Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYÊN NGÀNH QUAN hệ dân tộc ở TỈNH ĐẮCKLẮC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.16 KB, 99 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Dân tộc thiểu số

DTTS

Nhà xuất bản

Nxb

Hệ thống chính trị

HTCT

Quan hệ dân tộc

QHDT


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1:

QUAN HỆ DÂN TỘC Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY 10



1.1.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Một số vấn đề lý luận về quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk

10

1.2.

hiện nay
Thực trạng quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay và
nguyên nhân.
MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

30

Chương 2:

TĂNG CƯỜNG QUAN HỆ DÂN TỘC TỐT ĐẸP
49

2.1.

Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY
Yêu cầu tăng cường quan hệ dân tộc tốt đẹp ở Đắk

49

2.2.


Lắk hiện nay
Giải pháp cơ bản tăng cường quan hệ dân tộc tốt đẹp
ở Đắk Lắk hiện nay

53
81
84
91

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc (QHDT) là vấn đề cơ bản và quan
trọng của mọi cuộc cách mạng; đồng thời luôn là một vấn đề nhạy cảm và phức
tạp. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội chỉ thành công và thành công đến nơi khi giải
quyết tốt vấn đề trên; chỉ khi nào mối QHDT được giải quyết một cách thỏa
đáng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa
thành công, tạo được sự bình đẳng, dân chủ, công bằng, cùng hướng tới những
giá trị tốt đẹp trên các mặt của đời sống xã hội giữa cộng đồng các tộc người
trong cùng một quốc gia, trên cùng một lãnh thổ nhất định thì khi ấy sự nghiệp
cách mạng dân tộc giải phóng và cách mạng xã hội chủ nghĩa mới thực sự có
giá trị và ý nghĩa.
Việt Nam là một quốc gia gồm 54 dân tộc. Cộng đồng các dân tộc Việt
Nam sống đan xen, đan cài trên địa bàn khắp cả nước. Song, vấn đề dân tộc

và giải quyết QHDT luôn trên tinh thần "lá lành đùm lá rách", "một con ngựa
đau cả tàu không ăn cỏ" đã trở thành truyền thống cực kỳ quý báu của "con
Lạc, cháu Hồng". Chính mối QHDT gắn bó keo sơn, chí nghĩa chí tình, đoàn
kết thủy chung, no đói có nhau, sướng khổ cùng nhau chia sẽ ấy đã giúp cho
dân tộc Việt Nam chiến thắng thiên tai, địch họa, không bị "đồng hóa" trước
sự xâm lược của các thế lực thù địch qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước
và giữ nước.
Phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc trong
lịch sử; củng cố những thành tựu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước ta đã có những chủ trương, giải pháp
thiết thực, đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và giải quyết có hiệu
quả mối QHDT trong điều kiện mới, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đưa

3


đất nước phát triển và hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng vào cộng đồng thế giới,
củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Là địa bàn chiến lược, trung tâm của khu vực Tây Nguyên, với 47 dân
tộc anh em sống đan xen, đến từ các vùng, miền khác nhau trên lãnh thổ Việt
Nam. Do đó, quan hệ dân tộc trên địa bàn Đắk Lắk nếu không được quan tâm
giải quyết tốt sẽ diễn ra hết sức phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh nói riêng
và cả nước nói chung. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề trên, những
năm qua, hệ thống chính trị ở Đắk Lắk đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
có hiệu quả việc củng cố và tăng cường QHDT tốt đẹp ở Đắk Lắk ngày càng
đi vào chiều sâu. Tuy nhiên, giữa các dân tộc địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay
đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ khó lường, rất
dễ dẫn đến mất đoàn kết, chia rẽ. Đó là những tồn tại, hạn chế trong thực hiện

chính sách dân tộc, chính sách xã hội của hệ thống chính trị; sự chênh lệch về
khoảng cách giàu nghèo giữa các dân tộc; mức hưởng thụ giá trị đời sống vật
chất, tinh thần; tình trạng dân di cư (nhất là di cư tự do) có xu hướng tăng làm
phá vỡ không gian văn hóa sinh tồn của đồng bào các dân tộc tại chỗ; trình độ
dân trí thấp cộng với tâm lý tự ti, trông chờ, ỷ lại của một bộ phận đồng bào
dân tộc thiểu số với các luật tục cổ hủ chi phối; các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân trên
địa bàn…
Vì vậy, giải quyết vấn đề dân tộc nói chung và QHDT nói riêng có ý nghĩa
vô cùng quan trọng và cấp bách hiện nay. Theo đó, nghiên cứu và làm rõ
QHDT ở Đắk Lắk hiện nay là việc làm cần thiết, không những khẳng định
tính đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện QHDT của Đảng, Nhà nước
ta, mà còn đánh giá một cách khách quan, toàn diện năng lực tổ chức thực
hiện và giải quyết QHDT ở Đắk Lắk, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, trên cơ
sở đó rút ra những kinh nghiệm, đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản làm căn

