho thấy, nhận thức của một bộ
phận cán bộ đảng viên cũng như người dân trong Tỉnh về phát triển KTTN
nói chung, KTTN trong công nghiệp và dịch vụ nói riêng chưa thật sự
thống nhất cùng với những bất cập, hạn chế của KTTN về vốn, lao động,
khoa học công nghệ, khả năng quản lý, tiếp cận thị trường, sự hỗ trợ từ cơ
quan quản lý Nhà nước... dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh trong
KTTN chưa tương xứng với tiềm năng hiện có. Do vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn làm cơ sở để xác định
quan điểm và giải pháp phát triển KTTN trong công nghiệp và dịch vụ ở
tỉnh Phú Thọ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh là vấn đề
có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Phát triển kinh tế tư nhân
trong công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên
ngành kinh tế chính trị.
2.Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Kinh tế tư nhân nói chung, KTTN trong công nghiệp và dịch vụ nói
riêng là vấn đề lớn được nhiều tác giả cũng như các nhà khoa học tham
gia nghiên cứu với nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau cả trên bình diện lý
luận và thực tiễn.
* Về quan niệm KTTN và phát triển kinh tế tư nhân
Đinh Thị Thơm (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi
mới, thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nhà xuất bản Khoa học - Xã hội, Hà
Nội, 2005. Tác giả đã phân tích quá trình tồn tại và phát triển KTTN ở Việt
Nam sau hơn 20 năm đổi mới cùng với những thành tựu đạt được và những
yếu kém cần khắc phục.
GS, TS Nguyễn Thanh Tuyền - PGS, TS Nguyễn Quốc Tế; TS Lương
Mình Cừ (2006), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà

4



Nội, 2006. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích sâu sắc những luận cứ
khoa học về sự tồn tại khách quan của sở hữu tư nhân và KTTN từ đó đưa ra
quan niệm về KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN.
Tô Huy Rứa - Hoàng Chí Bảo - Trần Khắc Việt - Lê Ngọc Tòng (2008), Quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội - 2008; Trịnh Thị Hoa Mai (2006), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong
tiến trình hội nhập, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2006. Các tác giả đã đưa ra cơ sở
lý luận và thực tiễn để khẳng định phát triển KTTN ở nước ta hiện nay là một tất yếu
khách quan; luận giải đặc điểm, tính chất của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
TKQĐ đi lên CNXH. Đồng thời, phân tích thực tiễn phát triển KTTN đáp ứng yêu
cầu xây dựng nền KTTT định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Lương Minh Cừ (2011), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay, một số nhận thức về lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Công trình làm rõ thêm nhận thức chung về sở
hữu và sở hữu tư nhân, trên cơ sở đó đi đến khẳng định việc thực hiện đa dạng
hóa các hình thức sở hữu, các loại hình kinh tế là một tất yếu khách quan trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đồng
thời, làm rõ bản chất, vị trí, vai trò của vấn đề sở hữu tư nhân, KTTN cũng như
nguồn gốc hình thành và những đặc điểm cơ bản của sở hữu tư nhân, KTTN
trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và ở Việt Nam nói
riêng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực cho sự nghiệp đổi mới
hiện nay ở Việt Nam; trên cơ sở đó nhận thức rõ hơn quy luật vận động, xu thế
phát triển của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân thời điểm hiện tại và tương lai.
Thái Doãn Tước (2011), Phát triển kinh tế tư nhân ở Nghệ An, Luận
văn cao học, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2011, đã luận giải những vấn đề lý
luận về phát triển KTTN ở tỉnh Nghệ An, trên cơ sở khảo sát đánh giá thực
trạng sự phát triển KTTN trên địa bàn Tỉnh. Đồng thời, chỉ ra những cơ chế
chính sách còn bất cập cản trở sự phát triển KTTN ở Nghệ An. Trên cơ sở đó,

tác giả đã đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm tạo điều kiện cho khu
vực KTTN phát triển.

5


* Về vai trò của kinh tế tư nhân
Đào Văn Phùng (2005), Kinh tế tư nhân Phú Thọ thức dậy một tiềm
năng, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 9 (5/2005), đã luận giải, chứng minh quá
trình phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; đánh giá vai trò KTTN trong
quá trình phát triển KT-XH trên địa bàn Tỉnh; chỉ ra những khó khăn vướng
mắc của khu vực KTTN trong quá trình phát triển, từ đó đưa ra một số định
hướng, giải pháp phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
Đặng Hiển (2006), Kinh tế tư nhân - Một trong những động lực của
nền kinh tế nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà Nội, 2006 đã
đánh giá thực trạng và tầm quan trọng cũng như những đóng góp của KTTN
trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta qua các giai đoạn.
Phạm Văn Sơn (2008), Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tác động của nó đến củng cố quốc
phòng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị, Hà
Nội, 2008. Tác giả đã luận giải quan niệm, sự cần thiết phát triển KTTN trong
nền KTTT định hướng XHCN; chỉ ra những tác động tích cực và tiêu cực của
phát triển KTTN đến củng cố quốc phòng; đánh giá thực trạng và đề xuất một
số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu vừa thúc đẩy phát triển KTTN vừa
bảo đảm củng cố quốc phòng ở Việt Nam.
TS. Vũ Hùng Cường, Viện kinh tế Việt Nam (2010), Một số vấn đề cơ
bản về phát triển khu vực KTTN với tư cách là động lực của mô hình tăng
trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020. Trên cơ sở phân tích thực trạng vai
trò, khuyết điểm của khu vực KTTN Việt Nam, tác giả đã khẳng định trong
mô hình tăng trưởng kinh tế mới, KTTN có một động lực to lớn trong việc

thúc đẩy kinh tế - xã hội nước ta phát triển. Đồng thời, đề xuất các quan điểm
và giải pháp nhằm định hướng, phát huy vai trò của khu vực KTTN trong mô
hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020.
Trần Thị Tố Linh (2013), Huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân
nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế chính trị,
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội - 2013. Công trình đã làm rõ những

