Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Thực trạng chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và những giải pháp quản lý sử dụng đất bền vững huyện tiên du tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.98 KB, 127 trang )

1. MỞ ĐẦU

1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố khu dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Việc sử dụng hợp lý đất đai để đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao
và đảm bảo sự phát triển bền vững là một trong những mối quan tâm hàng
đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Điều 18, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất
quản lý theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, có
hiệu quả”
Trải qua hai mươi năm tiến hành công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những kết quả to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định.
Kinh tế càng phát triển, quá trình công nghiệp hoá nông thôn được đẩy
mạnh góp phần làm cho đời sống của người dân từng bước được cải thiện.
Mặt khác, dưới áp lực của sự gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế nông
thôn, nhu cầu của người dân ngày càng nâng cao. Từ đó, xuất hiện nhu cầu
chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo xu thế từ đất nông nghiệp sang đất phi
nông nghiệp.
Quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ khắp cả nước, sự phát triển các
khu công nghiệp trong thời gian qua đã góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhất là đối với các

1


tỉnh thuần nông. Tuy nhiên việc ưu tiên thu hút đầu tư để phát triển các khu


công nghiệp đã tạo nên sự mất cân đối trong phát triển kinh tế xã hội nông
thôn, nhất là đối với những vùng đất chật người đông như đồng bằng sông
Hồng. Một số diện tích đất phù sa màu mỡ chuyên trồng lúa đã phải chuyển
sang sử dụng làm mặt bằng sản xuất công nghiệp trong khi có thể sử dụng
diện tích ở những vị trí khác hợp lý hơn. Người nông dân có đất bị thu hồi
chưa được giúp đỡ trong việc sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ vào việc đầu tư
phát triển sản xuất nên đời sống gặp khó khăn và không ổn định. Bên cạnh đó,
hoạt động của nhiều khu công nghiệp chưa chấp hành nghiêm Luật Môi
trường, vi phạm các cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường. Từ
đó dẫn đến tài nguyên đất bị suy thoái, môi trường bị ô nhiễm, đời sống người
nông dân trong vùng phát triển công nghiệp còn bấp bênh, ngay cả trong vùng
nông nghiệp thì việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng mang tính tự
phát không theo quy hoạch... Nhiều văn bản pháp luật quan trọng về quản lý,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã không được đáp ứng
kịp thời nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn.
Tất cả những vấn đề đó đe doạ tính bền vững trong quá trình phát triển.
Huyện Tiên Du nằm ở phía Bắc tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm tỉnh
5km về phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 25 km về phía Bắc. Tiên Du là một
huyện đồng bằng, đất đai màu mỡ, hệ thống thuỷ lợi tương đối hoàn chỉnh
thuận lợi cho việc phát triển vùng chuyên canh lúa chất lượng cao. Huyện
Tiên Du có cơ cấu ngành nghề đa dạng, mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu
kinh tế mạnh, do có vị trí địa lý thuận lợi. Nhờ vậy huyện có khả năng mở
rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư, khai thác lợi thế nguồn nhân lực để phát
triển sản xuất hàng hoá và nhiều tiềm năng kinh tế - xã hội để phát triển mạnh

2


mẽ. Những năm gần đây, trong xu thế phát triển chung của cả nước, quá trình

công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hóa diễn ra khá mạnh mẽ. Đất xây
dựng các khu công nghiệp mọc lên nhiều, quá trình đô thị hoá tăng mạnh, đất
thương mại dịch vụ phát triển mạnh gắn với các làng nghề truyền thống, do
đó đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, rác thải ô nhiễm môi trường ngày
càng gia tăng. Các quá trình này đã và đang gây áp lực mạnh mẽ đến việc
quản lý và sử dụng đất bền vững của huyện.
Vì vậy, một vấn đề đặt ra là: việc nghiên cứu thực trạng quá trình
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn để tìm được nguyên nhân và ảnh hưởng của quá
trình này đã và đang tác động như thế nào tới quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn trên các mặt: kinh tế - xã hội - môi trường trên địa bàn
huyện, từ đó đề xuất những giải pháp quản lý, sử dụng đất hợp lý đem lại hiệu
quả cao và bền vững là rất cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, được sự hướng dẫn của PGS - TS. Vũ
Thị Bình, chúng tôi thực hiện đề tài “Thực trạng chuyển đổi cơ cấu sử dụng
đất và những giải pháp quản lý sử dụng đất bền vững huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh".
1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

- Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng việc chuyển đổi cơ cấu sử
dụng đất phục vụ CNH, HĐH của huyện Tiên Du nhằm phát hiện những vấn
đề bất cập trong quá trình quản lý sử dụng đất.
- Đánh giá tác động của quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất đến
phát triển nông nghiệp, nông thôn về các mặt: kinh tế - xã hội - môi trường
trên địa bàn huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3


- Đề xuất các giải pháp quản lý sử dụng đất bền vững đáp ứng mục
tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương giai đoạn 2006 2015.