4


cứ khoa học cho việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa QHDT trên địa
bàn tỉnh trong những năm tới; góp phần xây dựng Đắk Lắk ngày càng giàu về
kinh tế, vững về chính trị, phát triển đời sống văn hóa tinh thần tốt đẹp, mạnh về
quốc phòng - an ninh, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích, bình đẳng trong
cộng đồng các dân tộc, tạo động lực to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài" Quan hệ dân tộc ở Đắk
Lắk hiện nay" làm Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Quan hệ dân tộc và giải quyết QHDT có tác động mạnh mẽ và sâu sắc
tới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa. Giải quyết mối quan hệ ấy không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước
mà còn là trách nhiệm của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong đó có sự
đóng góp của các nhà khoa học. Vì vậy trong những năm qua, cùng với các
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giải quyết QHDT,
đã có nhiều tác giả, nhiều công trình, đề tài quan tâm nghiên cứu, bàn luận,
đưa ra những nhận định, đánh giá, đề xuất phương hướng, giải pháp thiết
thực, khả thi về vấn đề này.
* Nhóm công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo:
Đề tài cấp bộ (1994 - 1995)“Xu hướng vận động của quan hệ dân tộc
khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối với Tây Nguyên” do
PTS Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm; GS, TS Phan Hữu Dật (2001) "Mấy
vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện
nay", Nxb CTQG, Hà Nội; PGS, TS Phạm Hảo (chủ biên), (2007) "Một số
giải pháp góp phần ổn định và phát triển ở Tây Nguyên hiện nay", Nxb
CTQG, Hà Nội; PGS,TS Trương Minh Dục (2005) "Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về dân tộc và QHDT ở Tây Nguyên", Nxb CTQG, Hà Nội và cuốn
sách chuyên khảo “Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây

5


Nguyên”, Nxb CTQG, Hà Nội; TS. Đậu Tuấn Nam (chủ biên), (2014)"Vấn đề
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay", Nxb CTQG - ST, Hà Nội.
Tác giả các công trình đã trình bày quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc, đoàn
kết dân tộc; phân tích tình hình dân tộc, QHDT và nhận định xu hướng phát
triển quan hệ dân tộc, sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hoá, tín ngưỡng - tôn giáo đến đời sống và quan hệ giữa các dân tộc, đến sự
ổn định chính trị ở nước ta và địa bàn Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới, từ đó
đề xuất một số phương hướng và giải pháp giải quyết vấn đề dân tộc, mối quan

hệ đoàn kết dân tộc hiện nay.
* Nhóm luận văn, luận án đã bảo vệ:
Luận án Tiến sĩ Triết học, Nguyễn Như Trúc (2006) "Vai trò của Quân
đội nhân dân Việt Nam trong công tác vận động đồng bào có tôn giáo ở Tây
Nguyên hiện nay", Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, đã chỉ ra những đặc
điểm, xác định vai trò của Quân đội trong công tác vận động đồng bào có tôn
giáo, phát hiện mâu thuẫn và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy
vai trò của Quân đội ta trong công tác vận động đồng bào có tôn giáo ở Tây
Nguyên hiện nay. Luận án Tiến sĩ Triết học, Nguyễn Sỹ Họa (2006) "Thực
hiện bình đẳng dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh",
Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, đã làm rõ và chỉ ra những vấn đề cấp
bách trong thực hiện bình đẳng dân tộc ở Tây Nguyên; đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt vấn đề này trên địa bàn.
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng của Nguyễn Anh Tuấn (2011) "Đảng bộ
tỉnh Bình Phước lãnh đạo công tác dân tộc từ năm 2000 đến năm 2010 ", Học
viện Chính trị, Hà Nội; Luận văn Thạc sĩ Triết học của Đào Hồng Đức (2012)
"Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc vào sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị, Hà Nội. Luận văn Thạc sĩ Chủ
nghĩa xã hội khoa học của Vũ Thư (2014) "Vai trò của HTCT cơ sở trong

6


thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ở tỉnh Lâm Đồng hiện
nay", Học viện Chính trị, Hà Nội. Các công trình trên tuy đi sâu nghiên cứu ở
các cấp độ khác nhau, song đều có điểm chung là làm rõ vai trò, tầm quan
trọng của công tác dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân ở địa phương và cả
nước; góp phần đề ra các yêu cầu, chủ trương, giải pháp, khẳng định tính
đúng đắn về quan điểm dân tộc, chính sách dân tộc và xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc của Đảng, Nhà nước.

* Nhóm các công trình nghiên cứu, bài báo viết về Đắk Lắk:
Công trình của tập thể tác giả Nguyễn Văn Tiệp (chủ biên), Bùi Minh
Đạo - Nguyễn Thị Thanh Vân (2011)"Một số vấn đề về kinh tế - xã hội và
quan hệ dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk", Nxb ĐHQG-HCM; Luận văn Thạc sĩ Triết
học của Trương Thanh Quảng (2010) "Xây dựng khối đoàn kết dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk Lắk hiện nay", Học viện Chính trị, Hà Nội.
Nguyễn Anh Tuấn (2009) "Vấn đề dân tộc và đấu tranh chống địch lợi dụng
vấn đề dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk", Tạp chí Cộng sản, số 13 (181)
năm 2009. Niê Thuật (2012) “Đắk Lắk phát triển kinh tế gắn với bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa các dân tộc trong bối cảnh hội nhập” Tạp chí Cộng
sản, số 831 (1-2012). Lê Xuân Hảo (2012) “Bảo tồn và phát triển văn hoá các
dân tộc tỉnh Đắk Lắk trong tình hình mới”, Tạp chí Tuyên giáo, số 1 - 2012.
Quang Huy (2014) có các bài “Đắk Lắk ổn định đời sống đồng bào di cư tự
do” Báo tin tức, ngày 13.5.2014 và “Nan giải bài toán di cư ở Đắk Lắk” Báo
tin tức, ngày 22.8.2014.
Các công trình nghiên cứu, bài viết đã khái quát những nét cơ bản về tình
hình địa bàn, các vấn đề ảnh hưởng đến QHDT và xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân ở Đắk Lắk; qua đó, đề xuất một số nội dung, giải pháp nhằm củng cố,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Đắk Lắk. Tuy nhiên, cho đến nay
vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, làm rõ quan niệm về QHDT, đặc
điểm QHDT và thực trạng QHDT ở Đắk Lắk hiện nay để có những giải pháp

