Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện bình giang, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.57 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN HỮU KHIỂN

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trình bầy trong luận văn là trung thực và chưa từng được công
bố trong bất cứ công trình nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin
trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng./.

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Tuấn




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH .................................................................................8
1.1. Một số khái niệm liên quan ..........................................................................8
1.2. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cải cách hành chính ................................15
1.3. Tổ chức thực hiện chính sách CCHC .........................................................17
1.4. Trách nhiệm của các chủ thể trong thực hiện chính sách CCHC ...............22
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách CCHC .....................24
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG ...................................26
2.1. Kết quả thực hiện chương trình cải cách hành chính huyện Bình Giang,
tỉnh Hải Dương giai đoạn 2011-2015 ................................................................26
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách cải cách hành chính ...................41
2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách CCHC từ thực tiễn huyện Bình
Giang, tỉnh Hải Dương ......................................................................................48
Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH..................................................................................................................53
3.1. Quan điểm và định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ thực hiện chính sách cải
cách hành chính giai đoạn 2016-2020 ...............................................................53
3.2. Giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính ..................................60
3.3. Đề xuất, kiến nghị .......................................................................................66
KẾT LUẬN ..............................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................71


DANH MỤC VIẾT TẮT
CCHC


Cải cách hành chính

CB,CC

Cán bộ, công chức

CNTT

Công nghệ thông tin

HCNN

Hành chính nhà nước

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân



Quyết định

NQ

Nghị quyết


TTg

Thủ tướng

CP

Chính phủ

TTHC

Thủ tục hành chính

GS.TS

Giáo sư.Tiến sỹ

NV

Nhiệm vụ


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Biểu 2.1: Kết quả thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông
Biểu 2.3: Bảng thống kê phân loại CBCC
Biểu 2.3: Bảng thống kê mức độ ứng dụng CNTT
Biểu 2.4: Chỉ số CCHC của huyện Bình Giang năm 2015

30-31

33
37-38
41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, việc thực
hiện Chính sách cải cách hành chính được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm.
Việc nghiên cứu đề tài thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn được
thể hiện qua một số lý do sau:
Một là, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay. Cả các
nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như một
động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt
khác của đời sống xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Đảng ta đã xác định đường lối
và chủ trương về cải cách, trong đó luôn coi cải cách hành chính (CCHC) là một nội
dung quan trọng nhằm phát triển đất nước. Thể chế hóa đường lối và chủ trương của
Đảng, các cơ quan Nhà nước đã xây dựng và ban hành nhiều chương trình và kế
hoạch để thực hiện CCHC, trong đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về Chương
trình tổng thể CCHC giai đoạn 2001 – 2010 và chương trình tiếp tục đẩy mạnh
CCHC nhà nước giai đoạn 2011 – 2020 (Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11
năm 2011).
Tuy nhiên nền HCNN còn nhiều hạn chế yếu kém, hệ thống Thể chế, pháp
luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN vẫn còn bất cập. Chức
năng nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính vẫn còn chưa rõ ràng,
trùng lặp vẫn chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước. Bộ máy còn cồng
kềnh chưa phù hợp, chất lượng đội ngũ CBCC vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của đất nước.
Một trong nội dung quan trọng của cải cách thể chế hành chính đó là cải cách

TTHC, muốn CCHC thì TTHC phải được đơn giản hóa một cách tối đa, tránh rườm
rà. Để đáp ứng yêu cầu đó Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 về việc ban hành quy chế thực hiện cơ chế “Một

