Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN KINH tế tư NHÂN ở QUẬN hà ĐÔNG THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.19 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

12

1.1.

Một số vấn đề chung về kinh tế tư nhân

12

1.2.

Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát
triển kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

1.3.

Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của một số địa
phương và bài học có thể vận dụng cho quận Hà Đông

Chương 2

40



Tổng quan về kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội

2.2.

32

THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở QUẬN HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

25

38

Đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt
ra về phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội

Chương 3

55

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020

3.1.


Mục tiêu và phương hướng cơ bản phát triển kinh tế tư
nhân ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

3.2.

64
64

Giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đến năm 2020

70

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương chính sách tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế nhiều
thành phần, nhất là Thành phần KTTN có điều kiện thuận lợi phát triển. Nhìn
chung Thành phần KTTN đã từng bước có sự phát triển đa dạng gắn với
nhiều loại hình sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ

và thu hút một số lượng lớn lao động trong dân cư. Theo thống kê, hiện nay
doanh nghiệp tư nhân đang thu hút khoảng 90% số lao động hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Sự phát triển KTTN đã góp phần thúc đẩy
cạnh tranh và buộc doanh nghiệp nhà nước đối mặt với thị trường cạnh tranh
bình đẳng trước pháp luật, từ đó tạo động lực thúc đẩy quá trình cải cách
doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Trong công
cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, KTTN phát triển và tồn tại khách quan
phản ánh được những yêu cầu đặt ra trong nền KTTT xã hội chủ nghĩa.
Nằm trong xu thế chung của cả nước, những năm đổi mới vừa qua kinh
tế tư nhân ở quận Hà Đông thành phố Hà Nội đã có những bước phát triển đáng
kể. Kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông đã góp phần quan trọng vào huy động các
nguồn lực giải quyết việc làm tăng thu nhập và làm sống động nền kinh tế của
địa phương, tạo áp lực cạnh tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế
trên địa bàn quận. Chỉ tính riêng năm 2014, toàn quận Hà Đông đã có 21.745 cơ
sở KTTN, tạo việc làm cho 87.978 lao động và nộp ngân sách khoảng trên 300
tỷ đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả trên, hoạt động kinh tế tư nhân ở
quận Hà Đông vẫn bộc lộ không ít hạn chế. Tuy số lượng cơ sở và doanh
nghiệp tư nhân tăng lên nhiều, nhất là từ khi có luật doanh nghiệp (năm 2005),
nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng với sự gia tăng đó. Nhiều cơ sở
doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, công nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn
3


nhân lực kém, còn mang nặng tính tự phát, chủ sản xuất - kinh doanh chưa yên
tâm phát triển lâu dài… tình trạng này gây tác động hạn chế không nhỏ đến yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của thành phố Hà Nội nói chung và quận Hà Đông
nói riêng. Để khu vực KTTN tiếp tục có sự phát triển, đóng góp ngày càng
nhiều vào sự phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống người dân trên địa
bàn quận, cần thiết có những nghiên cứu nghiêm túc từ đó đề ra những giải

pháp đồng bộ, phù hợp nhằm phát huy những yếu tố tích cực của thành phần
kinh tế này và hạn chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển.
Từ các lý do nêu trên, đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà
Đông thành phố Hà Nội” được chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trong đó, có những tác giả nghiên cứu với những góc độ, phạm vi khác
nhau. Có thể nêu ra những công trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài như:
- Nguyễn Thanh Tuyền (năm 2000): “Thành phần kinh tế tư bản tư
nhân trong quá trình CNH, HĐH” NXB.CTQG, Hà Nội năm 2000. Đã nhìn
nhận vai trò của nền kinh tế này, gắn với quá trình phát triển kinh tế đất nước
hiện nay.
- GS. TS Hồ Văn Vĩnh (năm 2001), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà
nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta. Đề tài cấp Bộ - Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh; tác giả đã khẳng định vai trò to lớn của kinh tế tư nhân,
nêu ra những định hướng phát triển kinh tế tư nhân và những giải pháp về pháp
luật, về chính sách, về tổ chức để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển.
- Hà Huy Thành (năm 2002): “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư
bản tư nhân”. NXB.CTQG, Hà Nội năm 2002. Đã làm rõ vị trí vai trò của các
thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và tư bản tư nhân cùng những giải pháp
thúc đẩy bộ phận kinh tế này phát triển.

4


- Trần Ngọc Bát (năm 2002): “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng
XHCN”. NXB chính trị Quốc Gia, Hà Nội năm 2002. Đã đề cập đến vai trò
của kinh tế tư nhân ở nước ta.
- Phương Hữu Việt (năm 2002): “Phát triển các thành phần kinh tế
những nguyên nhân trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện

nay”. Luận án Tiến sỹ, năm 2002. Đã làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn cũng như thực trạng phát triển các thành phần kinh tế ngoài kinh tế
nhà nước trong đổi mới kinh tế ở nước ta. Đồng thời còn chỉ ra định hướng và
giải pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế ngoài nhà
nước phát triển.
- GS. TS Tô Xuân Dân và TS. Nghiêm Xuân Đạt (2002), Phát triển
và quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Nxb Khoa học và Kỹ
thuật. Nội dung công trình nghiên cứu này đã nêu tình hình và các giải pháp
phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đồng thời, đề ra các yêu cầu
về công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- PGS. TS. Nguyễn Đình Kháng (Năm 2002), Kinh tế tư nhân và xu
hướng phát triển của nó trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tổng kết xu hướng
phát triển kinh tế tư nhân của các nền kinh tế nói chung. Vận dụng trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận giải rõ quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân; đề xuất giải
pháp cho giai đoạn 2005 - 2010.
- Đào Quang Vinh (Năm 2002), Doanh nghiệp tư nhân và khả năng giải
quyết việc làm qua một cuộc điều tra, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 190.
Trong bài viết, tác giả đánh giá tổng quan về khả năng giải quyết việc
làm của các doanh nghiệp tư nhân.
- Đoàn Xuân Triếm (Năm 2002), Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở
Quảng Bình: Thực trạng và một số đề xuất về công tác quản lý , Tạp chí Tài
5