7


thực sự thiết yếu, góp phần giải quyết QHDT trên địa bàn một cách cụ thể, có
chiều sâu và giá trị lâu dài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ
dân tộc, đề tài đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quan hệ

dân tộc tốt đẹp ở Đắk Lắk hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay, rút
ra nguyên nhân.
- Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường quan hệ dân
tộc tốt đẹp ở Đắk Lắk hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quan hệ giữa các dân tộc
thiểu số với dân tộc Kinh; quan hệ giữa các tộc người với cộng đồng dân tộc quốc gia ở Đắk Lắk hiện nay trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tài
liệu thu thập, đánh giá được tính từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về vấn đề dân tộc, QHDT và giải quyết mối quan hệ dân tộc; kế thừa
có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học có nội dung sát
với đề tài; đồng thời, thông qua các nhận định, đánh giá và hệ thống số liệu trong
các văn kiện, nghị quyết, báo cáo tổng kết của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Lắk, cùng các cơ quan, ban ngành có liên quan và kết quả điều tra, khảo sát
của tác giả.

8


Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn, với các phương pháp như: lôgíc - lịch sử, phân tích - tổng
hợp, so sánh - thống kê, điều tra xã hội học và xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

Đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân
dân tỉnh Đắk Lắk, cùng các cơ quan, ban ngành đề ra chủ trương, chính sách;
đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tăng cường QHDT tốt
đẹp ở Đắk Lắk hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy những nội dung có liên quan ở các học viện, nhà
trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

9


Chương 1
QUAN HỆ DÂN TỘC Ở ĐẮK LẮK HIỆN NAY - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận về quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay
1.1.1. Quan niệm về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
* Quan niệm về dân tộc
Theo Từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học: Dân tộc là một cộng đồng
vững chắc về mặt lịch sử của những con người, là hình thức phát triển xã hội
được hình thành trên cơ sở có chung đời sống kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ và
những đặc điểm về văn hóa, ý thức, tâm lý.
Hiện nay, ở Việt Nam, thuật ngữ dân tộc thường được hiểu theo hai
nghĩa: dân tộc - tộc người (ethnie) và dân tộc - quốc gia (nation).
Theo nghĩa thứ nhất (nghĩa hẹp), dân tộc là một cộng đồng người ổn
định hoặc tương đối ổn định, được hình thành trong những điều kiện lịch sử
nhất định, có chung nguồn gốc và những đặc điểm tương đối bền vững về
ngôn ngữ, văn hoá, tâm lý và ý thức tự giác dân tộc thông qua tự nhận tộc

danh (dân tộc Kinh, Tày, Ê Đê, Chăm...). Theo nghĩa này, dân tộc có những
đặc trưng cơ bản: các thành viên sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ)
để giao tiếp; có chung những đặc điểm sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá
tinh thần, tạo nên bản sắc của văn hoá dân tộc; có chung ý thức tự giác dân
tộc (sự tự ý thức về dân tộc mình từ nguồn gốc nhân chủng, ngôn ngữ, sắc
thái văn hoá đến tên gọi; ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của dân
tộc mình). Ý thức tự giác dân tộc trở thành đặc trưng quan trọng nhất để phân
định dân tộc này với dân tộc khác. Ngoài ra, “dân tộc” còn được dùng với
hàm nghĩa chỉ DTTS.
Theo nghĩa thứ hai (nghĩa rộng), dân tộc là một cộng đồng người cùng
chung sống trên một lãnh thổ, có chung một chế độ kinh tế, thể chế chính trị,
nền văn hoá, có một ngôn ngữ chung để giao tiếp và có chung đặc điểm tâm
lý dân tộc, tạo nên ý thức quốc gia - dân tộc. Trong đó, cùng chung một thể

10


chế kinh tế, chính trị - xã hội là đặc trưng quan trọng; cùng chung một nền
văn hoá là đặc trưng tạo nên bản sắc của mỗi dân tộc.
Từ cách tiếp cận trên, trong phạm vi của đề tài, tác giả chủ yếu tập trung
làm rõ quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay theo nghĩa dân tộc, tộc người.
Quan hệ theo Từ điển tiếng Việt: là trạng thái tác động lẫn nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các sự vật [52, tr. 990].
* Quan niệm về quan hệ dân tộc ở Việt Nam:
Theo PGS,TS Vương Xuân Tình, từ trước đến nay đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về QHDT. Tuy vậy, để đi đến một quan niệm cụ thể về
QHDT ở Việt Nam hiện nay là như thế nào thì vẫn còn nhiều điều phải bàn và
tiếp tục nghiên cứu. Song, quan hệ tộc người ở nước ta hiện nay chủ yếu là
quan hệ giữa toàn bộ các tộc người với quốc gia - Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; giữa tộc người đa số với các tộc người thiểu số; giữa các tộc người

thiểu số khác nhau trong và ngoài nước; quan hệ nội tộc người, bao gồm:
quan hệ nội tộc người trong nước và quan hệ với những người đồng tộc và
thân tộc ở nước ngoài.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu có thể hiểu: Quan hệ dân tộc ở Việt
Nam hiện nay là quan hệ giữa các tộc người với nhau; giữa các tộc người
với cộng đồng dân tộc - quốc gia trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau
cùng phát triển, tiến bộ giữa các tộc người, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ dân tộc:
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu
lên luận điểm nổi tiếng: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các
dân tộc cũng đồng thời mất theo” [36, tr. 624], một dân tộc đi áp bức một dân