1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI

-

Đề tài nghiên cứu trên cơ sở các thông tin, số liệu, tài liệu điều tra

trung thực, chính xác, đảm bảo độ tin cậy và phản ánh đúng thực trạng sử
dụng đất trên địa bàn nghiên cứu.
-

Việc phân tích, xử lý số liệu trên cơ sở khoa học, có định tính định

lượng bằng các phương pháp nghiên cứu thích hợp.
-

Đánh giá đúng thực trạng, những đề xuất kiến nghị giải pháp quản

lý sử dụng đất bền vững trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp
luật đặc biệt là Luật đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ Môi trường và một số
Luật có liên quan, đồng thời phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã
hội của huyện Tiên Du - tỉnh Bắc Ninh nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội
cao nhất thực hiện chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất hợp lý, đảm bảo tính ổn
định bền vững trong quá trình phát triển.

4


2. NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN

2.1. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG


2.1.1. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững
2.1.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu
của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ tương lai đảm bảo sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt: kinh tế, xã hội,
môi trường.
Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về
vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và
sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên, phát triển
phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế,
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường [12].
2.1.1.2 Những lý luận cơ bản về phát triển bền vững
+ Bền vững về kinh tế
Phát triển bền vững về kinh tế là việc đảm bảo kết hợp hài hoà giữa
mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá xã hội, cân đối tốc độ tăng
trưởng kinh tế với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên
nhiên, khoa học, công nghệ đặc biệt chú trọng phát triển công nghệ sạch.
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn
định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của
nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại
gánh nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau.

5


+ Phát triển bền vững về xã hội
Phát triển bền vững về xã hội là việc phải xây dựng một xã hội có nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định, đi đôi với dân chủ công bằng và tiến bộ
xã hội, trong đó, giáo dục, đào tạo, y tế và phúc lợi xã hội phải được chăm lo

đầy đủ và toàn diện cho mọi đối tượng trong xã hội. Mục tiêu phát triển bền
vững về xã hội là nâng cao chất lượng cuộc sống, mọi người đều có cơ hội
được học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng
cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giảm các tệ nạn xã hội.
+ Phát triển bền vững về môi trường
Phát triển bền vững về môi trường là việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên tái tạo trong phạm vi chịu tải của chúng nhằm khôi phục được cả về số
lượng và chất lượng, các dạng tài nguyên không tái tạo phải được sử dụng tiết
kiệm và hợp lý nhất. Môi trường tự nhiên (không khí, đất, nước, cảnh quan
thiên nhiên....) và môi trường xã hội (dân số, chất lượng dân số, sức khỏe, môi
trường sống, lao động và học tập của con người...) không bị các hoạt động của
con người làm ô nhiễm, suy thoái và tổn hại. Các nguồn phế thải từ sản xuất
và sinh hoạt được xử lý, tái chế kịp thời, vệ sinh môi trường được bảo đảm,
con người được sống trong môi trường sạch.
Mục tiêu của phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn
xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường
sống, bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ
sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học, khắc phục suy thoái và cải thiện
chất lượng môi trường [12].
2.1.2. Lý luận về sử dụng đất bền vững
1.1.2.1. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất

6


Những người trực tiếp sử dụng đất và những người có liên quan đến
việc sử dụng đất có những lợi ích khác nhau về việc sử dụng đất. Đất là nguồn
tài nguyên được sử dụng để thoả mãn nhu cầu cho những người có mối quan
hệ gắn bó với đất. Có những vấn đề ưu tiên trước mắt và có những vấn đề lâu