chính, tháng 6-2002. Bài này tác giả đề xuất một số giải pháp để tăng cường
công tác quản lý ngoài quốc doanh ở Quảng Bình có hiệu quả hơn.
- Hạ Tiểu Lâm (Năm 2002), Khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc:
Chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt, Tạp trí những

vấn đề kinh tế thế giới, tháng 2-2002.
- Nguyễn Thị Tâm (Năm 2002), Tài chính với sự phát triển của khu
vực tư nhân, Tạp chí Tài chính, số 7-2002.
- PGS. TS Nguyễn Huy Oánh (2003), Vai trò của kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Bài nghiên cứu đã khẳng định
vai trò quan trọng của thành phần kinh tế tư nhân (trong đó có các doanh
nghiệp tư nhân) và những yêu cầu, giải pháp để phát huy vai trò của kinh tế
tư nhân đối với nền kinh tế của nước ta.
- TS. Vũ Thị Bạch Tuyết (Năm 2003), Con đường nào cho kinh tế tư
nhân của Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Tài chính, số tháng 4-2003.
Trong công trình này, tác giả đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân, từ đó đề
xuất nhằm tháo gỡ những vướng mắc hiện nay, cho khu vực kinh tế tư nhân.
- TS. Nguyễn Hồng Nhung (Năm 2003), Vai trò của Chính phủ trong
việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á, số 3. Trong bài viết, tác giả đã phân tích chính sách hỗ trợ, tác
giả rút ra bốn nhận xét quan trọng trong các chính sách hỗ trợ của các nước này.
- TS Nguyễn Minh Phong (năm 2004), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà
Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tổng kết sự phát triển của kinh tế tư nhân
trước đổi mới; Vai trò, ý nghĩa của phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nôi. Đặc
biệt nhấn mạnh yêu cầu và tính tất yếu của phát triển kinh tế tư nhân với phát
triển Kinh tế - xã hội ở Hà Nội.
- Nguyễn Thế Quang (Năm 2004), Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước đối với các doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn Hà Nội, Tạp
chí Quản lý nhà nước, số 10.
6


- PGS,TS Vũ Văn Phúc (Năm 2005), Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tác giả đề cập đến quan niệm về kinh tế tư nhân; bản chất kinh tế tư

nhân; tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường; tính hai mặt của sự phát triển kinh tế
tư nhân; thực trạng kinh tế tư nhân và một số giải pháp cơ bản thúc đẩy sự phát
triển kinh tế tư nhân.
- PGS,TS Trịnh Thị Hoa Mai (Năm 2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam
trong tiến trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội. Tác giả đề cập đến những vấn
đề chung về khu vực kinh tế tư nhân, phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện
hội nhập, các loại hình doanh nghiệp tư nhân, vốn thực tế của doanh nghiệp tư
nhân thư thế nào, số lượng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam.
- Ngô Thị Hoài Thu (Năm 2005), Mối quan hệ giữa cơ chế tài chính và cơ
chế quản lý đối với doanh nghiệp dân doanh, Tạp chí Thuế Nhà nước, số 4.
- "Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay". Luận văn thạc sĩ Kinh
tế của Bùi Việt Hưng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội - 2006.
Tác giả đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển doanh nghiệp
tư nhân ở Thái Bình. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra phương hướng cơ bản và
những giải pháp chủ yếu để phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình trong
thời gian tới.
- Trần Sửu (2006), năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện
toàn cầu hóa, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội. Tác giả đã phân tích, đề cập đến
cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp, chỉ rõ các nhân tố cấu thành và tiêu chí đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực
cạnh tranh của một số doanh nghiệp Việt Nam, tác giả đã đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong
điều kiện toàn cầu hóa.
7


- Trần Thị Lan (2007), doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở
Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã phân tích và làm rõ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch, đồng
thời tác giả đưa ra phương hướng và các giải pháp cơ bản thúc đẩy phát triển
doanh nghiệp tư nhân trong ngành du lịch ở Thanh Hóa trong thời gian tới.
- TS.Nghiêm Xuân Đạt, GS.TS Tô Xuân Dân (chủ biên), Phát triển và
quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nxb Khoa học và kỹ thuật.
Các tác giả đã phân tích làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn, sự cần
thiết phát triển thành phần kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đồng thời các tác giả đã đề
xuất những giải pháp nhằm tận dụng phát huy lợi thế để phát triển các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu, rộng như hiện nay.
- Phạm Quang Trung (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp ở Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 129 (2008). Tác giả phân
tích và luận giải những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trên địa bàn như: vấn đề khó khăn về vốn và sự hạn chế
trong tiếp cận các nguồn tài chính; nhiều doanh nghiệp trong nhận thức chưa
rõ ràng, còn mơ hồ về xây dựng và phát triển thương hiệu, chưa có chiến lược
Marketing để chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước; đội ngũ cán bộ và
đội ngũ công nhân lành nghề trong nhiều doanh nghiệp còn yếu và thiếu ;
trình độ máy móc, thiết bị, công nghệ rất lạc hậu nên đã ảnh hưởng không nhỏ
đến năng lực cạnh tranh của DN trên địa bàn như: Đa dạng hóa các kênh tài
chính; nâng cao vốn điều lệ của doanh nghiệp; phát triển thương hiệu; xây
dựng và phát triển hệ thống phân phối, thúc đẩy đầu tư phát triển công nghệ.
- Phạm Văn Minh (2009), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở tinh Thải Bình, Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Học
8