11


tộc khác thì dân tộc ấy không có tự do . Như vậy, theo Mác - Ăngghen: trong
xã hội có giai cấp, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau, sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác là nguồn gốc áp
bức, bóc lột của dân tộc này với dân tộc khác. Do đó, giải quyết vấn đề dân
tộc phải luôn gắn với vấn đề giai cấp, chỉ có đấu tranh thủ tiêu giai cấp mới
xóa bỏ được nạn người bóc lột người và tình trạng áp bức dân tộc. Chỉ có điều
đó các dân tộc mới thực sự bình đẳng, mới có tự do thực sự và điều kiện phát
triển toàn diện, có sức mạnh để bảo vệ mình.
Kế thừa, bổ sung, phát triển tinh thần của C.Mác - Ph. Ăngghen về quan
hệ dân tộc, V.I. Lênin cho rằng, mọi nguồn cơn của xung đột và chiến tranh
đều do sự tranh giành quyền và lợi ích giữa các dân tộc. Vì vậy, chỉ có một sự

quan tâm lớn lao đến lợi ích của các dân tộc khác thì mới loại trừ được nguồn
gốc của mọi sự xung đột, mới trừ bỏ được lòng nghi ngờ lẫn nhau, mới trừ bỏ
được nguy cơ gây ra những mưu đồ nào đó, mới tạo ra được lòng tin. Theo đó,
V.I. Lênin đã chỉ ra những nội dung cơ bản mang tính chất cương lĩnh về vấn
đề dân tộc như sau:
Một là, các dân tộc đều có quyền bình đẳng: Bình đẳng là quyền của
mọi dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao
hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da. Quyền bình đẳng giữa các dân
tộc được bảo đảm trên tất các các lĩnh vực của đời sống - xã hội. Đây cũng là
cơ sở lý luận, phương pháp luận để giải quyết các QHDT trên thế giới, trong
các khu vực hay trong một quốc gia. Theo Lênin: Nguyên tắc bình đẳng hoàn
toàn gắn chặt với việc bảo đảm quyền lợi của các DTTS, bất cứ một thứ đặc
quyền nào dành riêng một cho dân tộc và bất cứ một sự vi phạm nào đến
quyền lợi của một DTTS, đều bị bác bỏ. Thực chất của bình đẳng dân tộc là
xóa bỏ nạn nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác, khắc phục sự chênh
lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc, để các dân tộc được tham gia bình
đẳng vào các hoạt động của cộng đồng quốc gia và quốc tế.

12


Hai là, các dân tộc đều có quyền tự quyết: Quyền tự quyết của các dân
tộc chính là quyền tự chủ đối vận mệnh và con đường phát triển của các dân
tộc, bao gồm: quyền tự quyết định về thể chế chính trị, kể cả quyền phân lập
về chính trị (vì mục đích chung của dân tộc - quốc gia và dân tộc - tộc người)
hoặc quyền tự nguyện liên hiệp lại thành khối liên minh các dân tộc trên cơ sở
bình đẳng, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích nhân dân lao động các dân tộc và vì
mục tiêu phát triển hòa bình, phồn thịnh, hữu nghị giữa các dân tộc.
Ba là, đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc: Thực chất của nội dung
này là đảm bảo sự thống nhất giữa phong trào công nhân với phong trào giải

phóng dân tộc, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, thực hiện liên minh giai
cấp công nhân các dân tộc chống kẻ thù chung, hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân ở các nước và trên thế giới.
Những luận điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận,
phương pháp luận trong giải quyết vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, đoàn kết,
tập hợp lực lượng cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và QHDT vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Người nhận định: chỉ có kết hợp
chặt chẽ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ với cuộc đấu tranh
giải phóng các giai cấp lao động bị áp bức, bóc lột, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người thì cách
mạng mới thành công và thành công đến nơi.
Để thực hiện được mục tiêu cao cả đó, Người đặc biệt quan tâm đến việc
xây dựng, tăng cường, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên
nền tảng liên minh công - nông - trí thức, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, tập hợp đông đảo

13


và rộng rãi các lực lượng cách mạng. Bởi, đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm
cho mọi thắng lợi và thành công của cách mạng.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiểu sâu
sắc về sức mạnh không gì có thể lay chuyển nổi trong mối quan hệ gắn bó
máu thịt, tình anh em, nghĩa đồng bào từ thuở bình minh “đẻ đất, đẻ nước” đã
giúp cho 54 dân tộc Việt Nam trải qua bao hoạn nạn, biến cố thẳng trầm của
lịch sử, vẫn đoàn kết thủy chung, một lòng giữ cho “non sông ngàn thuở vững

âu vàng”, trường tồn đến ngày nay mà không kẻ thù nào có thể đồng hóa. Vì
vậy, trong Thư gửi Đại hội các DTTS miền Nam (ngày 19/4/1946), Người
nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay Ê đê, Xơ
đăng hay Bana và các DTTS khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em
ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau...sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta
không bao giờ giảm bớt” [37, tr. 217]. Đánh giá cao vị trí, vai trò của đồng
bào các DTTS và miền núi trong sự nghiệp cách mạng, ngày 30/11/1968,
trong Điện gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên, Người viết: “Quân
và dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh hay Thượng đoàn kết một lòng,
luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ,
thi đua giết giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn,
cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Đồng bào và chiến sĩ
Tây Nguyên đã đoàn kết, càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không
ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn nêu cao cảnh giác,
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải
phóng và phục vụ tiền tuyến” [37, tr. 414 - 415].
Với Hồ Chí Minh, trong kháng chiến đã vậy, thì ngày nay, các dân tộc
anh em muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hóa của mình thì chúng ta phải tẩy
trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ
nhau như anh, em một nhà [38, tr. 496], đồng bào các dân tộc, không phân
biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ nhau, để cùng xây dựng Tổ quốc