dài, tuỳ thuộc vào mục tiêu của từng người sử dụng đất, từ đó họ có những
quyết định sử dụng đất theo hướng mục tiêu của mình.
Vấn đề ưu tiên trước mắt của người nông dân là sản xuất lương thực và
thu nhập. Do đó các quyết định sử dụng đất của người nông dân với những
mục tiêu cho thời gian gần, còn các lợi ích về lâu dài thường ít được chú trọng
và quan tâm.
Một cộng đồng lớn hơn - như ở cấp quốc gia - cũng là một đối tượng
sử dụng đất theo cách nhìn nhận đất đai được dùng cho: đô thị, điều kiện cơ
sở vật chất, công nghiệp, giải trí.... Ở phạm vi này, các mục tiêu cơ bản là
nâng cao mức sống và đáp ứng mọi nhu cầu của người dân. Các mục tiêu của
quốc gia có xu hướng lâu dài, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên cho tương
lai. Vì vậy, thường tồn tại một sự phân biệt cơ bản về lợi ích giữa các mục
tiêu của người sử dụng đất thực tế và của cộng đồng nơi họ sinh sống. Cộng
đồng - dù là địa phương, tỉnh hoặc quốc gia - sẽ thường xuyên cố gắng gây
ảnh hưởng lên cách thức sử dụng đất hoặc là bằng việc mở rộng các chương
trình, trợ cấp hoặc là bằng pháp luật.
Vậy trong sử dụng đất đai phải tính đến lợi ích đa dạng của mọi tổ
chức, cá nhân từ lợi ích của người sử dụng đất trực tiếp, lợi ích của khu vực,
lợi ích địa phương và lợi ích quốc gia.
Ngoài ra, việc sử dụng đất của người dân và quốc gia này cũng ảnh
hưởng tới các nước lân cận và các nước khác trên toàn thế giới. Đó là tình
hình ô nhiễm hoặc những tác động có hại gây ảnh hưởng từ nước này sang

7


nước khác, hoặc là nơi mà các hoạt động của một nước hoặc một nhóm các
nước trong khu vực gây ảnh hưởng đến các hệ thống toàn cầu làm tổn hại tới
tất cả chúng ta.[22]
1.1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất

+ Nhân tố tự nhiên
Con người sử dụng đất đai thường bao gồm 2 mặt sau: một là trực
tiếp sử dụng đất cho các yêu cầu sinh hoạt tiêu dùng, hai là dùng làm tư
liệu sản xuất.
- Điều kiện khí hậu: Đất đai, ngoài không gian bề mặt như đất trồng
trọt, đất xây dựng, còn gồm những yếu tố bao quanh mặt đất như ánh sáng,
nhiệt độ, không khí và các khoáng sản dưới lòng đất. Đất đai vốn là một trạng
thái vật chất của tự nhiên. Do vậy, khi sử dụng đất phải tính đến việc thích
ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên.
- Điều kiện đất: Chủ yếu là điều kiện địa lý và thổ nhưỡng. Sự sai khác
giữa đá mẹ, địa hình, địa mạo, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng
dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói mòn... dẫn tới sự khác nhau về đất đai
và khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố ngành nông, lâm nghiệp,
hình thành sự phân dị địa hình theo chiều thẳng đứng của nông nghiệp. Địa
hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương hướng sử dụng đất và xây dựng đồng
ruộng để thuỷ lợi hoá và canh tác bằng máy móc, cũng ảnh hưởng đến sử
dụng đất nông nghiệp.[16]
Đặc điểm của nhân tố điều kiện tự nhiên nói trên là có tính khu vực.
Do vị trí địa lý của vùng quyết định sự sai khác về tình trạng nguồn nước,
nhiệt độ, ánh sáng và các điều kiện tự nhiên khác của đất đai, ở một mức độ
tương đối lớn, chúng quyết định khả năng sử dụng của đất đai. Vị trí của đất

8


đai và mức độ thuận lợi, khó khăn, quyết định công dụng tối ưu và hiệu quả
sử dụng đất đai. Do vậy, trong quá trình thực tiễn nên sử dụng theo quy luật
tự nhiên, phục tùng điều kiện tự nhiên, lợi dụng thế mạnh, tận dụng mặt có lợi
để có thể đạt tới sử dụng đất với hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường
[22].

+ Nhân tố kinh tế - xã hội
Nhân tố xã hội chủ yếu là dân số và lực lượng lao động, nhu cầu của xã
hội, thông tin, quản lý, chế độ xã hội, chính sách môi trường và chính sách đất
đai, yêu cầu quốc phòng, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng
hoá, cơ cấu kinh tế và bố cục sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông
nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, trình độ quản lý, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất
cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Nhân tố kinh tế - xã hội thường có tác dụng quyết định đối với sử dụng
đất đai. Việc xác định phương hướng sử dụng đất được quyết định bởi yêu
cầu của xã hội và một mục tiêu kinh tế nhất định. Trong một vùng hoặc
trong một nước thì điều kiện vật chất tự nhiên của đất đai là cố định, nhưng
do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, nên việc khai thác và sử dụng đất
đai cũng khác nhau.
Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất và chế độ kinh tế - xã hội khác nhau,
cũng có tác dụng khống chế và quản lý đối với sử dụng đất đai khác nhau,
phương thức và hiệu quả sử dụng đất cũng không giống nhau. Trình độ phát
triển xã hội và kinh tế cũng làm cho trình độ sử dụng đất đai phát triển ngày
càng cao.
Cần phải xuất phát từ hiệu quả sử dụng đất để xem xét về ảnh hưởng
của điều kiện kinh tế đến sử dụng đất. Trạng thái sử dụng đất có liên quan tới