6


vấn đề lý luận cơ bản về nguồn lực tài chính từ KTTN và huy động nguồn lực tài
từ KTTN cho phát triển kinh tế xã hội; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng
huy động nguồn lực tài chính từ kinh tế tư nhân cho phát triển kinh tế xã hội ở
Việt Nam; đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút nguồn lực tài
chính từ KTTN nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
* Về chính sách và các giải pháp phát triển KTTN
Phạm Quang Trung (2003), Khu vực KTTN ở Việt Nam, thực trạng và
giải pháp phát triển, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 75 (9/2003) đề cập đến
các giải pháp nhằm phát triển KTTN ở nước ta trong thời gian tới. Các giải
pháp đưa ra tập trung vào các vấn đề: tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp;
tạo môi trường tâm lý, xã hội thuận lợi; đổi mới chính sách đối với phát triển
KTTN… để tạo ra một sân chơi thực sự bình đẳng cho KTTN phát triển tránh
sự phân biệt, đối xử làm hạn chế vai trò của KTTN đối với sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước trong TKQĐ.
Nguyễn Minh Tuấn (2006), Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư
nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, 2006. Đề tài đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về KTTN,
những điều kiện phát triển KTTN ở thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá đúng thực
trạng phát triển KTTN trên địa bàn thành phố trong thời kỳ CNH, HĐH. Trên cơ
sở đó, đề ra các giải pháp phát triển KTTN ở thành phố Hồ Chí Minh thời gian

tới.
Phạm Văn Thuần (2007), Đảng viên làm kinh tế tư nhân ở Phú Thọ,
Tạp chí Xây dựng Đảng, Số 1 (3/2007). Tác giả đã cho thấy, tỉnh Phú Thọ
sớm thống nhất được nhận thức và hành động để phát huy vai trò của đảng
viên làm kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp do đảng viên làm chủ hoạt động
có hiệu quả và khẳng định được chỗ đứng của mình, đóng góp không nhỏ cho
ngân sách của Tỉnh, góp phần khôi phục một số ngành nghề truyền thống. Tác
giả cũng chỉ ra một số khó khăn về quy mô, tài chính, quản lý, đặc biệt là việc
thành lập tổ chức đảng trong các doanh nghiệp do đảng viên lãnh đạo.

7


Trần Quang Tuấn (2009), Hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nhà nước
đối với kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ ở thành phố Hải
Phòng, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học kinh tế - Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Trên cơ sở phân tích thực trạng KTTN trong lĩnh vực Thương mại - dịch vụ ở
thành phố Hải Phòng cũng như công tác quản lý Nhà nước đối với KTTN hoạt
động trong lĩnh vực Thương mại - dịch vụ còn nhiều hạn chế, cơ chế quản lý
chưa rõ ràng, thậm chí nảy sinh những hoạt động phi phạm pháp luật của KTTN
trong lĩnh vực này như: hàng giải, trốn thuế, gian lận thương mại, dịch vụ trá
hình... Từ đó, tác giải xây dựng hệ thống quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý Nhà nước đối với KTTN trong
Thương mại - dịch vụ làm cho KTTN có đóng góp quan trọng vào chiến lược
phát triển KT-XH chung của thành phố Hải Phòng.
Phạm Văn Khai (2011), Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Quảng
Ngãi giai đoạn 2011-2015, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển, Đại học Đà
Nẵng, 2011. Công trình đã khái quát hoá các vấn đề lý luận về phát KTTN; phân
tích, đánh giá thực trạng phát triến KTTN tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua.
Qua đó, thấy được những mặt thành công cũng như những hạn chế trong phát

triến của KTTN tỉnh Quảng Ngãi. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp góp phần
phát triến KTTN trong tỉnh trong thời gian tới.
Điêu Kim Thắng (2013), Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
tỉnh Phú Thọ, Đại học kinh tế - Đại học Thái Nguyên, 2013. Tác giả đã phân
tích thực trạng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ kể từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời (năm 2000), trong đó tập trung phân
tích đánh giá thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực KTTN.
Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị với HĐND, UBND tỉnh Phú Thọ trong
tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trên
địa bàn Tỉnh phát triển. Đồng thời, cũng đề xuất một số biện pháp chủ yếu
nhằm năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.