14


chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc hạnh phúc, ấm
no [40, tr. 282]. Chống áp đặt, kỳ thị, phân biệt đối xử hay ban ơn trong quan
hệ dân tộc.
Những quan điểm, tư tưởng trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải quyết

vấn đề dân tộc giải phóng với vấn đề giai cấp, về sức mạnh của khối đại đoàn
kết toàn dân với sự nghiệp cách mạng, thực chất là giải quyết mối quan hệ
giữa các dân tộc trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục
tiêu cuối cùng của các quan điểm, tư tưởng ấy là nhằm bảo đảm quyền tự do,
bình đẳng, được tôn trọng và giúp nhau phát triển, tiến bộ, ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành và phát triển toàn diện giữa các dân tộc. Tư
tưởng về giải quyết vấn đề dân tộc và QHDT của Chủ tịch Hồ Chí Minh
chính là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta trong quá trình hoạch định các
chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội, vì một Việt Nam hùng
cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
* Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ dân tộc:
Ra đời với mục đích tôn chỉ vì nhân dân phục vụ, vì nhân dân mà chiến
đấu để đem lại hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào, lấy chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động của mình, trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đặt giải
quyết vấn đề dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, để giữ vững được
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng và Chính phủ luôn luôn
kêu gọi các dân tộc xóa bỏ xích mích do đế quốc và phong kiến gây ra, cùng
nhau đoàn kết chặt chẽ trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ [39, tr.
587] và tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với
sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng
kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc
thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các DTTS [24, tr. 81] là vô cùng quan

15


trọng. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải luôn đặt vấn đề quan hệ dân tộc và đoàn
kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa IX về Công tác dân tộc trong tình hình mới đã nêu lên những quan
điểm cơ bản về công tác dân tộc:
Một là, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
Ba là, phát triển toàn diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm
phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
DTTS, giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa DTTS trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi, trước hết tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa
đói giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi
đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự
lực tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ
trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.
Năm là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ
thống chính trị.
Ngày 14/1/2011, Chính phủ ra Nghị định số: 05/2011/NĐ - CP về Công
tác dân tộc, tiếp tục khẳng định nhất quán nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn

16


trọng, giúp nhau cùng phát triển. Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển
toàn diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào

DTTS. Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.
Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau, góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết dân tộc có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng
tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số, tăng cường kiểm tra, giám
sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” [24, tr. 244 - 245].
Những vấn đề có tính nguyên tắc trong quan hệ dân tộc ở nước ta hiện
nay là phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phải bảo đảm đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi,
lâu dài trên cơ sở thống nhất về lợi ích căn bản giữa cộng đồng các dân tộc;
quan hệ bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát
triển và tiến bộ; tôn trọng bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán riêng của các
dân tộc; kiên quyết chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi.
Qua các vấn đề trên, giúp chúng ta có cái nhìn khách quan, toàn diện, cụ
thể hơn về quan điểm và chính sách giải quyết vấn đề QHDT của Đảng, Nhà
nước. Nội dung, mục tiêu cốt lõi của các chủ trương, chính sách ấy là nhằm
bảo đảm quyền bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội giữa các dân tộc. Hay nói cách khác, các chủ trương,

17



chính sách của Đảng, Nhà nước đều nhằm củng cố, tăng cường mối quan hệ tốt
đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam ngày càng bền vững và phát triển.
1.1.2. Quan niệm và nội dung xem xét, phân tích, đánh giá quan hệ
dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay
* Vài nét về tỉnh Đắk Lắk hiện nay
Về điều kiện địa lý và dân số: Đắk Lắk nằm ở trung tâm Tây Nguyên,
đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong
khoảng tọa độ địa lý từ 107028'57" đến 108059'37" kinh độ Đông và từ
1209'45" đến 13025'06" vĩ độ Bắc, diện tích 13.125,37 km 2, với độ cao trung
bình 400 - 800 mét so với mặt nước biển, nằm cách Hà Nội 1.410 km và cách
Thành phố Hồ Chí Minh 350 km; phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Đông giáp
Phú Yên và Khánh Hoà, phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông, phía Tây
giáp Cămpuchia. Do đó, Đắk Lắk có điều kiện thuận lợi để giao lưu với các đô
thị lớn trong vùng và ngoài nước. Địa hình Đắk Lắk có đặc trưng nổi bật là sự
tồn tại mờ nhạt của vùng trũng giữa núi và sự hiện diện đậm nét của cao
nguyên, bình nguyên bên cạnh các sơn khối nhỏ và tương đối bằng phẳng. Khí
hậu thuộc loại nhiệt đới ẩm gió mùa, nhưng do bị chắn bởi gờ Trường Sơn
Nam nên ảnh hưởng của gió mùa không đậm nét. Một năm chia thành hai mùa
rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến thắng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3.
Trên địa bàn tỉnh có 8 nhóm đất chính, nhưng lấy độ phì nhiêu làm tiêu chí thì
có ba nhóm đất chính: đất banzan, đất phù sa và đất mùn xám. Rừng là nguồn
tài nguyên quan trọng, đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của con người, với hệ động
thực vật phong phú và đa dạng. Đất, rừng là nguồn tài nguyên vô giá cho phát
triển kinh tế, nhất là kinh tế lâm nghiệp và nông nghiệp [42, tr. 17 - 18].
Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm 13 huyện, 01 thành
phố và 01 thị xã),184 xã, phường, thị trấn; 2.470 buôn, thôn, tổ dân phố; trong
đó có 608 buôn đồng bào DTTS tại chỗ [64, tr. 1].
Dân số toàn tỉnh hiện có hơn 1,8 triệu người, phân bố không đều trên địa
bàn các huyện, tập trung chủ yếu ở thành phố Buôn Ma Thuột, thị trấn, huyện