9


lợi ích kinh tế của người sở hữu và kinh doanh đất. Chỉ đơn thuần nghĩ đến
lợi nhuận trước mắt thì đôi khi sẽ làm cho đất đai bị sử dụng không hợp lý,
thậm chí đi ngược lại lợi ích xã hội.
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội kết
hợp gây ảnh hưởng tổng hợp đến việc sử dụng đất đai. Do đó, cần phải dựa

vào quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế xã hội, nhằm vào các nhân tố xã hội
và nhân tố tự nhiên của việc sử dụng đất để nghiên cứu và xử lý mối quan hệ
giữa các nhân tố này. Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và của xã hội, xác
định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt chẽ yêu cầu của sử dụng với ưu thế
tài nguyên của đất đai, để đạt tới cơ cấu tổng thể cao nhất, làm cho số đất hữu
hạn này cho hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng cao và sử dụng được bền
vững [13].
+ Nhân tố không gian.
Đất là nơi sản xuất của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, khai
khoáng để sản xuất ra sản phẩm. Đối với ngành phi sản xuất như đất xây
dựng, nó cung cấp không gian mà không sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Trên
thực tế, dù cho đất được dùng cho sản xuất hoặc phi sản xuất, nó đều cung
cấp khả năng phục vụ về không gian. Không gian, bao gồm cả vị trí và mặt
bằng, đều là những nhu cầu không thể thiếu đối với ngành sản xuất vật chất
và phi sản xuất, mọi hoạt động kinh tế và hoạt động xã hội đều cần đến.
Chính vì vậy, không gian cũng là một trong những nhân tố hạn chế đến sử
dụng đất.
Nhân tố không gian của đất đai có đặc tính là không thể thay thế và
cũng không thể dịch chuyển được. Từ đó, việc phân bổ sử dụng đất của con
người không thể vượt qua phạm vi giới hạn không gian hiện có. Điều này nói

10


lên rằng, theo đà phát triển của dân số và kinh tế - xã hội tác dụng hạn chế của
không gian đất đai sẽ thường xuyên xảy ra.
Sự cố định bất biến của tổng diện tích đất đai, không chỉ hạn chế sự mở
rộng không gian sử dụng đất, mà còn qui định giới hạn thay đổi của cơ cấu
dùng đất. Do vậy, trong khi tiến hành điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất, cần phải
chú ý tới yêu cầu của xã hội đối với loại đất và số lượng đất đai mà sản xuất

cần, đồng thời xác định sức sản xuất và diện tích cần có để đảm bảo sức tải
của đất đai [16].
1.1.2.3. Xu thế phát triển sử dụng đất
+ Sử dụng đất phát triển theo chiều rộng và tập trung
Qúa trình phát triển xã hội, cũng là quá trình diễn biến sử dụng đất.
Khi con người còn sống trong phương thức săn bắn và hái lượm, họ chỉ có thể
dựa vào sự ban hưởng của tự nhiên, sự thích ứng với tự nhiên để tồn tại,
không tồn tại ý thức về sử dụng đất. Cho đến thời kỳ du mục, con người sống
trong những túp lều lợp bằng cỏ, những vùng đất có nước và có cỏ bắt đầu
được sử dụng. Đến sau khi xuất hiện ngành trồng trọt, nhất là sau khi đã xuất
hiện những công cụ sản xuất thô sơ, năng lực sử dụng đất được tăng cường,
diện tích đất đai được sử dụng tăng lên nhanh chóng, ý nghĩa kinh tế của đất
đai cũng gia tăng. Nhưng trình độ sử dụng đất lúc đó còn rất thấp, phạm vi sử
dụng cũng rất hạn chế, vẫn thuộc trạng thái kinh doanh thô, đất khai phá
nhiều nhưng thu thập rất thấp. Theo mức tăng trưởng của dân số và sự phát
triển của kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ thuật, quy mô, phạm vi và chiều
sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất và
tinh thần của người dân cũng ngày càng cao, sự phát triển của các ngành nghề
cũng theo xu hướng ngày càng phức tạp và đa dạng, phạm vi sử dụng đất
ngày càng gia tăng, từ một vùng có tính cục bộ phát triển ra nhiều vùng kể cả