vỉện Chính trị quân sự, Hả Nội. Trong đó tác giả tập trung luận giải một sổ
vấn đề về cạnh tranh, nâng lực cạnh tranh của DNVVN làm cơ sở để phân
tỉch, đánh gía thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNVVN ở tỉnh Thái
Bỉnh, từ đỏ đề xuất một số quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của các DNVVN tỉnh Thái Bình thời gian tới.
- Nguyễn Thị Thanh Bình (2012), Một sỗ giải pháp tài chính hỗ trợ cho
sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính
trị, trường Đạỉ học kinh tế Thành phố Hổ Chí Minh.
Theo tác giả, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay, sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều loại
hình doanh nghiệp với những quy mô, trình độ khác nhau là tất yếu. Việc tập
trung sản xuất ở quy mô nhỏ sẽ khai thác tối đa lợi thế về tính đa dạng hóa
của sản phẩm, đáp ứng từng phân khúc rất nhỏ của thị trường, giúp các doanh
nghiệp tìm được chỗ đứng trên thị trường, đồng thời cũng giảm thiểu rủi ro do
biến động của thị trường. Do quy mô gọn nhẹ nên khả năng thu hút vốn trong
dân dễ dàng và nhanh chóng, phát huy được nội lực trong nền kỉnh tế.
Và một số bài báo, tạp chí, luận văn, luận án nghiên cứu về kinh tế tư
nhân ở các Bộ, Ngành, địa phương.
Nhìn chung, các công trình, đề tài trên đã nghiên cứu về kinh tế tư nhân
theo nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau. Song, đến nay chưa có một đề tài
nào có thể vận dụng thật sự hiệu quả trên địa bàn quận Hà Đông. Vì, một mặt,
do các giải pháp phát triển kinh tế tư nhân cần có sự thay đổi theo đòi hỏi thực
tiễn hiện nay. Mặt khác, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống
về kinh tế tư nhân trên địa bàn quận Hà Đông dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và
9



giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà
Nội đến năm 2020.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Khái quát hóa và luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và kinh
nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội thời gian qua;
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế
tư nhân trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội thời gian đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
*Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phát triển kinh tế tư nhân.
*Phạm vi nghiên cứu: về nội dung đề tài tập trung nghiên cứu kinh tế
tư nhân, bao gồm các DNTN, Công ty cổ phần, Công ty TNHH và Hộ kinh
doanh cá thể; không gian nghiên cứu trên địa bàn quận Hà Đông; thời gian
nghiên cứu từ năm 2010 đến năm 2014, tuy nhiên một số vấn đề phát triển
kinh tế tư nhân trước 2010 cũng được đề cấp xem xét ở mức độ nhất định, để
góp phần làm rõ đối tượng nghiên cứu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu làm rõ các vấn đề liên quan đến
phát triển KTTN một cách khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể trên địa bàn
quận Hà Đông,thành phố Hà Nội.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các các phương pháp của kinh tế chính trị học
như trừu tượng hóa khoa học, kết hợp với phương pháp lịch sử và logic, gắn
10



lý luận với thực tiễn và khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, thống kê, điều
tra, so sánh qua biểu đồ, sơ đồ, đồ thị minh họa nhằm phản ánh và đánh giá
đúng sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trên địa bàn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài này góp phần làm sáng rõ hơn về phát triển KTTN ở cấp độ
địa phương trên địa bàn một quận cụ thể.
- Đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho lãnh đạo Quận Hà
Đông và các sở, ban, ngành của thành phố Hà Nội để hoạch định chiến lược
phát triển kinh tế tư nhân và làm tài liệu tham khảo nghiên cứu của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu, nhất là nhu cầu đầu tư trên địa bàn.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài được kết cấu gồm 3 chương (7 tiết).

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN Ở QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số vấn đề chung về kinh tế tư nhân
1.1.1. Quan niệm và bản chất của kinh tế tư nhân
* Quan niệm về kinh tế tư nhân
Từ khi đổi mới đến nay, chúng ta đã nhận thức lại KTTN và đã đạt
được những thành tựu thực tiễn kinh tế - xã hội quan trọng. KTTN ngày càng
chứng tỏ vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam. Thực tiễn này đặt ra cần phải nghiên cứu để phát huy hơn nữa vai trò

của khu vực kinh tế này trong quá trình phát triển của cả nước nói chung, các
tỉnh nói riêng. Để đạt được yêu cầu này, trước hết cần phải làm rõ bản chất và
đặc điểm của KTTN.
Theo C.Mác, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất có vai trò phản
ánh đặc trưng của các hình thức quan hệ kinh tế nói chung cũng như hình thức
tổ chức kinh tế nói riêng, nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và
phân phối kết quả sản xuất. Như vậy, có thể nhận thức rằng KTTN được đặc
trưng bởi sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặc dù trong các tài liệu nghiên
cứu của Mác và Lê Nin không sử dụng thuật ngữ KTTN, nhưng các ông lại
thường đề cập đến các thuật ngữ sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa, lao động tư nhân. Nói KTTN TBCN chính là C.Mác nói đến một hình
thức phát triển của KTTN trong thời đại TBCN.
Ở nước ta cho đến nay đã có nhiều quan niệm về KTTN. Có quan niệm
cho rằng KTTN là một thành phần kinh tế, nhưng ý kiến khác lại cho rằng
KTTN là một khu vực kinh tế, một hình thức tổ chức doanh nghiệp hoặc là
khu vực kinh tế dân doanh...
Trong các văn kiện của Đảng ta, KTTN thường được hiểu là một thành
phần kinh tế. Nghị quyết 16 của Bộ chính trị (1988) và Nghị quyết hội nghị
12