18


lỵ, ven các trục Quốc lộ 14, 26, 27 chạy qua, như: Krông Búk, Krông Pắk, Ea
Kar, Krông Ana. Các huyện có mật độ dân số thấp chủ yếu là các huyện đặc
biệt khó khăn như Ea Súp, Buôn Đôn, Lắk, Krông Bông, M’Đrắk, Ea H’leo…
Trên địa bàn tỉnh, ngoài các DTTS tại chỗ còn có số đông khác dân di cư từ
các tỉnh phía Bắc và miền Trung đến sinh cơ lập nghiệp. Trong những năm
gần đây, dân số của Đắk Lắk có biến động do tăng cơ học, chủ yếu là di dân
tự do, điều này đã gây nên sức ép lớn cho tỉnh về giải quyết đất ở, đất sản
xuất và các vấn đề đời sống xã hội, an ninh trật tự và môi trường sinh thái.
Về kinh tế - xã hội : Là một tỉnh có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế
nông nghiệp và lâm nghiệp. Trước đây, đặc trưng kinh tế của Đắk Lắk chủ yếu
là nương rẫy trên nền đất đỏ bazan gắn với săn bắn, hái lượm, chủ yếu phụ
thuộc vào rừng, mang đậm tính tự cung, tự cấp; trình độ sản xuất thấp, lao động
chân tay là chủ yếu, với các công cụ thô sơ, canh tác lạc hậu, chất lượng, hiệu
quả không cao. Ngày nay, nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản
xuất, nền kinh tế của Đắk Lắk đang chuyển dần theo hướng sản xuất hàng hóa;
phương thức canh tác của đồng bào các dân tộc có tuy có chuyển biến theo
hướng gắn với thị trường, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, vẫn mang nặng tính
truyền thống, dẫn đến vẫn còn tình trạng một bộ phận không nhỏ đời sống nhân
dân các DTTS còn thiếu đói quanh năm. Hiện nay, cơ cấu kinh tế của tỉnh (theo
giá hiện hành): nông - lâm - ngư nghiệp ước đạt 45,7%; công nghiệp - xây
dựng 16,7%; dịch vụ 37,6%. Thu nhập bình quân đầu người theo giá thực tế là
27,68 triệu đồng [67, tr. 2].
Về chính trị: Trong lịch sử và trong hiện tại, Đắk Lắk luôn được xác
định là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của khu vực Tây Nguyên
và là địa bàn trọng yếu, chiến lược của cách mạng nước ta. Là một tỉnh đa dân
tộc và đa tôn giáo, điều nay, đã tác động không nhỏ đến tình hình chính trị ở
Đắk Lắk. Từ sau giải phóng, tình hình chính trị trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk diễn

ra hết sức phức tạp, với nhiều hoạt động chống phá của các thế lực thù địch,
làm cho QHDT trên địa bàn tỉnh thêm căng thẳng và tiềm ẩn những nguy cơ

19


khó lường, điển hình là các cuộc bạo loạn, biểu tình diễn ra năm 2001, 2004.
Tuy nhiên hiện nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, linh hoạt, kịp thời
của Đảng và Nhà nước, cùng với tinh thần chủ động, sáng tạo của hệ thống
chính trị (HTCT) ở Đắk Lắk, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của cộng
đồng các dân tộc trong và ngoài tỉnh, nên tình hình chính trị ở đây luôn ổn
định, kinh tế - xã hội phát triển, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, mối
QHDT tốt đẹp ngày càng phát triển, gắn bó bền vững.
Về cơ cấu dân tộc: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc
cùng sinh sống, tổng số DTTS gồm có 130.743 hộ, với 626.304 khẩu, trong
đó cơ cấu thành phần DTTS tập trung phần lớn là dân tộc Ê đê, gồm: 58.966
hộ, 319.833 khẩu; dân tộc M’nông: 9.781 hộ, 43.849 khẩu; dân tộc Gia Rai:
970 hộ, 13.361 khẩu; Chăm: 45 hộ, 174 khẩu; Cơ Ho: 35 hộ, 158 khẩu; Ba
Na: 60 hộ, 276 khẩu; H’rê: 32 hộ, 167 khẩu; Vân Kiều: 764 hộ, 3.732 khẩu;
Xơ Đăng: 812 hộ, 4.562 khẩu; dân tộc thiểu khác: 45.601 hộ, 204.186 khẩu…
Trong 47 dân tộc anh em thì đồng bào các DTTS có trên 33% dân số
(riêng đồng bào DTTS tại chỗ có 24%), sống xen ghép ở tất cả 184 xã,
phường, thị trấn trong tỉnh [65, tr. 1]. Ngoài ra, còn có các dân tộc nhập cư
khác, như: người Xơ Đăng, Bahnar,... (phía Bắc Tây Nguyên); Xtiêng, Mạ,
K’ho,… (Nam Tây Nguyên) và các dân tộc phía Bắc, như: Tày, Nùng, Dao,
Thái, H’mông…
Về văn hóa - xã hội: Là tỉnh đa dân tộc, mỗi dân tộc có những nét đẹp văn
hoá riêng, đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Ê Đê, M'Nông, Gia
Rai,… với những lễ hội cồng chiêng, đâm trâu, đua voi mùa xuân; kiến trúc nhà
sàn, nhà rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như cồng chiêng, đàn đá, đàn

T'rưng; các bản trường ca Tây Nguyên,... là những sản phẩm văn hoá vật thể và
phi vật thể quý giá, trong đó “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã
được tổ chức UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi
vật thể của nhân loại. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo
nên sự đa dạng, phong phú về bản sắc văn hóa của Đắk Lắk.