1


cửa” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đây được coi như là giải pháp
mang tính đột phá trong việc cải cách TTHC.
Hai là, từ thực tiễn công tác trong bộ máy nhà nước tại UBND huyện Bình
Giang từ năm 2001 đến nay, tôi nhận thấy việc thực hiện chính sách CCHC ở huyện
Bình Giang vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm, giải quyết; theo báo cáo đánh giá
chỉ số cải cách hành chính của tỉnh Hải Dương năm 2015, huyện Bình Giang là
huyện xếp thứ 10/12 huyện thị xã, thành phố về cải cách hành chính. Do vậy, trong
luận văn này tôi xin được đề cập đến các nội dung về thực hiện chính sách CCHC
từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Bình Giang nằm ở phía Tây Nam cửa ngõ thành phố Hải Dương là một trong
12 huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh Hải Dương, có vị trí địa lý chiến lược quan
trọng của tỉnh Hải Dương và khu vực đồng bằng Bắc Bộ; có giao thông thuỷ, bộ
khá thuận lợi. Bình Giang có nhiều tuyến Quốc lộ, đường tỉnh chạy qua như: Quốc
lộ 5A, quốc lộ 38, đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng; đường tỉnh 392, 394,
395. Tổng diện tích tự nhiên là 104,72km2 . Dân số là 106.230 (số liệu điều tra dân
số 01/04/2009). Huyện Bình Giang và 06 xã: Thái Học, Tráng Liệt, Cổ Bì, Long
Xuyên, Hùng Thắng, Bình Xuyên và 01 cá nhân đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng
danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”; Huyện Bình Giang có
17 xã và 1 thị trấn. Thị trấn Kẻ Sặt được hình thành từ cuối thế kỷ XIX, là trung tâm
thương mại - dịch vụ lớn trong tỉnh, có mối quan hệ giao lưu, buôn bán rộng khắp
trong và ngoài nước. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng,
sự quản lý, điều hành có hiệu quả của các cấp chính quyền, sự nỗ lực, cố gắng của
các tầng lớp nhân dân, trong những năm qua huyện đã đạt được nhiều thành tựu

quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa xã hội đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đều hoàn
thành tốt. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh, mặt tích cực thì huyện Bình Giang cũng còn
có những khó khăn, hạn chế nhất định đó là: huyện có diện tích hành chính nhỏ nhất

2


trong tỉnh, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn do được tái
lập từ huyện Cẩm Bình (tháng 4/1997); chất lượng đội ngũ CB, CC cấp huyện, cấp
xã chưa thật sự đảm bảo yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính.v.v.
Ba là, từ thực tế trên cần thiết phải nghiên cứu một cách thấu đáo cả về lý
luận và thực tiễn để tìm ra các giải pháp hữu hiệu. Song vấn đề là phải tiến hành
những bước đi như thế nào để bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước từ huyện
đến các xã, thị trấn thực hiện tốt chính sách cải cách thủ tục hành chính một cách
khoa học nhất, là vấn đề bức thiết đang đặt ra đối với Đảng bộ, Chính quyền và
nhân dân huyện Bình Giang.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó học viên lựa chọn nội dung: "Thực hiện
chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương"
để làm đề tài luận văn thạc sĩ trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng thực hiện
chính sách cải các hành chính của huyện Bình Giang từ đó tìm ra những nguyên
nhân và đề xuất những giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011 - 2020 đã xác định cải cách hành chính là một trong 3 khâu đột
phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ đề cải cách hành chính đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở

nhiều khía cạnh khác nhau, có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu như sau:
- GS.TS Nguyễn Hữu Khiển “Tìm hiểu về hành chính nhà nước”, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, Hà Nội 1999 và Nhà xuất bản lao động Hà Nội, 2003;
- Phạm Văn Hùng – Nguyễn Hữu Khiển “Hành chính nhà nước”, Nhà xuất
bản Đại học sư phạm TP HCM, 2006;
- “Các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận và giải quyết công việc
cho dân của các cơ quan nhà nước trong quá trình cải cách hành chính”, Chủ biên:
PGS.TSKH Nguyễn Văn Thâm;

3


- Phạm Minh Hùng “Kết quả thực hiện chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn 2011-2020 và phương hướng đẩy mạnh CCHC nhà nước trong thời
gian tới”, Bộ Nội vụ 2015;
- Vũ Viết Thịnh “Cải cách hành chính với sự phát triển bền vững”, Bộ Nội
vụ năm 2014;
- TS Hà Quang Trường “Cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 20112015”, Tạp trí cộng sản năm 2015;
- GS.TSKH Nguyễn Văn Thâm “Cải cách hành chính ở Việt Nam: Thành
tựu và các rào cản hiện nay”;
- PGS.TS Đỗ Phú Hải (2012) Đề tài cấp cơ sở: Quy trình Chính sách công tại
Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn.
- PGS.TS Đỗ Phú Hải (2014): “Khái niệm Chính sách công” tại Tạp chí lý
luận chính trị (số 2).
- PGS-TS Văn Tất Thu “Những vấn đề lý luận chung về xây dựng và thực
hiện chính sách công”;
- Luận văn thạc sỹ “Cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động của UBND
quận 5, TP Hồ Chí Minh”, Vương Hoàng Tuấn, Học viện hành chính quốc gia,
2000;
- Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động chính quyền cơ sở qua