Trung ương lần thứ sáu (khoá VI) nêu quan niệm: KTTN là đơn vị kinh tế do
những người có vốn, có tài sản lập ra, sản xuất, kinh doanh theo pháp luật, bao
gồm các hình thức xí nghiệp tư doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần...
Trong văn kiện Đại hội X của Đảng, KTTN được hiểu bao gồm kinh tế
cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong văn kiện có đoạn viết:
“Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo
sự quản lý hướng dẫn của Nhà nước, trong đó kinh tế cá thể và tiểu chủ có
phạm vi hoạt động tương đối rộng lớn ở những đơn vị chưa có điều kiện tổ
chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường

tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức [7, tr.69].
Cách hiểu này được căn cứ vào tính chất của quan hệ sở hữu đối với tư
liệu sản xuất và vốn.
Quan niệm như trên cũng được ghi trong luật pháp và chính sách của
Nhà nước ta. Hiến pháp năm 1992 quy định chế độ sở hữu ở Việt Nam bao
gồm ba hình thức cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Trên cơ sở chế độ sở hữu đó, nền kinh tế có các thành phần cơ bản là kinh tế
quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư
bản nhà nước [17].
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) đã tiếp tục đề ra những
chủ trương, chính sách nhằm Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển kinh tế
tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các
loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy định của
pháp luật. Tạo điều kiện thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp
vốn vào kinh tế nhà nước… hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại,
hộ sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong nông nghiệp và khu vực nông thôn…
khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với nhiều hình thức sở hữu
hỗn hợp như: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên,
công ty hợp danh… [9, tr.209].
13


Như vậy, trải qua các kỳ Đại hội, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, quan
niệm, nhận thức của Đảng ta về kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư nhân
ngày càng rõ, nó thực sự được khẳng định là một bộ phận hợp thành quan
trọng, không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nó cần được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển, để trực tiếp đóng
góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hóa hiện đại hóa đất nước.
Trong các nhà nghiên cứu cũng có những ý kiến khác nhau về KTTN:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng KTTN là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu

toàn bộ hay đại bộ phận tư liệu sản xuất thuộc về tư nhân và lao động làm thuê,
người chủ chiếm đoạt giá trị thăng dư do công nhân sáng tạo ra [34, tr.21 - 25].
Về hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, KTTN bao gồm doanh nghiệp tư
nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần (do tư nhân nắm tỷ lệ cổ phiếu khống
chế). Quan niệm KTTN như vậy đã không bao gồm các cơ sở kinh tế cá thể.
Trong các thuộc tính để xác định KTTN, ngoài quan niệm sở hữu đối với tư
liệu sản xuất còn có các quan niệm về thuê mướn lao động, có bóc lột.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng “KTTN gồm các đơn vị kinh tế mà phần
lớn vốn do một hoặc một số tư nhân góp lại, huy động cổ phần (nhưng do một
hay một nhóm tư nhân nắm cổ phiếu khống chế, chi phối), thuê lao động sản
xuất kinh doanh” [34, tr.16]. Những người theo loại ý kiến này cho rằng
không nên phân biệt tư nhân với cá thể vì không thể lấy tiêu chuẩn có tham
gia lao động trực tiếp hay không bóc lột. Ngoài ra, lý do chính mà trước đây
cần có sự phân biệt như vậy là để “cải tạo tư sản” và phân biệt đối xử trong
chính sách, nhưng hiện nay như vậy là không có lợi. Hơn nữa cơ sở để xác
định KTTN hay loại hình kinh tế nào không chỉ căn cứ vào sở hữu tư liệu sản
xuất, mà còn phải tính đến cả sở hữu vốn và tài sản kể cả những thứ chưa
thành tư liệu sản xuất nhưng có thể đưa vào sản xuất [34, tr.21].
Loại ý kiến thứ ba cho rằng, KTTN bao gồm các công ty, doanh nghiệp
tư nhân và các cơ sở kinh tế cá thể. Nó còn bao gồm cả các hợp tác xã do tư
14


nhân đội lốt, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài [14, tr.3 - 6], hoặc bao gồm
kinh tế gia đình, tiểu chủ và tiểu tư nhân có phân biệt theo giá trị tài sản và số
lao động làm thuê [6, tr.23]. Nghĩa là, KTTN bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế
dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất hoặc sở hữu tư nhân chiếm ưu thế,
không bao gồm các hợp tác xã đích thực.
Loại ý kiến thứ tư, KTTN bao gồm tất cả các cơ sở kinh tế ngoài kinh
tế nhà nước (kể cả hợp tác xã và kinh tế gia đình).

Loại ý kiến thứ năm lại coi KTTN là một khu vực, bao gồm các tổ chức
kinh tế mà sở hữu tư nhân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của chúng do
một hoặc một nhóm tư nhân tổ chức và quản lý. Như vậy, việc xác định
KTTN ở đây ngoài yếu tố cơ bản là sở hữu về tư liệu sản xuất (hoặc vốn) còn
có cả yếu tố quản lý và tổ chức.
Những ý kiến trên đã không thống nhất về quan niệm KTTN, tiêu
thức xác định KTTN chưa rõ ràng và chưa nhất quán. Nếu lấy sở hữu tư
nhân làm cơ sở để xác định KTTN thì tại sao trong loại hình kinh tế này lại
có cả kinh tế tư nhân cá thể và các hợp tác xã (trong khi Hiến pháp năm
1992 lại quy định nước ta có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư
nhân). Nếu căn cứ vào tiêu chí có bóc lột người lao động hay không bóc lột
để phân biệt KTTN và kinh tế cá thể, thì ai dám khẳng định rằng các cơ sở
kinh tế cá thể có hàng chục, thậm chí hàng trăm lao động như hiện nay là
không bóc lột. Ở đây khó có thể xác định một cách chính xác khu vực
KTTN do hiện tượng tư nhân núp bóng khu vực nhà nước, mượn tên doanh
nghiệp nhà nước, xây dựng các “sân sau” bên cạnh các doanh nghiệp nhà
nước, trốn tránh việc đăng ký kinh doanh, hoặc tư nhân đội lốt tập thể dưới
dạng các “tổ hợp” và đội lốt hộ gia đình...
Trong tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện
nay, có những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên
doanh..., nó không chỉ bao gồm các chủ đầu tư là tư bản tư nhân mà còn có cả
15