11


những vùng đất mà trước kia chưa có khả năng khai thác sử dụng. Không chỉ
phát triển theo không gian, mà trình độ tập trung cao hơn nhiều. Cho dù là đất
canh tác hoặc đất phi canh tác cũng đều phát triển theo hướng kinh doanh tập
trung, đất ít, hiệu quả cao [22].
Tuy nhiên, quá độ từ kinh doanh quảng canh sang kinh doanh thâm
canh cao trong sử dụng đất là một tiến trình lịch sử lâu dài, muốn nâng cao

sức sản xuất và sức tải của một đơn vị diện tích, nhất thiết phải không ngừng
nâng mức đầu tư về lao động, vốn liếng, thường xuyên cải tiến kỹ thuật và
quản lý. Ở những khu vực khác nhau của một vùng hoặc một quốc gia muốn
thực hiện đường lối cơ bản này cũng không thể sử dụng cùng một phương
thức trong cùng một thời gian. Bởi vì tình hình của mỗi quốc gia một khác,
trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật không giống nhau, ngay trong cùng một
quốc gia mà những vùng khác nhau, các điều kiện cũng rất khác nhau [7].
+ Cơ cấu sử dụng đất phát triển theo hướng đa dạng hoá và
chuyên môn hoá
Theo đà phát triển khoa học kỹ thuật và kinh tế của xã hội, cơ cấu sử
dụng đất cũng chuyển dần sang xu thế phức tạp hoá và chuyên môn hoá, yêu
cầu của con người về vật chất, văn hoá, tinh thần và môi trường ngày một cao,
chúng sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp có yêu cầu cao hơn đối với đất đai. Khi con
người có mức sống còn thấp, đang còn đấu tranh với cuộc sống, thì việc sử
dụng đất thường mới tập trung vào nông nghiệp, nhất là vấn đề ăn, mặc, ở,
nhưng khi cuộc sống đã nâng cao, bước vào giai đoạn hưởng thụ, trong sử
dụng đất còn nghĩ tới nhu cầu vui chơi văn hóa, thể thao và môi trường...[22]
+ Sử dụng đất đai theo hướng xã hội hoá và công hữu hoá
Sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và xã hội dẫn tới việc xã hội hoá
sản xuất, một vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một loại sản phẩm là tiền

12


đề cho nơi khác sản xuất tập trung sản phẩm khác. Sự hỗ trợ bổ sung lẫn nhau
hình thành sự phân công hợp tác, sự xã hội hoá sản xuất này cũng là xã hội
hoá trong sử dụng đất.
Đồng thời do đất đai là cơ sở vật chất và công cụ để con người sinh
sống và xã hội tồn tại, trên cơ sở chuyên môn hoá của yêu cầu xã hội hoá sản
xuất, cần cố gắng thích ứng nhu cầu của xã hội, để thúc đẩy phúc lợi công

cộng và tiến bộ xã hội, cho dù ở xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì
lợi ích của tư nhân thì những vùng đất đai hướng dụng công cộng như : nguồn
nước, núi rừng, khoáng sản, sông ngòi, mặt hồ, biển cả, cầu cảng, hải cảng,
danh lam thắng cảnh, khu bảo tồn động thực vật quý hiếm...đại bộ phận đều
do Nhà nước quy định chính sách thực thi hoặc tiến hành công quản, kinh
doanh... để phòng ngừa việc tư hữu sẽ tạo nên mâu thuẫn xã hội.
Xã hội hoá sử dụng đất là sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội hoá
sản xuất, nó được quyết định bởi yêu cầu khách quan của xã hội hoá sản xuất,
cho nên xã hội hoá sử dụng đất và công hữu hoá là xu thế tất yếu. Muốn kinh
tế phát triển, thúc đẩy cao hơn nữa xã hội hóa sản xuất, về cơ bản phải thực
hiện xã hội hoá và công hữu hoá sử dụng đất [22].
1.1.2.4. Sử dụng đất đai bền vững với các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi
trường
+ Sử dụng đất đai bền vững với mục tiêu kinh tế
Sử dụng đất đai bao giờ cũng gắn với mục tiêu kinh tế, những mục tiêu
kinh tế trong sử dụng đất đai giữa chủ sử dụng thực tế và cộng đồng lớn hơn,
có lúc trùng với nhau và có lúc không trùng nhau.
Các hộ nông dân trong việc sử dụng đất đai của mình luôn đặt ra mục
tiêu làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng. Nếu thấy việc đó không có lợi
họ có thể thay đổi cây trồng để sản xuất có hiệu quả hơn hoặc nếu việc canh