8


Phan Quốc Anh (2014), Phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ,
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Tác giả
nghiên cứu sự phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ tập trung chủ yếu
vào nghiên cứu quá trình phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc KTTN,
trên cơ sở đánh giá sự phát triển các loại hình doanh nghiệp, tác giả đã chỉ ra
những thành tựu và hạn chế của các loại hình doanh nghiệp KTTN trên địa
bàn Tỉnh. Từ đó, đề xuất một số định hướng và giải pháp để phát triển doanh
nghiệp thuộc KTTN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong những năm tiếp theo.
Tóm lại, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
KTTN nói chung và KTTN ở tỉnh Phú Thọ nói riêng, các công trình nghiên
cứu đã đề cập đến những vấn đề về vị trí, vai trò của KTTN, đánh giá sự phát
triển và đưa ra những giải pháp nhằm phát triển KTTN. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào đi nghiên cứu hoàn chỉnh, hệ thống về phát triển KTTN trong
công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ dưới giác độ một luận văn thạc sỹ

kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân trong công nghiệp
và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ” sẽ tiếp tục luận giải làm rõ những vấn đề lý luận,
thực tiễn về phát triển KTTN nói chung, KTTN trong công nghiệp và dịch vụ
nói riêng. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm và những giải pháp phát triển
KTTN nói chung, KTTN trong công nghiệp dịch vụ nói riêng ở tỉnh Phú Thọ
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của thành phần kinh tế này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất quan điểm, giải pháp phát
triển KTTN trong công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ trong thời tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải quan niệm, nội dung và các nhân tố tác động đến phát triển
KTTN trong công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ.

9


Phân tích, đánh giá đúng thực trạng phát triển KTTN trong công
nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ, xác định nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát triển KTTN trong công nghiệp
và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế tư nhân dưới góc độ kinh tế chính trị học.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế tư nhân trong
công nghiệp và một số lĩnh vực dịch vụ chủ yếu như: dịch vụ thương mại
buôn bán hàng hóa, dịch vụ ăn uống, du lịch.
Về không gian: nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực

công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ.
Về thời gian: các số liệu khảo sát, đánh giá thực trạng tập trung chủ yếu
từ năm 2010 đến 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn
và đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển KTTN trong công nghiệp và
dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lô gíc
với lịch sử và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã
hội như: phân tích, tổng hợp, thống kê so sánh và phương pháp chuyên gia...
để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa học
để cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành tỉnh Phú Thọ tham khảo trong xác định
chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển KTTN nói chung, KTTN trong

10


công nghiệp và dịch vụ nói riêng ở Tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
đặt ra.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu môn
kinh tế chính trị ở các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở TỈNH PHÚ THỌ

1.1. Một số vấn chung về kinh tế tư nhân, phát triển
kinh tế tư nhân
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của kinh tế tư nhân
* Quan niệm về kinh tế tư nhân
Trong các tác phẩm của mình C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin đã nghiên
cứu rất sâu sắc nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nhưng
các ông chưa đưa ra thuật ngữ “kinh tế tư nhân” mà chỉ đề cập đến sở hữu tư
nhân. Theo các nhà kinh điển Mác xít, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ
sở nảy sinh và tồn tại của các hình thức kinh tế tư hữu. Điều đó, đã được
Ph.Ăngghen trình bày rất rõ trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà nước”.
Trong tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã chứng minh sự ra đời sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, là kết quả phát triển lâu dài của lực lượng sản xuất và kinh tế
gia đình cá thể là loại hình kinh tế tư hữu đầu tiên dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân ấy. Ph. Ăngghen viết:" Chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu
tiên căn cứ vào điều kiện kinh tế, tức là thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở
hữu công cộng nguyên thuỷ và tự phát" [2, tr. 104]. C.Mác và Ph. Ăngghen cũng
đã chỉ ra rằng, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất tồn tại trong nhiều phương thức
sản xuất khác nhau và việc xoá bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cùng các
hình thức kinh tế tương ứng phải là một quá trình lâu dài, gắn liền với sự phát

11


triển của lực lượng sản xuất. Ph.Ăngghen cho rằng" Cuộc cách mạng của giai
cấp vô sản đang có tất cả các triệu chứng là sắp nổ ra, sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội
hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào tạo ra được khối lượng tư liệu sản xuất

cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu".[3, tr.
469]. Theo đó, các hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
vẫn còn tồn tại trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Kế tục và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong hoàn
cảnh lịch sử mới, V.I.Lênin cho rằng: “Sự tồn tại của nhiều thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu, cụ thể là ở nước Nga, vẫn
còn tồn tại các thành phần kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, sản xuất hàng
hoá nhỏ, chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ nghĩa xã hội”. [32, tr. 248]. Sự tồn tại
nhiều thành phần kinh tế trong TKQĐ đặt ra yêu cầu phải thực hiện những
chính sách phù hợp để khai thác tối đa nguồn lực xã hội cho công cuộc kiến
thiết đất nước. Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I.Lênin đề xướng và tổ
chức thực hiện ở nước Nga những năm 20 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện và
môi trường phù hợp để các thành phần kinh tế, trong đó có các hình thức kinh
tế tư nhân phát triển đáp ứng nhu cầu của công cuộc khôi phục kinh tế và xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga lúc bấy giờ. Lênin đã chỉ ra vai trò to lớn
của kinh tế tư nhân kể từ khi thực hiện (NEP) Lênin cho rằng “Họ đã nộp cho
nhà nước một cách thoải mái lạ thường và hầu như không bị gò ép một số
thuế lên đến hàng trăm triệu pút lúa.... đại đa số dân cư mà sản xuất mới quy
mô nhỏ hẹp và nằm trong tay tư nhân, đem lại những số lãi to lớn nhất. Toàn
bộ nền sản xuất nông nghiệp của nông dân là thế. Nền sản xuất công nghiệp
cũng cung cấp những món lãi cũng bằng như thế hay ít hơn một tí, nền sản
xuất này một phần do những tư nhân nắm” [32, tr. 310]. Từ đó, V.I. Lênin,
khẳng định sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong TKQĐ lên CNXH
không phải là đặc điểm riêng của nước Nga.
Như vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin tuy chưa đưa ra
thật ngữ" kinh tế tư nhân" nhưng họ đã khẳng định sự tồn tại khách quan của
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư

12



hữu. Các hình thức kinh tế này đã tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất và
tiếp tục còn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Nghiên cứu về KTTN đã có nhiều công trình của các nhà khoa học kinh
tế nghiên cứu với những góc độ tiếp cận khác nhau. Do vậy, cũng có những
quan niệm khác nhau về KTTN với cách trình bày và diễn đạt khác nhau.
Trước khi có Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX thì khái niệm KTTN
chưa có nội hàm xác định, trong các văn kiện của Đảng quan niệm về KTTN
cũng đã được trình bày. Đại hội VI, đã nêu ra năm thành phần kinh tế, trong
đó hai thành phần: thành phần kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (bao gồm thợ
thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá
thể) và thành phần kinh tế tư bản tư nhân được hiểu là những thành phần
KTTN. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ được thông qua
Đại hội VII của Đảng chỉ nói đến thành phần kinh tế cá thể, còn trong báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương trình Đại hội VII thì thành phần này
được gọi là thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân được coi là
hai thành phần kinh tế hợp thành KTTN. Nhưng đến Đại hội VIII của Đảng
khái niệm KTTN không được nói đến trong hệ thống các thành phần kinh tế
mà chỉ được xác định cụ thể là kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân. Theo
cách phân chia thành phần kinh tế trong văn kiện Đại hội IX của Đảng thì nền
kinh tế quốc dân nước ta bao gồm sáu thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản
nhà nước; kinh tế có vốn đấu tư nước ngoài. Trong các thành phần trên, có thể
hiểu kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân là thuộc về KTTN. Thực ra,
kinh tế có 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng nằm trong KTTN (nếu thuộc sở
hữu tư nhân). Điều đó cho thấy quan niệm về KTTN cũng còn có nhiều quan
niệm khác nhau. Song chỉ cho đến khi có Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) trong Nghị quyết Số 14/NQ/TƯ “Về tiếp
tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
KTTN thì quan niệm về KTTN được xác định: gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ


13


và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và
các loại hình doanh nghiệp tư nhân” [18, tr. 55].
Trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006) đã xác
định trên cơ sở ba chế độ sở hữu cơ bản đang tồn tại ở nước ta, hình thành nên
các thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, trong
đó có KTTN. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất với quy mô trình độ phát triển từ thấp (kinh tế cá thể,
tiểu chủ) đến cao kinh tế tư bản tư nhân. Trên cơ sở kế thừa và phát triển
những quan điểm của Đảng tại các kỳ Đại hội trước về phát triển các hình
thức sở hữu và thành phần kinh tế. Tại Đại hội XI Đảng ta xác định có bốn
thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, Đại hội XII của Đảng hoàn toàn nhất trí
quan điểm về các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế như Đại hội XI.
Có thể xem KTTN trên các quan hệ kinh tế cơ bản sau:
Xét về quan hệ sở hữu, kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất (hoặc vốn) cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ tư liệu
sản xuất hoặc vốn đó. Nó bao gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của người
lao động tự do, sản xuất ra sản phẩm nhờ chính lao động của mình và các
thành viên trong gia đình (như thợ thủ công cá thể, tiểu thương, các hộ nông
dân..) và sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và
nước ngoài đầu tư ở Việt Nam.
Xét về quan hệ quản lý, xuất phát từ quan hệ sở hữu nêu trên của
KTTN, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này gồm các quan hệ quản lý dựa
trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn.
Trong quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên
sự tổ chức, điều hành, giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Quan hệ

quản lý dựa trên sở hữu lớn là quan hệ quản lý giữa chủ thể quản lý với đối
tượng quản lý và khách thể quản lý, giữa người quản lý và người bị quản lý
hay nói cách khác đó là mối quan hệ giữa chủ và thợ, giữa người sử dụng lao
động với lao động làm thuê.

14


Xét về quan hệ phân phối, trong KTTN, quan hệ phân phối dựa trên cơ
sở các loại hình sở hữu tư nhân cũng có sự khác nhau. Đối với các cơ sở sản
xuất kinh doanh mà người sở hữu đồng thời là nguời trực tiếp lao động,
không thuê mướn nhân công thì phân phối kết quả sản xuất là tự phân phối
trong nội bộ chủ thể kinh tế đó. Còn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh
lớn, chủ sở hữu tư liệu sản xuất (hay vốn) sử dụng lao động của lao động làm
thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn cứ vào sở hữu giá trị, tức là giá trị sức lao
động của lao động làm thuê và sở hữu tư bản. Tất nhiên, trong các chế độ chính
trị khác nhau thì quan hệ phân phối của KTTN cũng có sự khác biệt nhất định.
Khi nghiên cứu thành phần KTTN ta thấy biểu hiện qua hai hình
thức là hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ và hình thức kinh tế tư bản tư
nhân. Việc phân địch rạch ròi giữa hai hình thức kinh tế này còn có nhiều
khó khăn, dễ đánh đồng bản chất giữa hai hình thức, điểm cần chú ý là xét
về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân
đều thuộc loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân và tập thể,
điểm khác nhau giữa hai hình thức này là khác nhau về trình độ phát triển
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh tế hoạt động trên
cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với quy mô nhỏ hơn các loại hình
doanh nghiệp tư nhân, hoạt động chủ yếu dựa vào sử dụng lao động trong gia
đình, là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm
về kết quả sản xuất của mình

Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế dựa trên cơ sở chiếm hữu
tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ có sử dụng lao
động làm thuê, hoạt động một cách độc lập trong đó chủ thể tư bản đồng
thời cũng là chủ doanh nghiệp. Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các loại
hình doanh nghiệp như: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ
phần, công ty hợp danh.
Từ cách hiểu và tiếp cận khác nhau trong từng giai đoạn của Đảng về
KTTN, có thể hiểu: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân

15


về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân hoạt động
dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân.
* Đặc điểm kinh tế tư nhân
So với khu vực KTTN của các nền KTTT trên thế giới, đặc biệt là
ở các nước có nền kinh tế phát triển, KTTN Việt Nam được xem là khu
vực kinh tế mới phục hồi và phát triển trong vòng gần 30 năm trở lại
đây. Do đó, KTTN Việt Nam bên cạnh những đặc điểm chung giống như
khu vực KTTN trên thế giới, KTTN Việt Nam còn có những đặc điểm
riêng có sau đây:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo.
Kinh tế thị trường là cách thức tốt nhất và duy nhất để một nền kinh tế
vận hành có hiệu quả. Kinh tế thị trường là phương tiện để đạt đến nền sản
xuất lớn, hiện đại và hiệu quả. Và cơ chế thị trường hiện đại là môi trường để
KTTN phát triển. KTTN bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân là
sản phẩm tự nhiên, tất yếu của quy luật QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam và nó ngày càng phát triển rộng

khắp trong môi trường của kinh tế thị trường, và tự lớn lên trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ngày càng khẳng định được vai trò là động lực
quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Mặt khác, KTTN ở nước ta là kết quả
của chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, KTTN là bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phát triển KTTN nhằm mục đích phục vụ cho công cuộc đổi
mới đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Do đó, về mặt
bản chất, nó khác với KTTN ở các nước tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, kinh tế tư nhân là sản phẩm của công cuộc đổi mới của đất nước.
Trước đổi mới, KTTN bị coi là thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa
và không được khuyến khích phát triển. Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước trong đó KTTN được

16


thừa nhận là một thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Điều đó có nghĩa cùng với việc thực hiện đường lối đổi mới ở nước
ta, KTTN được chính thức thừa nhận và khuyến khích phát triển trong tất cả
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm, nhằm
tăng cường lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế phát triển. Còn trước đổi mới,
KTTN mặc dù vẫn tồn tại trên thực tế, nhưng không được pháp luật thừa nhận,
bảo vệ. Chính vì KTTN là sản phẩm của công cuộc đổi mới, được sử dụng cho
việc thực hiện mục tiêu của công cuộc đổi mới, do vậy chủ trương phát triển
KTTN ở nước ta hiện nay là nhằm góp phần sớm hiện thực hoá các mục tiêu KT
- XH của TKQĐ, chứ không phải để đưa đất nước phát triển theo con đường
của chủ nghĩa tư bản. Do đó, KTTN ở nước ta khác về bản chất, so với ở các
nước tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, kinh tế tư nhân chịu sự tác động của các quy luật KTTT và sự
quản lý điều hành của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân

nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của KTTN trong nền KTTT định
hướng XHCN ở Việt Nam. Một mặt, KTTN hoạt động tuân theo các quy luật
kinh tế khách quan của nền KTTT như quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu...
Nhưng mặt khác, sự hoạt động KTTN trong nền KTTT chịu sự điều tiết của Nhà
nước Pháp quyền XHCN nhằm dẫn dắt, định hướng mọi thành phần kinh tế của
nền kinh tế quốc dân, trong đó có KTTN phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là đặc điểm khác biệt so với KTTN ở
các nước tư bản chủ nghĩa vì ở các nước tư bản sở hữu tư nhân và KTTN giữ vai
trò thống trị và chi phối các thành phần kinh tế khác, sự điều tiết của nhà nước tư
sản chỉ nhằm mục đích duy trì QHSX thống trị dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất nhằm mục đích bảo vệ lợi ích một bộ phận trong xã hội tư bản đó
chính và giai cấp tư sản.
Thứ tư, chủ các doanh nghiệp, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh
của KTTN đa số là con em lao động, trong đó có cả cán bộ, viên chức nhà nước
đã nghỉ hưu, nhiều người trong số họ là đảng viên.

17


Đây là đặc điểm mang nhiều dấu ấn trong TKQĐ lên CNXH ở Việt
Nam. Bởi lẽ, nước ta đi lên xây dựng CNXH từ một nước thuộc địa nửa
phong kiến với nền kinh tế dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Do đó, sau
thời kỳ đổi mới với chủ trương của Đảng khuyến khích mọi người dân vươn
lên làm giàu chính đáng, thì trong số các chủ các doanh nghiệp, các loại hình
tổ chức sản xuất kinh doanh của KTTN đa số là con em lao động, và một bộ
phận cán bộ công chức về hưu muốn đóng góp thêm cho xã hội trong phát
triển KT - XH nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Đặc biệt, từ khi
Đảng có chủ trương cho phép đảng viên được làm KTTN thì nhiều cán bộ
đảng viên tích cực tham gia phát triển kinh tế bằng nguồn lực của bản thân và