các chủ là nhà nước ở các nước Tư bản và các nước Xã hội chủ nghĩa. Do vậy
không nên liệt kê các doanh nghiệp loại này vào KTTN. Đại hội IX của Đảng
ta năm 2001 đã xác định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một
thành phần kinh tế gọi là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự xác định như
vậy là đúng chứ không nên xếp chúng vào khu vực KTTN.
Do sự thiếu rõ ràng, nhất quán trong nhận thức như trên, nên trong tổ

chức thực tiễn khu vực KTTN còn gặp không ít khó khăn, lúng túng, kém hiệu
quả.
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, nền kinh tế được phân chia
thành hai khu vực chủ yếu là khu vực KTTN và khu vực kinh tế nhà nước.
Khu vực kinh tế nhà nước do nhà nước là chủ sở hữu (hoặc có tỷ lệ cổ phần
khống chế) nên nhà nước có thể chi phối và kiểm soát trực tiếp hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khu vực KTTN là phần còn lại ngoài khu
vực nhà nước. Nền kinh tế của Trung Quốc hiện nay cũng đươc chia ra thành
hai khu vực: khu vực kinh tế công hữu (gồm kinh tế quốc hữu và kinh tế tập
thể) và kinh tế phi công hữu (bao gồm KTTN và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài); tức là KTTN là một khu vực kinh tế phi công hữu. Những sự phân
chia trên chủ yếu dựa trên quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và vốn.
Trong nền kinh tế các nước hiện nay, sự đan xen sở hữu khu vực kinh
tế nhà nước và KTTN làm cho sự phận loại thêm phức tạp. Trong các công ty
hỗn hợp, khu vực tư nhân được xác định dựa vào tỷ lệ vốn khống chế thuộc
về tư nhân. Tỷ lệ vốn đó tuỳ thuộc vào điều kiện mỗi nước và có thể dao động
từ 18 - 40%, không nhất thiết phải trên 50%.
Qua những phân tích trên, căn cứ vào quá trình ra đời và phát triển của
quan hệ sản xuất theo đó là quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân
phối sản phẩm, có thể hiểu KTTN là loại hình kinh tế ra đời và phát triển trên
cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và vốn, tồn tại dưới nhiều
hình thức tổ chức khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu mà nó
16


đại diện.
KTTN đã từng tồn tại lâu dài qua những biến đổi của các hình thái kinh
tế - xã hội trong lịch sử. Nó chứng tỏ có một sức sống mạnh mẽ đã vượt qua
những thử thách để tồn tại và phát triển lâu dài. Trong nền kinh tế ở nước ta,
KTTN tồn tại chủ yếu dưới ba hình thức: Kinh tế cá thể, Kinh tế tiểu chủ và

Kinh tế tư bản tư nhân, tuy ranh giới không phải bao giờ cũng phân chia rạch
ròi giữa ba hình thức đó, nhất là giữa Kinh tế tiểu chủ và KTTN. KTTN là
một bộ phận hữu cơ của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng với thực tiễn mà Đảng và nhà nước ta đã tổng kết qua các kỳ Đại hội về
kinh tế tư nhân, quan niệm của một số nhà nghiên cứu, tác giả luận văn hoàn
toàn đồng ý với quan niệm của Đảng ta về nội hàm của kinh tế tư nhân và
hiểu: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân.
* Bản chất của kinh tế tư nhân
Khi nghiên cứu cơ sở lý luận về thành phần kinh tế cho thấy tiêu chí cơ
bản để xác định một thành phần kinh tế hay một loại hình tổ chức sản xuất,
kinh doanh thuộc về thành phần kinh tế nào chính là dựa trên quan hệ sản xuất
mà trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Do
vậy, khi nghiên cứu bản chất của kinh tế tư nhân phải xem xét trên ba mặt của
quan hệ sản xuất đó là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ về phân phối.
Thứ nhất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
Kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân đều dựa trên hình thức
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Song mỗi loại hình khác nhau lại có phạm
vi và mức độ khác nhau. Do đó, khi xem xét quan hệ sở hữu cần xuất phát từ
những hình thức cụ thể để phân tích và tiếp cận.
Đối với bộ phận kinh tế tiểu chủ về cơ bản cũng dựa trên sở hữu tư
nhân nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có sự thuê mướn sức lao động ngoài sức
17


lao động của người chủ.
Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình kinh tế được tổ chức qui mô, theo
hình thức như: doanh nghiệp, công ty, tập đoàn... hoạt động dựa trên cơ sở

sở hữu tư nhân về TLSX và thuê mướn lao động. Qui luật chi phối hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân là các qui luật kinh tế thị trường.
Kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tiểu chủ giống nhau ở chỗ: cùng thuê
mướn lao động, lao động làm thuê tạo ra một lượng giá trị thặng dư nhất
định cho người chủ. Như vậy, tiêu chí chung để xác định một ông chủ là tư
bản ở chỗ: họ có thuê mướn nhân công và bóc lột giá trị thặng dư do lao
động làm thuê tạo ra. Nhưng không phải bất cứ người nào thuê mướn lao
động cũng trở thành nhà tư bản. Sự phân biệt giữa nhà tư bản và người tiểu
chủ được thể hiện ở chỗ: khi người chủ còn trực tiếp tham gia lao động và
chưa phải là chủ của một số tiền nhất định đủ để:
- Mua các tư liệu sản xuất cần thiết.
- Thuê sức lao động để hoạt động sản xuất, kinh doanh và lợi nhuận họ
thu được phải đủ đảm bảo cho gia đình và bản thân họ có mức sống cao trong
xã hội; có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, thì họ vẫn là người tiểu chủ.
Như vậy, kinh tế tiểu chủ khác với kinh tế tư bản tư nhân ở chỗ: Người
chủ sở hữu tư liệu sản xuất vẫn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất. Bản
thân họ và các thành viên trong gia đình vẫn là lực lượng lao động chính trong
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số lao động làm thuê không nhiều và giá
trị thặng dư do lao động tạo ra ở mức độ nhất định. Quy mô vốn đầu tư thấp
hơn so với kinh tế tư bản tư nhân. Do đó, mặc dù có thuê lao động nhưng
nguồn thu nhập của kinh tế tiểu chủ vẫn chủ yếu dựa vào vốn và lao động của
bản thân và gia đình người chủ. Trong khi đó, kinh tế tư bản tư nhân có khả
năng phát triển, thu nhiều giá trị thặng dư và tạo điều kiện để tích luỹ tư bản.
Thứ hai, về quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ: Các thành viên trong gia đình có nghĩa
18