thực tiễn ở tỉnh Vĩnh Long”, Trần Thị Khiêm, Học viện hành chính quốc gia, 2005;
- Luận văn thạc sỹ “Cải cách hành chính trên địa bàn huyện Sóc Sơn, TP Hà
Nội giai đoạn 2011-2020”, Lê Thị Hồng Giang, Học viện Hành chính, 2012;
- Luận văn thạc sỹ “Đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước tỉnh Hòa Bình
giai đoạn 2011-2020”, Lê Thị Bình Minh, Học viện Hành chính, 2013;
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn trong việc cải cách hành chính. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay
chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào đề cập đến thực hiện chính sách cải cách hành
chính của huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Vì vậy học viên đã mạnh dạn lựa chọn
nghiên cứu việc thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Bình Giang

4


nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục thực hiện tốt chính sách cải cách hành chính huyện Bình
Giang, tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực
tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương” là nhằm khái quát lý luận về thực hiện
chính sách cải cách hành chính nói chung và thực trạng thực hiện chính sách cải
cách hành chính của huyện Bình Giang từ đó đưa ra những giải pháp nhằm thực
hiện tốt chính sách cải cách hành chính ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nói
riêng và cả nước nói chung.
Học viên lấy nghiên cứu này làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ chuyên ngành
Chính sách công.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích nghiên cứu đề tài xác định phải giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Một là, hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính

sách cải cách hành chính.
- Hai là, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách cải cách hành chính
tại các cơ quan hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2015 ở huyện Bình Giang.
- Ba là, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thực hiện chính sách cải cách
hành chính ở huyện Bình Giang trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện chính sách cải cách hành
chính từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, tại một số chủ thể như:
UBND huyện, các cơ quan chuyên môn và UBND các xã, thị trấn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2011-2015

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận nghiên cứu chính sách công đa ngành, liên
ngành khoa học xã hội và áp dụng các phương pháp nghiên cứu chính sách công từ
lý luận đến thực tiễn. Các quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ
hoạch định đến xây dựng, thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của
các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của
chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành CCHC.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp, thống
kê và so sánh được sử dụng để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các
nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu. Bao gồm các văn kiện, Nghị quyết
của Đảng, Nhà nước, các bộ ngành, các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo

thống kê của chính quyền liên quan đến vấn đề thực hiện chính sách CCHC tại nước
ta nói chung và thực tế huyện Bình Giang nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa của luận văn
6.1.Ý nghĩa lý luận
- Đề tài vận dụng, bổ sung lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ vấn đề
khoa học và thực tiễn của một chính sách cụ thể: Chính sách cải cách hành chính.
- Cung cấp những nghiên cứu, tư liệu, khảo sát thực tế tại huyện Bình Giang
từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng hiệu quả chính sách đã ban hành, góp phần
làm phong phú thêm hệ thống lý luận khoa học chính sách công.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc phân tích hệ thống chính sách công hiện nay và thực tiễn áp dụng của
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ
bản về hoàn thiện chính sách công liên quan đến cải cách hành chính huyện Bình Giang,
đồng thời đề xuất những nội dung cụ thể giúp các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương
và địa phương trong việc nghiên cứu, hoạch định, hoàn thiện chính sách và giúp địa
phương tổ chức thực hiện chính sách cải cách hành chính một cách có hiệu quả.

6


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục các
bảng, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được bố cục theo 3 chương như sau.
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách cải cách hành chính.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách cải cách hành chính từ thực tiễn
huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp thực hiện chính sách cải cách hành chính.

7



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm chính sách
Hiện nay, thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo, các
phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều có những
chính sách của mình. Có chính sách của doanh nghiệp, chính sách của đảng chính
trị, chính sách của một quốc gia, tổ chức, chính sách của một liên minh các nước hoặc
tổ chức quốc tế…Cho đến nay, mặc dù đã có rất nhiều nghiên cứu về chính sách và có
nhiều cách tiếp cận khác nhau về chính sách nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về khái
niệm chính sách. Trên thế giới, có thể kể đến một số khái niệm về chính sách như:
“Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ
thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” (James Anderson) hay “Chính
sách là quyết tâm và định hướng. Chính sách định hướng nhưng không bao gồm các
chương trình và chi tiết hành động” (Glen Milne)…Tại Việt Nam, Từ điển bách khoa
Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc
cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó”.
Theo điểm 1, điều 2, Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật: “Chính sách là định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết
vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được Mục tiêu nhất định”.
Như vậy, có thể đưa ra cách hiểu Chính sách là chương trình hành động do
các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm
vi thẩm quyền của mình. Các tổ chức, các doanh nghiệp, các đoàn thể đều có thể đề
ra những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vi một tổ chức, doanh nghiệp
hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi


8


tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó vì vậy chúng mang tính
chất riêng biệt và được coi là những “chính sách tư”. Tuy nhiên, mặc dù được sử
dụng rộng rãi (chính sách bán hàng, chính sách đào tạo nhân viên, chính sách cạnh
tranh…), nhưng “chính sách tư” hầu như không được đề cập đến và được nghiên
cứu với tư cách là một ngành khoa học.
1.1.2. Khái niệm chính sách công
Trên thế giới và ở Việt Nam có rất nhiều quan niệm về chính sách công. Có
thể nêu ra một số quan niệm sau:
Chính sách công: là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978); “Chính
sách công là tất cả những gì Nhà nước chọn làm hoặc không làm”; Như vậy,
William Jenkin cho rằng chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào
đó mà là một tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một
khoảng thời gian dài, chủ thể ban hành chính sách công phải là các cơ quan nhà
nước và chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của
nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã chọn. Thomas R. Dye
lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn về chính sách công, song lại được nhiều học
giả tán thành. Theo ông, “chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay
không làm”. Định nghĩa này của Thomas R. Dye không bàn luận về “mục tiêu” hay
“mục đích” của chính sách, đồng thời định nghĩa của Dye cũng thừa nhận rằng các
chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm
cũng có thể quan trọng như việc quyết định làm và chính sách là cái chính phủ làm
hoặc không làm chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.
Theo Peter Aucoin “chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ
tiến hành”. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng biệt của
chính phủ vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng. B. Guy Peter đưa ra định

nghĩa “chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực
tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. Định nghĩa này tiếp cận ở góc

9


độ tác động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là một
cộng đồng. Theo (Kraft and Furlong, 2004) định nghĩa: Chính sách công là một quá
trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công
cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp
thuận một cách chính thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức
năng thực hiện những chương trình
Ở nước ta cũng có một số tác giả nghiên cứu về chính sách công, đã đưa ra
các định nghĩa chính sách công như: PGS.TS Lê Chi Mai (Học viện Hành chính
Quốc gia) đưa ra khái niệm chính sách công với các nội hàm sau:
+ Chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước, chính sách do Nhà nước
ban hành nên chính sách công có thể coi là chính sách của Nhà nước.
+ Chính sách công là những quyết định hành động, bao gồm cả những hành
vi thực tiễn, chính sách công không chỉ thể hiện dự định của Nhà nước hoạch định
chính sách về một vấn đề nào đó mà còn bao gồm những hành vi thực hiện dự định
đó. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì
những chủ trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thôi.
+ Chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề trong đời sống kinh tế- xã
hội theo những mục tiêu xác định.
Trong giáo trình “Hoạch định và phân tích chính sách công” của Học viện
Hành chính Quốc gia xuất bản năm 2013 cũng đưa ra định nghĩa chính sách công:
“Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát
sinh trong đời sống cộng đồng được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”[T20]
Theo tác giả Nguyễn Hữu Hải (2010 - HV Hành chính Quốc gia) định nghĩa

“Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát
sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau,
nhằm thúc đẩy xã hội phát triển”;

10


Nguyễn Thị Như Mai, (2010 – Văn phòng Chính phủ) định nghĩa: “Chính
sách công là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định,
dựa vào đường lối chính trị chung và thực tế mà đề ra”.
Trong sách “Những vấn đề cơ bản về quyền lực nhà nước, cải cách chế độ
công vụ và đánh giá chính sách công” – dùng cho thi nâng ngạch chuyên viên chính
lên chuyên viên cao cấp đưa ra khái niệm chính sách công: “Chính sách công là kết
quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng tập hợp các quyết định có liên
quan đến nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết
những vấn đề công trong xã hội” [T127]
PGS. TS Đỗ Phú Hải (Học viện Khoa học xã hội) đưa ra khái niệm chính
sách công: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải pháp thực hiện
giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”
Các khái niệm định nghĩa nêu trên có sự khác nhau trong chừng mực nhất
định, nhưng đều có chung các nội dung nội hàm sau:
+ Chính sách công là chính sách của Nhà nước.
+ Là một tập hợp các quyết định chính trị có mối liên hệ với nhau.
+ Với những mục tiêu và giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề xã hội
theo ý chí của đảng cầm quyền.
1.1.3. Khái niệm cải cách hành chính
- Thuật ngữ “Hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “administratio” là quản lý,
lãnh đạo. Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về thuật ngữ này,
tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Tuy có nhiều cách tiếp cận,