20


Một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn hoá truyền thống các dân tộc
bản địa Tây Nguyên là chế độ mẫu hệ. Trong gia đình của một số tộc người
Tây Nguyên xưa người có quyền lực cao nhất là phụ nữ. Trước kia cũng như
bây giờ, vai trò của người phụ nữ được thể hiện chủ yếu trong gia đình, còn vai
trò của người đàn ông là ở ngoài xã hội, không ai lấn lướt ai. Vì vậy, giữ gìn
truyền thống này không những không gây ảnh hưởng gì cho xã hội mà còn giữ
lại một nét văn hoá cổ truyền độc đáo, thể hiện quan niệm truyền thống coi
trọng người phụ nữ của các dân tộc nơi đây.
Trong nhiều năm qua, đồng bào các dân tộc ở Đắk Lắk luôn đoàn kết, gắn
bó, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết Trung ương, như: xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; “Phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, qua đó, đã củng cố, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết,
chống lại âm mưu "Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
* Quan niệm quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay
Quan nghiên cứu, làm rõ các vấn đề về quan hệ dân tộc nói chung, từ đối
tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài, có thể thấy: Quan hệ dân tộc ở Đắk
Lắk hiện nay là quan hệ giữa các tộc người với nhau; quan hệ giữa các tộc
người với cộng đồng dân tộc - quốc gia trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội bảo đảm sự bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển, tiến bộ giữa các tộc người, đặt dưới sự lãnh đạo của

Đảng, quản lý của Nhà nước và hệ thống chính trị các cấp ở Đắk Lắk.
Thực chất quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay là đưa các tộc người xích lại
gần nhau, cố kết bền chặt, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, vì mục tiêu chung của cả cộng đồng và mục tiêu riêng của từng dân
tộc; bảo đảm quyền bình đẳng, tôn trọng, thương yêu, giúp nhau cùng phát triển
toàn diện, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi mặt; làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, xây dựng Đắk Lắk xứng
đáng là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của Tây Nguyên và cả nước.

21


Cơ sở của QHDT ở Đắk Lắk hiện nay dựa trên là sự thống nhất về những
lợi ích cơ bản được thể hiện trong mục tiêu chung. Đây được coi là mẫu số
chung để gắn kết các tộc người, các thành phần và lực lượng xã hội trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn Đắk Lắk.
Chủ thể quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay do mục đích quan hệ chi
phối, hơn nữa các dân tộc ở Đắk Lắk sống xen kẽ, đan cài vào nhau, không có
ranh giới thật rõ ràng, không có “thánh địa riêng” cho mỗi dân tộc. Vì vậy, chủ
thể quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay chủ yếu thông qua các dòng tộc, dòng
họ, giữa các gia đình, những người có uy tín, những người cùng tín ngưỡng
hoặc không cùng tín ngưỡng, giữa các dân tộc với nhau... Đây là lực lượng
nòng cốt trong giải quyết QHDT ở Đắk Lắk. Tuy nhiên, để củng cố, tăng
cường QHDT tốt đẹp ở Đắk Lắk phải dựa vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước, các bộ, ban, ngành từ trung ương đến địa phương, HTCT các
cấp, sự phối hợp của các lực lượng vũ trang đóng quân trên địa bàn và đồng
bào các dân tộc hiện đang sinh sống và cư trú ở Đắk Lắk.
Nội dung quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, mà trọng tâm là trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh trong nội bộ các dân tộc ở Đắk Lắk.

Quan hệ về chính trị ở Đắk Lắk là các dân tộc đều có quyền liên hiệp với
nhau và với các tầng lớp, lực lượng trên địa bàn, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, quản lý của Nhà nước và hệ thống chính trị ở Đắk Lắk;
các dân tộc đều bình đẳng trước pháp luật và được phát luật bảo vệ, có nghĩa
vụ, trách nhiệm và quyền hạn như nhau trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
quyền dân chủ, được tham gia và hoạt động trong các tổ chức chính trị, xã hội;
được phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Thực chất của QHDT về
chính trị ở Đắk Lắk hiện nay là thể hiện quyền dân chủ, bình đẳng, tôn trọng,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc, không dân tộc nào được coi
thường, kỳ thị, chia rẽ dân tộc nào; các dân tộc bên nhau đoàn kết vì một Đắk
Lắk ổn định và phát triển bền vững, vì một Việt Nam hòa bình và thịnh vượng.

22


Quan hệ về kinh tế ở Đắk Lắk hiện nay diễn ra trong quá trình mưu sinh,
cải thiện cuộc sống, trao đổi hàng hóa giữa tộc người này với tộc người khác;
quá trình hợp tác, giúp nhau phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần giữa tộc người có trình độ sản xuất cao với tộc người có trình độ sản
xuất thấp; các dân tộc đều tham gia vào quá trình sản xuất, cung ứng sản
phẩm, dịch vụ, tạo nên mối liên hệ, liên kết trong sản xuất và tiêu dùng, góp
phần thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển, nhân dân các dân tộc trong tỉnh có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Quan hệ về văn hóa ở Đắk Lắk hiện nay là quá trình giao lưu, tiếp biến văn
hóa giữa các dòng tộc, tộc người với nhau; là sự tôn trọng phong tục, tập quán, tự
do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng của mỗi tộc người mà không trái với thuần
phong mĩ tục, định hướng phát triển văn hóa của Đảng, Nhà nước ta; các dân tộc
có quyền được tự do sáng tạo những giá trị văn hóa tinh thần, vật chất tốt đẹp;
những giá trị đặc sắc văn hóa của mỗi dân tộc phải được bảo tồn và phát huy; các
dân tộc đều có quyền được nâng cao dân trí, được tiếp xúc, hưởng thụ những giá

trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, có quyền quảng bá những giá trị văn hóa tốt
đẹp, tích cực của dân tộc mình với các dân tộc khác trong và ngoài nước; không
dân tộc nào có quyền áp đặt văn hóa của mình cho dân tộc khác hoặc phủ nhận
những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc khác.
Quan hệ về xã hội ở Đắk Lắk hiện nay là quan hệ giữa các dòng tộc, trong
từng dân tộc; giữa các dân tộc với nhau; giữa các tộc người có cùng tín ngưỡng
tôn giáo hoặc giữa các tộc người không cùng tín ngưỡng, tôn giáo được quy
định bởi các luật tục và tuân theo Hiếp pháp và pháp luật của Nhà nước ta.
Quan hệ về quốc phòng - an ninh ở Đắk Lắk hiện nay được khẳng định
cụ thể trong mọi hoạt động, hành vi đều cùng nhau đoàn kết, tham gia vào
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các dân tộc đều có nghĩa vụ, trách
nhiệm và quyền hạn như nhau trong thực hiện nghĩa vụ quân sự, xây dựng
thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc; giúp

23


nhau nâng cao nhận thức, xóa đói giảm nghèo, tránh sự lôi kéo và nêu cao
tinh thần cảnh giác, kịp thời phát hiện, làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ, phá
hoại mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc của các thế lực thù địch.
Hình thức, biện pháp quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay diễn ra hết
sức đa dạng, phong phú và phức tạp giữa các DTTS tại chỗ với nhau; giữa các
DTTS tại chỗ với dân tộc Kinh (Việt); giữa các DTTS tại chỗ với các DTTS
khác; giữa cộng đồng các dân tộc tại đây (nhất là DTTS) với cộng đồng các
tộc người ở bên ngoài; giữa cộng đồng các dân tộc cùng tín ngưỡng với nhau;
giữa các dân tộc cùng tín ngưỡng với các dân tộc không cùng tín ngưỡng
thông qua hoạt động lãnh đạo của HTCT các cấp, diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực đời sống, xã hội; quan hệ nội tộc, giao lưu trên các mặt của đời sống, xã
hội giữa các tộc người có cùng tín ngưỡng, văn hóa hoặc không cùng tín
ngưỡng, văn hóa với nhau; quan hệ hôn nhân giữa tộc người này với tộc

người khác trên cùng địa bàn hoặc địa vực cư trú khác nhau của tỉnh; giúp
nhau nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo; cùng nhau đoàn kết đấu tranh với
âm mưu của các thế lực thù địch; qua các hoạt động chính trị xã hội, vì mục
tiêu chung xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
* Nội dung xem xét, phân tích, đánh giá quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện
nay
Một là, nhận thức, trách nhiệm quán triệt của các chủ thể quan hệ dân
tộc, giải quyết quan hệ dân tộc thông qua nội dung triển khai, thực hiện chính
sách dân tộc, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở Đắk Lắk hiện nay
Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến kết quả quan hệ dân tộc ở Đắk
Lắk trong giai đoạn hiện nay. Thực chất là đánh giá nhận thức, trách nhiệm của
các chủ thể (Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa
phương và đồng bào các dân tộc ở Đắk Lắk), trực tiếp là HTCT và đồng bào
các dân tộc ở Đắk Lắk trong việc quán triệt, vận dụng, thực hiện chính sách
dân tộc và công tác dân tộc của Đảng, Nhà nước ta vào hoạch định hệ thống
chủ trương, chính sách, nhất là những chính sách ưu tiên, tạo điều kiện đối với

24


đồng bào các DTTS. Vì chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là
đúng, nhưng nếu quán triệt, thực hiện không đúng, không thiết thực sẽ tạo nên
sự hoài nghi, giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính
quyền địa phương, tạo kẻ hở để các thế lực thù địch chống phá, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân. Suy cho cùng mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta đều hướng đến mục tiêu: thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc trên thực tế.
Trên cơ sở hệ thống chính sách chung phải vận dụng để đề ra những chính
sách cụ thể cho từng vùng, từng địa phương. Nghĩa là, chính sách phải phù hợp
với đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hoá, dân tộc và con người Tây Nguyên nói

chung và Đắk Lắk nói riêng; đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng và phù
hợp với tâm lý của đồng bào; phát huy được tiềm năng, thế mạnh của vùng và
giải quyết những vấn đề bức xúc đặt ra đối với đồng bào DTTS. Đồng thời,
phải đánh giá mức độ tạo cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội cho đồng bào các
DTTS của hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, kết quả bảo đảm và thực hiện quyền dân chủ, bình đẳng của các
dân tộc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội ở Đắk Lắk hiện nay
Đây là vấn đề cốt lõi trong đánh giá quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay.
Theo đó, đánh giá quan hệ dân tộc ở Đắk Lắk hiện nay phải khảo sát về đời
sống mọi mặt của đồng bào các dân tộc ở đây, nhất là đồng bào các DTTS.
Trên cơ sở đó, đánh giá mức độ chênh lệch trên các mặt của đời sống xã hội
giữa các dân tộc. Về kinh tế: đánh giá sự chuyển đổi về phương thức sản xuất
của đồng bào DTTS, về tình trạng sử dụng đất, rừng, khai thác tài nguyên,
khoáng sản; đưa các yếu tố của sản xuất hàng hoá đến đồng bào; chất lượng
và năng suất lao động; sự chuyển biến tích cực về mức sống và thu nhập… Về
chính trị: đánh giá việc thực hiện và phát huy quyền dân chủ, bình đẳng, tỷ lệ
tham chính, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên là người DTTS trong hệ
thống chính trị các cấp... Về văn hoá: đánh giá quyền tự do sáng tạo và mức
độ thụ hưởng giá trị văn hoá vật chất, tinh thần, trình độ dân trí, giữ gìn

25


×