vụ phục tùng sự phân công, điều khiển của người chủ đối với các vấn đề sản
xuất, kinh doanh. Quan hệ giữa người chủ gia đình với các thành viên trong

gia đình không phải là quan hệ chủ thợ hay quan hệ bóc lột mà là quan hệ
mang tính chất gia trưởng. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, nhiều hộ cá thể, tiểu chủ do nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất đã thuê
nhân công. Như vậy, đã xuất hiện mầm mống bóc lột, nhưng chừng nào người
chủ vẫn trực tiếp tham gia lao động sản xuất, nguồn thu nhập chủ yếu vẫn dựa
vào lao động của họ và gia đình thì ranh giới giữa bóc lột và bị bóc lột vẫn
chưa được xác định rõ ràng.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân: quan hệ tổ chức và quản lý có điều khác
biệt, bởi một bên là ông chủ, còn bên kia là lao động làm thuê. Khi sức lao
động của người công nhân là hàng hoá thì phải đáp ứng yêu cầu của người
mua (người chủ). Vì vậy, công nhân phụ thuộc vào ông chủ, chịu sự quản lý,
kiểm soát của ông chủ. Sự phụ thuộc này không chỉ trong lĩnh vực sản xuất
mà cả trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân của người công nhân.
Thứ ba, về quan hệ phân phối
Quan hệ phân phối về thực chất là giải quyết mối quan hệ về lợi ích
kinh tế giữa các cá nhân tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất. Mục
đích của phân phối là phải đảm bảo được lợi ích của các chủ thể, nâng cao
được hiệu quả kinh doanh. Phân phối phải dựa trên quan hệ sở hữu về tư liệu
sản xuất và do quan hệ sở hữu quyết định.
Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ do dựa vào sức lao động của bản thân là
chủ yếu, nên sản phẩm và kết quả lao động chủ yếu thuộc về chính họ hay cá
nhân đó. Ở đây, quan hệ phân phối là sự tự phân phối trong nội bộ gia đình
của các hộ kinh doanh nhằm đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của các thành viên
trong gia đình.
Đối với các hộ tiểu chủ có thuê mướn nhân công thì phân phối kết quả

19


sản xuất còn căn cứ vào giá trị sức lao động của lao động làm thuê.

Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, nhận thức và quan niệm về phạm trù "bóc lột" trong
kinh tế tư bản tư nhân cần đầy đủ hơn ngoài tính chất tiêu cực của phạm trù bóc
lột. Cần bổ sung thêm tính chất tích cực của phạm trù "bóc lột" theo nghĩa
người bị bóc lột cũng có lợi. Nghĩa là người công nhân làm thuê trong bộ phận
kinh tế tư bản tư nhân cũng đem lại thu nhập và thông qua đó có thể trực tiếp
hay gián tiếp học tập được các kinh nghiệm tổ chức sản xuất, kinh doanh, kỹ
năng, trình độ tay nghề, có thể nói, đó là việc hy sinh lợi ích trước mắt nhỏ hơn,
vì lợi ích lâu dài lớn hơn trong tương lai.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Trong điều kiện hội nhập quốc tế như hiện nay, phát triển KTTN ở Việt
Nam có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, phát triển KTTN trong điều kiện tự do hoá tài chính, thương
mại diễn ra mạnh mẽ, thuận lợi cho trong việc thu hút các nguồn vốn.
Ngày nay, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu vực hội nhập
kinh tế, các hiệp định thương mại song phương, đa phương... đã từng bước xoá
bỏ những hàng rào ngăn cách các thị trường quốc gia, tạo ra những thị trường
rộng lớn chưa từng có đối với các doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp tư
nhân). Và quá trình này sẽ còn tiếp tục với xu hướng ngày càng rộng mở tiến
đến một thị trường thống nhất. Điều này đã tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển
mở rộng của các hoạt động thương mại, làm cho các dòng hàng hoá, dịch vụ
luân chuyển vòng quanh thế giới một cách dễ dàng và thuận lợi.
Song song với việc bãi bỏ các rào cản thương mại là quá trình toàn cầu
hoá tài chính diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển theo chiều sâu, sự bùng nổ và phát
triển của thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt các công cụ
mới trong thanh toán giao dịch. Việc bãi bỏ ngày càng tăng các biện pháp quản
20