nhưng đặc điểm cơ bản của hành chính xuất phát từ việc trong bất kỳ xã hội nào
cũng cần có sự phân công lao động, cần tới sự xác lập những tỉ lệ giữa các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy, hành chính theo nghĩa chung là quản lý
công việc, là quản lý xã hội; theo nghĩa riêng, hẹp hơn là công việc nhà nước và tổ
chức quản lý nhà nước. Về cơ bản, hành chính là tổng thể những hoạt động (thao
tác) nhất định do con người, chủ thể quản lý thực hiện đối với khách thể quản lý

11


nhằm cải tạo khách thể, bảo đảm cho nó vận động tới một mục tiêu đã định. Hành
chính chính là hoạt động quản lý của con người để tạo ra sự vận hành mang tính hệ
thống của xã hội.
Tóm lại có thể hiểu: Hành chính là hoạt động chấp hành và điều hành trong
quản lý một hệ thống theo những quy định trước nhằm đạt mục tiêu của hệ thống.
+ Thuật ngữ "cải cách" được sử dụng phổ biến trong ngôn ngữ phương Tây
và phương Đông, được hiểu là một quá trình, một hoạt động có ý thức, có mục đích
làm thay đổi, cải biến những cái cũ theo hướng tốt hơn hoặc thay thế cái cũ bằng cái
mới. Cải cách có thể diễn ra ở những cấp độ, mức độ khác nhau. Có những hoạt
động cải cách có tính chất cách mạng, có những cuộc cải cách chỉ là sự thay đổi ít
nhiều so với ban đầu. Cải cách là thay đổi những bộ phận cũ không hợp lý cho
thành mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình khách quan. Cải cách bao gồm tập hợp
của nhiều cải tiến, sáng kiến, biến đổi. Cải cách còn được xem là một biện pháp giải
quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và yêu
cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định. Với ý nghĩa đó, cải cách hiện diện
trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Căn cứ vào quan niệm về cải cách và hành chính đã làm rõ ở trên thì cải cách
hành chính chính là hoạt động có ý thức và mục đích của con người nhằm hợp lý
hóa, hay khắc phục các khiếm khuyết trong các chương trình điều hành, quản lý các
hệ thống. Như vậy, CCHC là hoạt động cải tạo, nâng cấp, hoàn thiện công tác quản

lý cho tất cả các hệ thống trong xã hội. Song do hành chính gắn chủ yếu với hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các thể chế chính trị nên khái niệm CCHC thường
được coi là đồng nhất với khái niệm CCHC nhà nước.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về cải cách hành chính, nhưng tựu chung lại,
cải cách hành chính không thuần tuý là sự cải biến mà là cuộc cách mạng có chủ
thuyết chính trị và có kế hoạch, do Đảng cầm quyền khởi xướng và lãnh đạo nhằm
“xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,
hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có

12


phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước”. Cái đích của cải cách hành chính là xây dựng một nền hành chính gần dân,
vì dân, đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của người lao động. Nền hành chính gần
dân là nền hành chính không có mục đích tự thân, mà chỉ có mục đích phục vụ dân,
giữ gìn trật tự, kỷ cương của xã hội, của chế độ. Thông qua đó, nền hành chính tác
động tích cực đối với đời sống kinh tế và đời sống xã hội.
1.1.4. Khái niệm chính sách cải cách hành chính
Qua các nghiên cứu, phân tích khái niệm có liên quan ở trên, tác giả luận văn
cho rằng: “Chính sách cải cách hành chính là một tập hợp các quyết định chính trị
có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể và giải
pháp công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề hành chính theo mục tiêu tổng thể
đã được xác định của Đảng cộng sản Việt Nam”.
1.1.5. Nhận thức về thực hiện chính sách công
PGS.TS Văn Tất Thu định nghĩa “Thực hiện chính sách công là toàn bộ quá
trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực, là bước đặc biệt
quan trọng trong chu trình chính sách: hiện thực hóa chính sách, đưa chính sách
vào cuộc sống”.

Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ
quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng
quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết
nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định
được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính
sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được thực hiện sẽ trở
thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy
tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà nước). Nếu chính
sách không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của
nhân dân đối với nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về mặt chính trị và xã hội,
gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản lý. Qua thực hiện
mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay không. Quá

13


trình thực hiện với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
Đồng thời, việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt, xấu) chỉ có cơ sở
đầy đủ, sức thuyết phục sau khi được thực hiện. Thực tiễn là chân lý, kết quả thực
hiện chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan chất
lượng và hiệu quả của chính sách. Việc đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống là
một quá trình phức tạp đầy biến động, chịu sự tác động của nhiều yếu tố giúp các
nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách có kinh nghiệm để đề ra được các
giải pháp hữu hiệu trong thực hiện chính sách. Tổ chức thực hiện chính sách có vị
trí đặc biệt quan trọng, là bước hiện thực hóa chính sách vào đời sống xã hội.
Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách công phụ thuộc vào năng lực của
đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách. Nói cách khác, năng lực thực hiện
chính sách của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách quyết định chất lượng,
hiệu quả của việc thực hiện chính sách. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả, chất lượng

thực hiện chính sách công cần phải có các giải pháp đồng bộ nâng cao năng lực
thực hiện chính sách của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách.
Năng lực, khả năng làm việc của CBCC được hội tụ bởi ba yếu tố là: kiến
thức, kỹ năng và thái độ của CBCC trong thực thi công vụ. Kiến thức là sự hiểu
biết, là những thông tin hữu ích công chức cần hiểu và ghi nhớ để phục vụ tốt cho
công việc. Kỹ năng là khả năng chuyển kiến thức thành hành động để kết quả đạt
được như mong muốn. Thái độ là ý thức, thái độ đối với công việc và trong các mối
quan hệ với con người. Nói một cách ngắn gọn, năng lực là khả năng làm việc tốt
nhờ phẩm chất và trình độ chuyên môn.
Trong quá trình thực hiện chính sách sẽ có liên quan đến nhiều tổ chức, cá
nhân vì thế kết quả tổ chức thực hiện chính sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố trong đó có yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, yếu tố chủ quan là
quan trọng hơn cả vì nó quyết định sự thành bại của chính sách, vì trong yếu tố này
nó có các nhân tố quan trọng như nhân sự và sự ủng hộ của người dân là hai nhân tố
cần cho việc thực hiện chính sách công.

14


1.2. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cải cách hành chính
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương
về chính sách cải cách hành chính và luôn xác định cải cách hành chính là một khâu
quan trọng để phát triển đất nước. Các cơ quan nhà nước đã xây dựng và tổ chức
thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch về cải cách hành chính theo các chủ trương,
nghị quyết của Đảng, nhất là chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011-2020 với quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản sau:
1.2.1. Quan điểm chính sách cải cách hành chính
- Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới
hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách bộ máy nhà
nước nói chung.

- Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho cá
nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng.
- Thông qua cải cách, tiếp tục làm rõ và phù hợp chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ và phù hợp,
phân định rõ trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đô thị và
chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành chính.
- Xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
- Cải cách phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng dụng có
hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
1.2.2. Mục tiêu cải cách hành chính
a) Mục tiêu chung
Đến năm 2020 xây dựng được một nền hành chính trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh
nghiệp và xã hội.

15


“Trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 10 năm tới là: Cải cách thể
chế; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, chú trọng
cải cách chính sách tiền lương nhằm tạo động lực thực sự để cán bộ, công chức,
viên chức thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả cao; nâng cao chất lượng dịch
vụ hành chính và chất lượng dịch vụ công”.
b) Mục tiêu cụ thể
- Chức năng của các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác định phù
hợp, không còn sự chồng chéo, trùng lắp, chuyển những việc không nhất thiết phải
do cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính

phủ đảm nhận;
- Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý, theo nguyên tắc bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực;
- Chính quyền địa phương các cấp được tổ chức hợp lý, phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn;
- Thủ tục hành chính liên quan tới cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản
theo hướng đơn giản;
- Phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước được tiếp tục đổi
mới theo hướng hiệu quả;
- Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công
được triển khai trên diện rộng, chất lượng dịch vụ công được nâng cao;
- Thực hiện cơ cấu công chức theo vị trí việc làm, khắc phục xong về cơ bản
tình trạng công chức cấp xã không đạt tiêu chuẩn theo chức danh;
- Đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức được cải cách cơ bản, bảo
đảm cuộc sống của cán bộ, công chức và gia đình;
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước.
1.2.3. Yêu cầu cải cách hành chính
Một là, CCHC phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế

16


quốc tế; phát huy dân chủ trong đời sống xã hội; huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực và sự tham gia của mọi người dân vào tiến trình phát triển của đất nước.
Hai là, CCHC nói chung, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, phải bảo
đảm tạo thuận lợi nhất cho người dân, doanh nghiệp và góp phần tích cực chống
quan liêu, phòng và chống tham nhũng, lãng phí.
Ba là, xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng,

nhiệm vụ, phân định rạch ròi trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp chính
quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người
đứng đầu cơ quan hành chính; hoạt động có kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước.
Bốn là, CCHC phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận
tuỵ phục vụ nhân dân.
Năm là, CCHC phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng
dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin.
1.3. Tổ chức thực hiện chính sách CCHC
1.3.1. Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện chính sách CCHC
Có một số phương pháp tiếp cận khi thực hiện chính sách CCHC trong đó
phương pháp tiếp cận “từ trên xuống” là truyền thống và phổ biến nhất để thực hiện
một chính sách. Đảm bảo được tính thống nhất khi ban hành chính sách, đảm bảo
được triển khai nhanh gọn và tránh được sự chồng chéo khi thực hiện chính sách.
Chính phủ ban hành chương trình tổng thể về CCHC, từ đó các Bộ và UBND
cấp tỉnh thực hiện; tỉnh chỉ đạo xuống cấp huyện và huyện chỉ đạo xuống cấp xã.
Đảm bảo sự thống nhất về văn bản từ trên xuống. Nhưng cũng có khó khăn về mục
tiêu thực hiện và nguồn lực KT-XH cũng khác nhau giữa các tỉnh.
Phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” có thể khắc phục được một số nhược
điểm của “từ trên xuống”, bởi các cấp cơ sở mới là đơn vị thực thi và áp dụng thực
tế về CCHC. Đây là khu vực tiếp xúc với nhân dân, các công ty, doanh nghiệp, tổ

17


chức nhiều nhất. Hiện nay theo đánh giá của nhân dân, các công ty, doanh nghiệp,
tổ chức là vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
Với cấp Bộ, có Bộ Nội vụ là chịu trách nhiệm chính về Cải cách hành chính,

nhưng các Bộ khác cũng có vị trí rất quan trọng trong thực hiện chính sách CCHC;
Như vậy, thể hiện CCHC là lĩnh vực rất quan trọng, có liên quan đến nhiều Bộ,
ngành khác nhau. Trên thực tế đã được các Bộ triển khai rất sớm nhưng kết quả thu
được chưa được như yêu cầu đã đạt ra.
Ở cấp địa phương là nơi thực thi chủ yếu, đã có sự đầu tư cả về con người và
cơ sở vật chất để đáp ứng được tình hình, nhưng sự thay đổi về văn bản như: Bộ thủ
TTHC có giảm có tăng, gây khó khăn cho CBCC và người dân trong quá trình giao
dịch TTHC. Các TTHC vẫn phải theo khuôn khổ, chưa có sự linh hoạt gây sự
không thỏa mái cho người dân, một phần do trình độ nhận thức của một bộ người
dân còn chưa cao, vẫn quen với cơ chế trước đây. Đặc biệt là với các địa phương
miền núi, hải đảo nơi có điều kiện tự nhiên khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, cơ
sở hạ tầng yếu kém và trình độ của cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác CCHC
có trình độ hạn chế.
1.3.2. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách CCHC
Để đưa chính sách CCHC đi vào thực tế cuộc sống cần phải xây dựng Kế
hoạch triển khai thực hiện. Đây là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng trong tổ chức thực
hiện chính sách CCHC. Hiệu quả thực hiện chính sách CCHC chính phụ thuộc vào
tính chính xác, tính khả thi của bản kế hoạch thực hiện chính sách.
CCHC được Chính phủ ban hành nhiều văn bản, có từng giai đoạn cụ thể, vì
vậy các kế hoạch CCHC cũng phải bám sát theo lộ trình và từng giai đoạn cụ thể để
thực hiện hiệu quả nhất.
Kế hoạch CCHC của các giai đoạn khác nhau nhưng vẫn có những nội dung
chủ yếu sau: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ
máy; Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức; Cải cách tài
chính công; Hiện đại hóa nền hành chính.