13


tác không có lợi họ có thể bán phần đất của họ cho người nông dân khác,
những người mà sản xuất nông nghiệp đem lại lợi nhuận cao hơn hoặc họ
cũng có thể thay đổi mục đích sử dụng đất của mình, kể cả việc bán đất sét
cho nhà máy gạch, bán cát dưới dạng vật liệu xây dựng hoặc sử dụng đất làm
khu vui chơi giải trí cho khách du lịch...
Trong khi đó cộng đồng (xã, huyện, tỉnh, cả nước) luôn có những mối

quan tâm kinh tế lâu dài trong sử dụng đất đai. Trước hết, đó là đảm bảo các
mục tiêu kinh tế lâu dài và cần thiết cho cả cộng đồng, đó là vấn đề an toàn
lương thực, có đất để mở rộng đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các
khu công nghiệp, bảo vệ môi trường và các khu vui chơi, giải trí ...
Như vậy, các mối quan tâm kinh tế nhất thời của người sử dụng đất cụ
thể mâu thuẫn với mối quan tâm lâu dài của cả cộng đồng [22]
+ Sử dụng đất đai bền vững với mục tiêu xã hội
Sử dụng đất đai trước tiên là liên quan tới những người sống trên mảnh
đất đó, họ có những nhu cầu thiết yếu của mình và đó là mục tiêu xã hội rõ rệt
của bất cứ một Nhà nước nào, nhằm tạo ra hay duy trì các điều kiện mà nó có
tác dụng giúp thoả mãn những nhu cầu thiết yếu này. Việc tạo ra công ăn việc
làm trong quá trình phát triển bền vững là một phương pháp hữu hiệu, nhằm
cùng một lúc đạt được 3 mục tiêu là kinh tế, xã hội và môi trường [22].
Những nhu cầu thiết yếu này bao gồm các cơ sở vật chất công cộng hoặc các
phương tiện phục vụ cho sức khoẻ, giáo dục, định cư, thu nhập...Ngoài ra, còn
tạo ra một ý thức về công bằng xã hội và kiểm soát chính tương lai của họ.
Một mục tiêu xã hội nữa cần phải kể đến là mâu thuẫn giữa các thế hệ
về việc sử dụng đất đai. Đó là việc sử dụng đất đai của thế hệ hiện tại không
nghĩ đến lợi ích của các thế hệ con cháu mai sau.

14


Tóm lại, mục tiêu xã hội luôn thay đổi và biến động theo từng thời kỳ,
điều đó dẫn đến sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đáp ứng các nhu cầu
mới của xã hội về nông sản, thực phẩm và các dịch vụ xã hội khác [22].
+ Sử dụng đất đai bền vững với mục tiêu môi trường
Đối với bất kỳ vùng nào, một quốc gia nào trong sử dụng đất đai gắn
với mục tiêu môi trường thì điều quan trọng là phải phân biệt được mục tiêu
chung và mục tiêu riêng. Chính phủ các nước đều đưa ra các tiêu chuẩn và

mục tiêu về môi trường. Các tiêu chuẩn và mục tiêu này thường được thành
lập dựa trên thuật ngữ hoá học, vì nó liên quan đến sức khoẻ và thế hệ mai
sau. Việc nhìn nhận "môi trường" không chỉ có nghĩa là một hệ thống các tiêu
chuẩn về hoá học, đất nước phong cảnh thiên nhiên... là các tài sản có giá trị.
Vì thế, những vấn đề về môi trường chỉ có thể giải quyết một cách có hiệu
quả nếu nó được thực hiện kết hợp với các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Hơn nữa, mục tiêu môi trường ngoài những quan tâm chung mang tính
toàn cầu, thì mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào đặc điểm, hoàn cảnh của mình có
những quan tâm riêng, song quan trọng hơn đó là lũ lụt, hạn hán, động đất,
sóng thần...[22].
Việc đánh giá và đề xuất sử dụng đất đai theo quan điểm sinh thái bền
vững [4]. Những đánh giá tổng quát về môi trường và hiện tượng suy thoái
đất có liên quan tới các điều kiện tự nhiên và quá trình sử dụng đất [8]. Những
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề ô nhiễm môi trường đất Việt Nam đã phản
ánh được nhiều vấn đề về môi trường, nhằm đưa ra các giải pháp chiến lược,
cũng như các giải pháp khắc phục cho sử dụng đất trên quan điểm sinh thái
lâu bền [13].
2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