gia đình, tích cực tham gia phát triển kinh tế dưới nhiều loại hình doanh
nghiệp, công ty và các tổ chức sản xuất kinh doanh, vươn lên làm giàu chính
đáng cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong khi đó, ở các nước tư bản chủ
nghĩa chủ các doanh nghiệp, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của
KTTN chủ yếu là giai cấp tư sản, tiểu tư sản tham gia phát triển KTTN vì
mục tiêu và quyền lợi của giai cấp tư sản.
* Vai trò của kinh tế tư nhân
Từ khi Đảng ta chủ trương thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, KTTN trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận và
khuyến khích phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh mà pháp luật không cấm. Qua các kỳ Đại hội của Đảng (kể từ Đại hội
VI) và các hội nghị Trung ương, phát triển KTTN luôn là vấn đề được quan
tâm, chú trọng trong chủ trương, đường lối phát triển KT-XH của đất nước.
Trong đó, KTTN được xác định: là bộ phận cấu thành quan trọng, là một
trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, đồng thời góp phần vào
việc phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đại hội XII Đảng ta đã xác định: “Thống nhất nhận thức về
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế
vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật thị trường, đồng thời đảm bảo
tính định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của

18


đất nước... Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan
trọng của nền kinh tế”. [21, tr.25 ].
Có thể thấy, vai trò của phát triển KTTN đối với nền kinh tế nước ta
trên một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc

dân theo hướng CNH, HĐH.
Phát triển KTTN tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu
cầu trong nước và xuất khẩu, góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát.
Do đó, trong những năm qua KTTN đã khẳng định được vai trò là động
lực quan trọng trong thúc đẩy phát triển KT-XH, khai thác các tiềm năng
có hiệu quả, đóng góp ngày càng lớn và ngân sách nhà nước.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong giai đoạn 2010-2015, khu vực
doanh nghiệp Nhà nước chiếm 45% tổng vốn đầu tư nhưng chỉ tạo ra 28%
GDP, trong khi đó khu vực doanh nghiệp dân doanh chỉ chiếm 28% vốn
đầu tư nhưng tạo ra 46% GDP. Hiện nay KTTN đóng góp đến hơn 2/3
GDP của cả nước; 3/4 giá trị sản xuất công nghiệp; 55% giá trị xuất khẩu
của cả nước. [40, tr. 38]. Điều đó chứng tỏ KTTN có sự đóng góp lớn vào
việc gia tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế, được coi là một động lực
quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Với tốc độ phát triển ngày càng nhiều hoạt động rộng khắp trên tất
cả các lĩnh vực và phát triển ở khắp các địa phương KTTN đã và đang làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch
vụ giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp. Điều này cho thấy, cơ cấu kinh tế
đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hiện đại. Cơ cấu kinh tế có xu
hướng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện về số lượng giữa KTTN
với các thành phần kinh tế khác, mà còn thể hiện rất rõ trong sự phát triển
của các vùng lãnh thổ, và giữa các ngành. Các doanh nghiệp đăng ký hoạt
động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại chiếm 42% tổng số

19


doanh nghiệp, công nghiệp - xây dựng 31%, dịch vụ khác 22%, nông
nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn khoảng 5%.
Thực tế cho thấy, quá trình phát triển KTTN đồng thời là quá trình

tìm kiếm phương thức kinh doanh có hiệu quả nhằm giảm bớt chi phí
sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của
hàng hóa trên thị trường. Đó cũng là quá trình các chủ doanh nghiệp
phải tự đổi mới công nghệ, kỹ thuật, khoa học quản lý của doanh
nghiệp mình, chuyển hướng sản xuất kinh doanh vào những ngành
nghề thế mạnh có trình độ khọc công nghệ hiện đại, từ đó tự bản thân
nó chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn.
Thứ hai, góp phần khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn,
các nguồn nguyên liệu ở từng địa phương.
KTTN có hiệu quả đầu tư cao hơn rất nhiều so với doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo tính toán, để tạo 1 đơn
vị giá trị GDP, các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân chỉ cần 3,74 đơn vị
đầu tư, trong khi ở khu vực nhà nước cần tới 8,28 đơn vị và doanh nghiệp khu
vực FDI cần 4,99 đơn vị. Doanh thu trên tổng số tài sản khu vực tư nhân cũng
cao hơn các khu vực khác, nếu với 1 tỉ đồng tài sản, doanh nghiệp tư nhân sẽ
tạo ra được 1,18 tỉ đồng doanh thu, thì doanh nghiệp ở khu vực nhà nước chỉ
tạo ra được 0,80 tỉ đồng và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 0,89 tỉ
đồng [40, tr. 128].Chính vì thế, vai trò của KTTN trong nền kinh tế ngày càng
trở nên quan trọng.
Với tính chất hoạt động rộng khắp, sản xuất kinh doanh trên tất cả các
lĩnh vực ở các địa phương. Do vậy, KTTN có thể khai thác và phát huy lợi thế
về nguyên, nhiên liệu của từng địa phương, góp phần tiêu thụ nguồn nguyên
liệu tại địa phương giảm áp lực nhập khẩu, từ đó góp phần giảm giá thành sản
phẩm tăng tính cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Thực tế cho thấy,
những năm qua nhờ vào việc phát triển rộng khắp của KTTN trên tất cả các
ngành nghề ở các địa phương đã góp phần to lớn đảm bảo tiêu thụ đầu ra cho
các vùng nguyên liệu tại các địa phương trên cả nước. Từ đó, khai thác triệt