18


Các Kế hoạch tổ chức thực hiện có nêu các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm

cụ thể, chế độ báo cáo, kinh phí tổ chức thực hiện. Các đơn vị, cơ quan thực hiện
giao nhiệm vụ cụ thể đến từng CBCC trong cơ quan mình. Có cơ chế khen thưởng
những tập thể, cá nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ và hình thức kỷ luật với những cơ
quan, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Việc lập kế hoạch tốt làm cho
việc thực thi dễ dàng, hiệu quả, khả thi để đạt kết quả tốt nhất.
1.3.3. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách CCHC
Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách CCHC của Đảng và Chính phủ
đề ra là một nội dung hoạt động quan trọng trong thực hiện chính sách CCHC. Việc
phổ biến, tuyên truyền CCHC giúp cán bộ, công chức làm nhiệm vụ CCHC nắm
được tổng thể chương trình CCHC, với nhân dân sẽ năm bắt được những ưu điểm
và điểm mới của CCHC qua từng giai đoạn thực tế.
Các biện pháp hiệu quả về phổ biến và tuyên truyền về thực hiện CCHC đó
là tuyên truyền trên hệ thống thông tin đại chúng. Với những chính sách cải cách
mới được tuyên truyền trên hệ thống truyền hình, mạng Internet, hệ thống Báo chí,
các Băng Zôn, khẩu hiệu … sẽ là cách nhanh nhất và hiệu quả nhất đến với nhân
dân. Chi bộ Đảng, các ban ngành đoàn thể tổ chức chính trị xã hội như: Thanh niên,
Nông dân, Phụ nữ, Cựu chiến binh tuyên truyền đến từng thành viên của mình. Đặc
biệt là tại cơ quan có Bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ kết quả TTHC được trang bị
hiện đại, đáp ứng được yêu cầu thực tế và tuyên truyền đến nhân dân sẽ tạo được ấn
tượng tốt.
1.3.4. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách CCHC
Trong tổ chức và thực hiện chính sách CCHC thì phối hợp thực hiện chính
sách có ý nghĩa quan trọng tác động đến hiệu quả thực hiện chính sách. Để tổ chức
thực hiện chính sách có hiệu quả cần phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan, các ngành, các cấp. Đó là việc phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ
chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện chính sách; xác định tổ chức, cá nhân
chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các tổ chức cá nhân tham gia phối hợp trong quá
trình thực hiện chính sách.

19



Đối với CCHC không chỉ là nhiệm vụ của mình Bộ Nội vụ mà còn liên quan
nhiều đến các bộ như: Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và đầu tư, Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch, Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ thông
tin và truyền thông, Bộ Y tế, Bộ khoa học công nghệ và 63 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Đặc biệt cần có sự giúp đỡ, phối hợp của các tổ chức (trong nước
và ngoài nước), đơn vị, tập thể và cá nhân tham gia vào CCHC nói chung và giao
dịch giải quyết TTHC nói riêng.
1.3.5. Duy trì chính sách CCHC
Duy trì thực hiện chính sách CCHC là làm cho chính sách tồn tại và phát
huy được tác dụng, hiệu quả trên thực tế như mong muốn của các nhà làm chính
sách. Tuy nhiên trên thực tế, trong quá trình thực thi, áp dụng có những tồn tại,
hạn chế khó tránh khỏi như: chưa tạo lập được một hệ thống thể chế đồng bộ,
đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế. Chất lượng các văn bản luật còn nhiều hạn chế, từ quy trình xây dựng,
ban hành đến áp dụng.
Vì vậy, từng giai đoạn cải cách hành chính khi triển khai cần có sự thống
nhất cao giữa các bộ, ngành và các địa phương. Cải cách hành chính là một bộ phận
để đánh giá, chấm điểm của các địa phương nên cũng cần sự quan tâm hơn nữa của
các đồng chí lãnh đạo của từng địa phương.
Với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi gặp khó khăn khi giao dịch và thực
hiện các TTHC, thấy sự rườm rà, không tạo điều kiện của cán bộ công chức cũng
nên phải có ý kiến đóng góp để các thủ tục được điều chỉnh, bổ sung, thay đổi theo
hướng đơn giản hóa và giảm bớt TTHC.
1.3.6. Điều chỉnh chính sách cải cách hành chính
Điều chỉnh chính sách CCHC là một hoạt động cần thiết và diễn ra thường
xuyên trong tiến trình tổ chức, thực hiện chính sách CCHC nhằm mục đích phù hợp
với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế của đất nước.
Theo nguyên tắc và quy định thì các cơ quan nào ban hành chính sách thì

được quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách. Trên thực tế việc điều chỉnh cơ chế và

20


×