15


2.2.1. Những nghiên cứu về sử dụng đất bền vững một số nước trên thế giới.
Để duy trì được khả năng bền vững đối với đất đai Smyth A.J và
J.Dumanski (1993) [29] đã xác định 5 nguyên tắc có liên quan đến sử dụng
đất bền vững đó là:
- Duy trì, nâng cao các hoạt động sản xuất
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất
- Bảo vệ tiềm năng của các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự

thoái hoá chất lượng đất và nước.
- Khả thi về mặt kinh tế
- Được sự chấp nhận của xã hội
Năm nguyên tắc trên đây được coi như những trụ cột của việc sử dụng
đất bền vững. Nếu trong thực tế đạt được cả 5 mục tiêu trên thì khả năng bền
vững sẽ thành công, còn nếu chỉ đạt được một vài mục tiêu chứ không phải tất
cả thì khả năng bền vững chỉ thành công được ở từng bộ phận.
2.2.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc đã có 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo lý luận kinh
tế “chủ nghĩa xã hội hiện thực”, chính sách cải cách thành công của Trung
Quốc đã đem lại những thành tựu to lớn, trong 20 năm cải cách kinh tế, mức
tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 9,7%/năm được xếp vào nước có mức
tăng trưởng nhanh nhất thế giới, khoảng 200 triệu người dân đã được đưa lên
khỏi mức đói nghèo, năm 1998, Trung Quốc đứng đầu thế giới về sản lượng
nông sản, thu nhập của nông dân Trung Quốc đã tăng lên 16 lần. Nông nghiệp
Trung Quốc đã làm nên kỳ tích góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu ăn, mặc
cho 1,3 tỷ dân có mức sống ngày càng tăng, tạo cơ sở căn bản cho quá trình
công nghiệp hoá.

16


Bên cạnh những thành công to lớn về kinh tế, xã hội của công cuộc đổi
mới, quá trình phát triển kinh tế của Trung Quốc đã và đang chứa đựng nhiều
nguy cơ và thách thức lớn. Trong đó, chính sách sử dụng đất nông nghiệp,
chính sách đô thị hoá và công nghiệp hoá đã có những tác động không nhỏ
đến kinh tế, xã hội Trung Quốc.
Quá trình chuyển dịch đất nông nghiệp sang các loại đất khác (chủ yếu
là đất công nghiệp và đất ở) của Trung Quốc tăng đã làm cho diện tích đất
canh tác ngày càng giảm, diện tích canh tác bình quân đầu người của Trung

Quốc chỉ bằng 1/3 mức trung bình trên thế giới. Cạnh tranh giữa sản xuất
nông nghiệp và sản xuất công nghiệp, phát triển đô thị ngày càng nhanh về tài
nguyên tự nhiên làm cho giá thành sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng
nhanh, theo Z.Tang [19] tốc độ tăng thu nhập của nông thôn giảm dần (từ
3,09% năm 1980 xuống 2,47 % năm 1997), ngày càng tụt hậu so với mức
tăng ngày càng nhanh của thu nhập cư dân thành phố. Khoảng cách chênh
lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa nhau... năm 1978
cư dân thành phố chiếm 18% dân số cả nước và có thu nhập chiếm 34% tổng
thu nhập cả nước, năm 1996 tỷ lệ dân số thành phố tăng lên 28% nhưng
chiếm tới 50% tổng thu nhập cả nước”. Thu nhập bình quân đầu người ở 10
thành phố lớn của Trung Quốc từ năm 1997 đến 1999 tăng từ 2.490 USD lên
2670 USD/năm, trong khi thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn cùng
giai đoạn giảm từ 966 xuống 870 USD/năm.
Đối với đất nông nghiệp, Luật đất đai hiện nay của Trung Quốc
(Điều 31) [28] quy định “Nhà nước bảo hộ đất canh tác, khống chế nghiêm
ngặt chuyển đất canh tác thành phi canh tác”
Mỗi một giai đoạn thăng trầm của lịch sử kinh tế, chính trị, xã hội
Trung Quốc đều ẩn chứa sự thành bại bởi tác động của một cơ chế, chính sách

17


về nông nghiệp nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói riêng. Song, những
hậu quả tác động của quá trình chuyển dịch đất nông nghiệp sang đất công
nghiệp và đất ở đến đời sống xã hội Trung Quốc là rất lớn. Chính sách “…
khống chế nghiêm ngặt chuyển đất canh tác thành phi canh tác” tại Trung
Quốc ra đời chậm hơn một số nước trong khu vực; song đã thu được nhiều
thắng lợi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
2.2.1.2. Nhật Bản
Nhật Bản là một nước tiến hành cải cách kinh tế sớm nhất ở Châu Á,