20



để tiềm năng, thế mạnh góp phần duy trì sản xuất ổn định các vùng nguyên
liệu của các địa phương thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển ngày càng ổn định.
Thứ ba, góp phần tạo việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, một trong những đặc
điểm chung và lớn nhất là có số lượng lao động thiếu việc làm nhiều,
trong khi quy mô nền kinh tế còn nhỏ. Do đó, giải quyết vấn đề việc làm
và sử dụng hết số lao động có tầm quan trọng hàng đầu để tăng trưởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội do thất nghiệp và thiếu việc làm gây
ra.
Trong thời gian qua, KTTN được khuyến khích và phát triển rộng khắp trong
cả nước, đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng vạn lao động. Bởi vậy, mặc dù
tỷ trọng của KTTN trong GDP chiếm trên 45% nhưng đã sử dụng tới 85%
tổng số lao động xã hội. Số liệu thống kê cho thấy, những năm qua KTTN
có khả năng thu hút nhiều lao động nhất. Năm 2010 khu vực KTTN là 25.
078. 324 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường xuyên trong
tổng lao động xã hội. Trong bốn năm từ 2010 - 2014 thu hút thêm hơn 1
triệu lao động, gấp 7,1 lần so với khu vực kinh tế Nhà nước đặc biệt là lao
động có tay nghề chuyên môn cao. [40, tr. 54].
Trong tổng số lao động đang làm việc tăng lên trong nền kinh tế trong
năm 2010 so với năm 2014 (11.546, 4 nghìn người) thì khu vực kinh tế
Nhà nước tăng 1.100, 3 nghìn người chiếm 10,3%; khu vực ngoài nhà
nước tăng 10. 456, 0 chiếm hơn 78,3 %; Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài tăng 1. 423, nghìn người chiếm 12,3% [40, tr. 42].
Ngoài việc tạo việc làm cho người lao động, phần lớn các doanh nghiệp
đang phải tự đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao
động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Hình
thức đào tạo đa dạng, linh hoạt, nhạy bén như: kèm cặp hướng dẫn, cầm
tay chỉ việc hoặc gửi đào tạo tại các trung tâm dạy nghề, … Bên cạnh đó, để
đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp KTTN phải luôn tìm tòi những

biện pháp tổ chức lao động quản lý có hiệu quả nhất, vì vậy kỷ luật lao động

21


được thực hiện rất nghiêm, lao động có kỹ năng tác phong công nghiệp. Các
doanh nghiệp KTTN trong quá trình phát triển đã đẩy nhanh tốc độ đổi mới
trình độ công nghệ nên trình độ của người lao động trong khu vực KTTN
không ngừng được nâng cao.
Thứ tư, góp phần làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và dân chủ
hóa đời sống kinh tế được tăng cường.
Chính sự phát triển KTTN với nhiều loại hình kinh tế khác nhau, đã
góp phần làm cho QHSX chuyển biến phù hợp với LLSX trong giai đoạn
chuyển đổi nền kinh tế nước ta. Trong TKQĐ, trình độ LLSX ở nước ta
không những thấp mà còn tồn tại nhiều trình độ khác nhau. Bởi vậy, tương
ứng với nó là sự đa dạng trong quan hệ sở hữu, cùng với sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể còn có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Sự
chuyển biến trong quan hệ sở hữu kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản
lý, bên cạnh đội ngũ giám đốc và những người làm công ăn lương trong các
doanh nghiệp nhà nước, hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp và đội ngũ lao
động làm thuê trong các DNTN… làm xuất hiện quan hệ chủ thợ, quan hệ
thuê mướn lao động thông qua hợp đồng kinh tế v.v… Cùng với sự chuyển
biến trong quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý, quan hệ phân phối cũng trở nên
đa dạng hơn, ngoài phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế còn
có các hình thức phân phối khác như: phân phối theo vốn góp, theo tài sản,
theo cổ phần…. Sự chuyển biến của cả ba mặt trên đã làm cho QHSX trở nên
mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt phù hợp với thực trạng của nền kinh tế nước ta
hiện nay. Điều đó cho phép, khơi dậy và phát huy được các nguồn lực của xã
hội vào công cuộc phát triển kinh tế. Đây thực sự là quá trình xã hội hoá

LLSX trên thực tế phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay. Quá trình này
đang từng bước thúc đẩy LLSX phát triển.
Với việc phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh của KTTN làm
cho quyền làm chủ về kinh tế của mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân được
phát huy. Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động sản xuất kinh

22


doanh mà pháp luật cho phép, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền
tự do kinh doanh đều được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu
tư kinh doanh, tiếp cận các nguồn lực, thông tin thị trường. Quá trình dân
chủ hóa đời sống kinh tế ngày càng mở rộng, đặt ra yêu cầu phải đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế của Nhà nước đối với KTTN sao cho phù hợp với nền
dân chủ XHCN, cũng như góp phần thúc đẩy, nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần của toàn xã hội.
* Quan niệm về phát triển kinh tế tư nhân
Để làm rõ quan niệm phát triển KTTN trước hết đi từ quan niệm về phát
triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam “Phát triển : là phạm trù triết học
chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Không đơn
giản chỉ có biến đổi, mà luôn luôn chuyển sang những trạng thái mới, tức
là những trạng thái trước đây chưa từng có và không bao giờ lặp lại hoàn
toàn trạng thái đã có” [44, tr.434]… Còn phát triển kinh tế được định
nghĩa như sau “Phát triển kinh tế : là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc
dân bằng sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống dân cư. Đối với các
nước đang phát triển thì phát triển kinh tế là quá trình đưa nền kinh tế
chậm phát triển thoát khỏi lạc hậu, đói nghèo và thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu
kinh tế, thể chế kinh tế, văn hóa, pháp luật, thậm chí kỹ năng quản lý,

phong cách tập tục…” [45, tr.425].
Theo quan điểm của Đại học Kinh tế quốc dân: phát triển kinh tế có thể
hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản xuất
(tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế .
Trên cơ sở quan niệm về KTTN, “phát triển” và “phát triển kinh tế”
theo hướng tiếp cận đó có thể hiểu: Phát triển KTTN là sự vận động biến đổi
của các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh dựa trên sở hữu tư nhân về tư