lý vốn và sự tự do hoá trên thị trường tài chính, xu thế quốc tế hoá về thanh toán
không có điều chỉnh của nhà nước, việc bảo đảm an toàn trong chuyển đổi tiền
tệ, việc hình thành cộng đồng thành toán quốc tế… đã làm cho dòng vốn lưu
động tự do với tốc độ lớn, một mặt thúc đẩy thị trường tài chính toàn cầu phát
triển, mặt khác nó cũng làm gia tăng tính không ổn định của hệ thống tài chính
toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá tài chính sẽ thúc đẩy các luồng vốn ồ ạt đổ vào
các nước nơi mà chúng có thể tạo ra lợi nhuận. Điều này sẽ tạo điều kiện mới, cơ
hội mới cho các nền kinh tế mà chủ thể là các doanh nghiệp (trong đó có doanh
nghiệp tư nhân) có nhiều cơ hội hơn để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài cũng
như thuận lợi hơn trong giao dịch thương mại quốc tế. Bên cạnh những thời cơ
cũng như thuận lợi đó, khi mà các luồng vốn từ bên ngoài mà chủ yếu của tư
nhân ồ ạt đổ vào nền kinh tế quốc gia thì nó cũng có thể xảy ra chiều ngược lại
nếu như sức hấp thụ của nền kinh tế không thích ứng được với tổng lượng vốn
đổ vào. Các cuộc khủng hoảng tài chính ở châu Á, Nam Mỹ và Nga đã chứng
minh điều đó.
Thứ hai, phát triển KTTN trong điều kiện cách mạng khoa
học công nghệ của thế giới phát triển hết sức mạnh mẽ, các
doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp tư nhân) có thể tiếp
cận dễ dàng với những công nghệ mới và hiện đại.
Một trong những đặc điểm nổi bật của phát triển KTTN trong giai đoạn
hiện nay đó là KTTN đang phát triển trong giai đoạn mà cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đã chuyển lên một bước phát triển mới có tính chất cao trào và
được tăng tốc mạnh mẽ, trên cơ sở một cuộc cách mạng vi điện tử từ thập niên
60. Điểm nổi bật của giai đoạn hiện nay là khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, đảm nhận vai trò chỉ đạo và dẫn đường trong quá trình tổ chức lại về
căn bản công nghệ sản xuất, điều tiết các qui trình công nghệ với qui mô ngày
càng tăng, tổ chức lại tất cả các linh vực của đời sống xã hội trên cơ sở những
ngành công nghệ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như công nghệ thông
21



tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá trên cơ
sở công nghệ vi điện tử... Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ diễn ra
trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang trong quá trình hội nhập, liên kết, hợp
tác chặt chẽ giữa các nền kinh tế quốc gia trên toàn thế giới để đi đến một thị
trường chung thống nhất (trong đó có thị trường khoa học công nghệ). Điều này
đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ở mỗi quốc gia, trong đó có các doanh
nghiệp kinh tế tư nhân, có thể tiếp cận được các khoa học công nghệ mới và hiện
đại một cách nhanh chóng dễ dàng hơn, chủ yếu thông qua quá trình liên doanh
liên kết, hợp tác cùng phát triển. Một trong những biểu hiện của quá trình nay là
sự thâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài vào nền kinh tế của các quốc
gia. Đông thời với quá trình này là quá trình chuyển giao khoa học - công nghệ,
kinh nghiệm quản lý… Điều này đặc biệt có lợi cho sự phát triển của các quốc
gia kém và đang phát triển.
Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện thị trường đã và đang
được quốc tế hoá với tính cạnh tranh ngày càng cao.
Ngày nay, quá trình quốc tế hoá về kinh tế gắn liền với sự hình thành của
các thị trường liên quốc gia. Nền kinh tế thế giới càng phát triển thì nhu cầu về
thị trường nguyên liệu ngày càng trở nên quan trọng, phân công lao động ngày
càng sâu sắc, các bộ phận, các thị trường ngày càng gắn bó và phụ thuộc chặt
chẽ vào nhau. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo nên sự gắn kết giữa các
nền kinh tế quốc gia riêng rẽ trên cơ sở của một cơ chế thống nhất cho việc xử lý
các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường. Có thể nói rằng ngày nay nền
kinh tế thế giới thống nhất ở cơ chế vận hành: cơ chế thị trường. Đây chính là cơ
sở cho sự gia tăng xu thế liên kết giữa các thị trường quốc gia riêng rẽ, tiến tới
một thị trường chung rộng lớn và thống nhất. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
mở cửa thị trường này cùng với sự phát triển công nghiệp hoá ngày càng tăng
của phần lớn các quốc gia trên thế giới cũng là một nguyên nhân quan trọng tạo
ra sự gia tăng đáng kể các nhà cung cấp hàng hoá và dịch vụ trên thị trường thế
22



giới. Năng lực sản xuất trên toàn cầu tăng cao kết hợp với sự giảm thiểu của
những cản trở về mặt thị trường đã tạo ra cuộc cạnh tranh sâu sắc trên thị trường.
Phát triển trong điều kiện như vậy, các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân đang
đứng trước những cơ hội phát triển to lớn để tăng quy mô, mở rộng sản xuất
kinh doanh tiến ra thị trường thế giới. Nhưng đồng thời với quá trình mở cửa nền
kinh tế quốc gia thì các doanh nghiệp cũng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh
quyết liệt hơn trên thị trường do sự thâm nhập lẫn nhau của các nền kinh tế quốc
gia. Một sự đào thải khốc liệt sẽ diễn ra giữa các doanh nghiệp trên thị trường,
đây chính là một mặt khác tác động lên các doanh nghiệp của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, tạo nên sự sôi động của thị trường.
1.1.3. Các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân
* Kinh tế cá thể
Kinh tế cá thể gồm những đơn vị kinh tế và hoạt động sản xuất kinh
doanh dựa vào vốn và sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Đặc điểm của
thành phần kinh tế cá thể là dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, người
chủ kinh doanh tự quyết định từ quá trình sản xuất kinh doanh đến phân phối
tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động kinh tế cá thể mang tính tự chủ cao, tự tìm kiếm
nguồn lực, vốn, sức lao động. Thành phần kinh tế này rất nhạy bén trong kinh
doanh, dễ dàng chuyển đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu
của thị trường và nền kinh tế.
* Kinh tế tiểu chủ
Kinh tế tiểu chủ là những hộ kinh doanh cá thể, nhỏ, không đòi hỏi vốn
lớn, không đăng ký vốn pháp định, do vậy các hộ này không cần có mức vốn
cao hơn mức vốn pháp định như các doanh nghiệp tư nhân. Đây là loại hình có
tổ chức đơn giản, để bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc đăng ký
kinh doanh cũng rất đơn giản, chỉ cần UBND xã, UBND huyện cấp giấy phép
kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, các trang trại, các làng nghề hoặc các
hộ sản xuất, kinh doanh cũng có thể thuê mướn thêm lao động, ngoài số lao

23


động trong gia đình. Loại hình này gần đây phát triển rất nhanh, một phần vì nó
phù hợp với nhiều ngành nghề, một phần vì nó không cần lượng vốn lớn.
* Kinh tế tư bản tư nhân
Bao gồm các doanh nghiệp được hoạt động theo quy định của nhà nước,
mà ở đó không có vốn đầu tư của nhà nước và nước ngoài.
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh [26, tr.174]. Theo quy định của pháp luật, người muốn thành lập doanh
nghiệp tư nhân phải có một số vốn nhất định, số vốn này không được thấp hơn
số vốn quy định đối với từng ngành nghề kinh doanh. Trong quá trình hoạt
động có thể được thuê mướn lao động, kể cả thuê người khác quản lý, điều
hành doanh nghiệp.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: là loại hình doanh nghiệp trong đó, các
thành viên là tư nhân cùng góp vốn để thực hiện việc kinh doanh, cùng chia sẻ
lợi nhuận, cũng chịu lỗ theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp của mình.
Theo điều 38, Luật Doanh nghiệp (2005) quy định: Công ty trách nhiệm
hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó: thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số
lượng thành viên không quá 50 người, thành viên chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam
kết góp vào doanh nghiệp; phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển
nhượng theo quy định của luật [26, tr.48].
- Công ty cổ phần: theo điều 77 Luật Doanh nghiệp quy định “Công ty
cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần; cổ đông có thể là tổ chức hay cá nhân, số lượng cổ đông
tối thiểu là ba, không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn

đã góp vào doanh nghiệp; cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình
24


cho người khác theo luật định”; Đây là loại hình có tư cách pháp nhân và có
quyền huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán.
- Công ty hợp danh: Theo khoản 1, Điều 130 Luật doanh nghiệp thì công ty
hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là
thành viên hợp danh), ngoài các thành viên hợp danh còn có các thành viên góp
vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình về các nghĩa vụ của công ty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn đã góp vào công ty [26, tr.160].
Đây là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, kể từ ngày được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, song không được phép phát hành bất
kỳ loại chứng khoán nào.
1.2. Quan niệm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
1.2.1. Quan niệm phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội
Theo quan điểm biện chứng duy vật Mác xít, phát triển là sự vận động
theo khuynh hướng tiến bộ của sự vật, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn
thiện... Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là sự đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật; cách thức, trạng thái phát triển là
đi từ sự thay đổi dần dần về lượng dẫn đến biến đổi về chất sự vật... Với cách
tiếp cận đó, có thể quan niệm: Phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội là tổng thể các chủ trương, biện pháp của các chủ thể lãnh
đạo, quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội và các chủ thể KTTN trên địa bàn
Quận làm gia tăng cả về quy mô, số lượng, nâng cao chất lượng các yếu tố
cấu thành và biến đổi cơ cấu KTTN theo hướng ngày càng hoàn thiện, đóng

góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của quận Hà Đông.
Quan niệm trên thể hiện một số nội hàm sau:
Mục tiêu phát triển KTTN ở quận Hà Đông nhằm làm gia tăng cả về
25


quy mô, số lượng, trình độ, chất lượng các yếu tố cấu thành và hoàn thiện cơ
cấu KTTN, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Quận.
Chủ thể phát triển KTTN trên địa bàn Quận là Cấp ủy, chính quyền, các
tổ chức chính trị - xã hội, các chủ thể KTTN ở quận Hà Đông và các phường,
xã, cơ sở ở địa phương; các tổ chức cấp trên có vai trò gián tiếp tác động như
các cơ quan ở Trung ương và Thành phố Hà Nội... Trong đó, chủ thể trực tiếp
là các chủ thể nắm quyền sở hữu, quản lý các loại hình tổ chức KTTN trên địa
bàn Quận.
Phương thức phát triển KTTN ở quận Hà Đông là thúc đẩy sự phát
triển của KTTT, khuyến khích kinh tế nhiều thành phần phát triển trong môi
trường vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lành mạnh theo pháp luật; đồng thời cơ
quan quản lý nhà nước các cấp có những chính sách cụ thể, phù hợp để hỗ trợ,
điều tiết, định hướng sự phát triển KTTN theo mục tiêu nhất định.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế tư nhân ở quận Hà Đông, thành
phố Hà Nội
Để phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường, cần chú trọng
các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, gia tăng quy mô và số lượng các chủ thể KTTN.
Gia tăng quy mô trước hết là vốn - yếu tố đầu vào quyết định đối với sự
tăng trưởng phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Nước ta chuyển sang
nền kinh tế thị trường trong điều kiện hiện sức khó khăn, đặc biệt là khu vực
KTTN, sau một thời gian dài bị xã hội kỳ thị và phân biệt đối xử thì đến này mặc
dù KTTN đã có bước phát triển vượt bậc về số lượng nhưng đa phần đều là các
doanh nghiệp rất nhỏ, nhỏ và vừa với nguồn vốn kinh doanh nhỏ và thiếu. Hơn

nữa trong điều kiện ngày này khi mà nước ta đang đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế thì trong tương lai không xa các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung và các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN nói riêng sẽ phải đối mặt, cạnh
tranh với nhưng doanh nghiệp nước ngoài lớn với nguồn vốn khổng lồ. Chính vì
26


×