23


liệu sản xuất dưới tác động của các quy luật kinh tế thị trường và sự định
hướng dẫn dắt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự gia
tăng về số lượng, quy mô cùng với sự dịch chuyển về cơ cấu, trình độ sản
xuất kinh doanh theo hướng tiến bộ, hiệu quả…nhằm thực hiện mục tiêu: “
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Trên cơ sở quan niệm về phát triển KTTN có thể hiểu phát triển KTTN
trên một số nội dung cơ bản như: Thứ nhất, phát triển KTTN trước hết, là sự
vận động, biến đổi của KTTN thể hiện ở sự gia tăng về số lượng, quy mô của
nó (bao gồm cả vốn và lao động). Thứ hai, cùng với sự tăng thêm về số
lượng, quy mô là sự chuyển dịch về cơ cấu (ngành, vùng...) của KTTN theo
hướng tiến bộ, hiệu quả. Thứ ba, trình độ, hiệu quả sản xuất, kinh doanh trong
KTTN không ngừng được nâng lên v.v...
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
kinh tế tư nhân trong công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ
1.2.1. Quan niệm về phát triển kinh tế tư nhân trong công nghiệp và
dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ
* Quan niệm về kinh tế tư nhân trong công nghiệp và dịch vụ
Từ cách tiếp cận nghiên cứu về KTTN, trên cơ sở phân tích đặc điểm,

vai trò và quan niệm về KTTN, có thể hiểu kinh tế tư nhân trong công nghiệp
và dịch vụ như sau: Kinh tế tư nhân trong công nghiệp và dịch vụ là loại hình
kinh tế dựa trên sở hữu toàn bộ hay một bộ phận tư liệu sản xuất trong công
nghiệp và dịch vụ thuộc sở hữu tư nhân, phù hợp với nó là các doanh nghiệp,
các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh tương ứng.
* Quan niệm về phát triển kinh tế tư nhân trong công nghiệp và dịch vụ
ở tỉnh Phú Thọ
Từ quan niệm về phát triển KTTN, KTTN trong công nghiệp và dịch
vụ nêu trên, có thể hiểu phát triển KTTN trong công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh
Phú Thọ: Là hoạt động tích cực của chủ thể nhằm thúc đẩy sự vận động biến đổi
của các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh của kinh tế tư nhân trong công

24


nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ với sự gia tăng về số lượng, quy mô cùng với
sự dịch chuyển về cơ cấu, trình độ sản xuất kinh doanh theo hướng tiến bộ, hiệu
quả góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Quan niệm về phát triển KTTN trong công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh
Phú Thọ được thể hiện trên các nội dung cụ thể như:
Mục đích trước hết và thiết thực phát triển KTTN trong công nghiệp và
dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ đó chính là vấn đề lợi nhuận, thông qua việc huy động có
hiệu quả các nguồn lực của KTTN nói chung, KTTN trong công nghiệp và dịch
vụ nói riêng và các nguồn lực trong nhân dân ở tỉnh Phú Thọ nhằm nâng cao
hiệu quả vào sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và loại hình tổ chức sản
xuất kinh doanh của KTTN. Bên cạnh đó, mục đích phát triển KTTN trong công
nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Phú Thọ không chỉ là sự phát triển đơn thuần của
riêng thành phần KTTN, mà sự phát triển đó còn góp phần tạo tạo việc làm,
nâng cao thu nhập cho người lao động; tăng thu ngân sách nhà nước của tỉnh;
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế và hiện thực hóa các mục tiêu

kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ.
Chủ thể quá trình phát triển KTTN nói chung, KTTN trong công
nghiệp và dịch vụ nói riêng là Đảng bộ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn
thể, các chủ doanh nghiệp, chủ các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh và người
lao động trong công nghiệp, dịch vụ của tỉnh Phú Thọ trong việc cụ thể hóa chủ
trương, đường lối, của Đảng chính sách của Nhà nước và vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan vào phát triển KTTN phù hợp với điều kiện cụ thể của Tỉnh.
Phương thức, lực lượng phát triển của KTTN trong công nghiệp và dịch
vụ ở tỉnh Phú Thọ còn là quá trình vận động biến đổi, phát triển của các loại hình
tổ chức sản xuất kinh doanh của KTTN trong công nghiệp và dịch vụ tỉnh Phú
Thọ. Trong đó, bao gồm sự vận động biến đổi theo hướng gia tăng của kinh tế cá
thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân về số lượng, quy mô cũng như sự chuyển dịch về
cơ cấu của KTTN trong công nghiệp và dịch vụ dưới tác động của quy luật kinh
tế khách quan của nền KTTT như: quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh… và sự
quản lý Nhà nước từ Trung ương tới địa phương thông qua việc thực hiện đường

25


×