quá độ từ nền kinh tế phong kiến tiểu nông lên công nghiệp hoá. Trải qua một
thế kỷ phát triển, Nhật đã trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại nhưng
đơn vị sản xuất nông nghiệp chính vẫn là các hộ gia đình nhỏ, mang đậm tính
chất của nền văn hoá lúa nước, đặc điểm này rất giống với Việt Nam.
Trước công cuộc duy tân, như mọi nước châu Á, nền kinh tế Nhật là
nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, tiểu nông phong kiến, năng suất thấp, địa tô
cao. Như Việt Nam, Nhật luôn luôn, bị giới hạn bởi tài nguyên đất đai ngày
càng ít và dân số ngày càng tăng. Tuy nhiên, muốn tạo đà công nghiệp hóa,
nhất thiết phải tăng năng suất nông nghiệp, trong hoàn cảnh đất chật người
đông, cách duy nhất là thâm canh tăng năng suất (trên đơn vị diện tích và trên
đơn vị lao động).
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp được Nhật Bản coi là biện pháp hàng
đầu ngay từ thế kỷ XIX, Nhật chú trọng phát triển các công nghệ thu hút lao
động và tiết kiệm đất như: kỹ thuật tưới nước, dùng phân bón và lai tạo giống
tạo nên năng suất cây trồng cao. Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất
được ban hành cũng tạo ra động lực thúc đẩy nông dân áp dụng khoa học
công nghệ tăng năng suất cây trồng. Đất đai được chia cho mọi nông dân tạo
nên tầng lớp nông dân sở hữu nhỏ ruộng đất.

18


Do chính sách phi tập trung hoá công nghiệp, đưa sản xuất công nghiệp
về nông thôn làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn thay đổi, tỷ lệ đóng góp của
các ngành phi nông nghiệp trong thu nhập cư dân nông thôn ngày càng tăng
(năm 1950 là 29%, năm 1990 là 85%). Năm 1990 phần thu nhập từ phi nông
nghiệp cao hơn 5,6 lần phần thu từ nông nghiệp. Ngược lại, công nghiệp lại
tạo nên nhu cầu cao và thị trường ổn định cho nông nghiệp, thu nhập của
người dân Nhật tăng nhanh trong quá trình công nghiệp hoá. Công nghiệp
phát triển tạo nên kết cấu hạ tầng (giao thông, thông tin, đào tạo, nghiên

cứu...) hoàn chỉnh, thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng, tạo nên năng suất đất
đai cao...
Về sự gắn kết giữa nông nghiệp, công nghiệp, nông thôn và thành thị
của Nhật Bản, Đặng Kim Sơn cho rằng “Một trong những bài học quan trọng
nhất trong “sự thần kỳ Nhật Bản” là sự liên kết hài hoà giữa nông nghiệp,
nông thôn với công nghiệp và đô thị trong qúa trình công nghiệp hoá”.[19]
Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, kinh tế Nhật Bản bị suy thoái
nghiêm trọng, hơn 3 triệu người chết đói, kết cấu hạ tầng bị huỷ hoại, tài
chính bị thiếu hụt, lạm phát phi mã...; Nhật Bản đã tiến hành một loạt các cải
cách kinh tế, trong đó có cải cách ruộng đất, hình thành thị trường đất
đai...Nhật Bản đã thực hiện nhiều chính sách kích thích (kích cầu) nền kinh tế
phát triển, trong đó, chính sách kích cầu cơ bản nhất là tăng thu nhập và lương
cho người tiêu dùng nông thôn. Đây là chiến lược phát triển nông nghiệp áp
dụng rất thành công, biến nông thôn thành thị trường to lớn cho hàng hoá
công nghiệp.
Cuối những năm của thập kỷ 1960, mức phát triển nhanh của công
nghiệp hoá của Nhật đã thu hút hết lao động dư thừa ở nông thôn. Tuy nhiên,
công nghiệp nặng làm tăng chi phí chống ô nhiễm môi trường, mặt khác, lệ
thuộc nước ngoài về năng lượng, nguyên liệu thì phát triển công nghiệp nặng

19


và hoá chất sẽ không bền vững; Nhật Bản đã chuyển hướng sang phát triển
công nghiệp quy mô nhỏ, thu hút nhiều chất xám, sử dụng nhiều vốn.
Tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP dần dần “nhường chỗ” cho công
nghiệp và dịch vụ phát triển; từ đó kết cấu kinh tế Nhật Bản đã chuyển dịch
nhanh và vững chắc sang công nghiệp.
Với chính sách tiết kiệm đất triệt để, chính sách bảo hộ sản xuất nông
nghiệp đồng nghĩa với sự hạn chế tối đa chuyển dịch đất nông nghiệp sang đất

công nghiệp và đất ở, các cơ chế chính sách uyển chuyển phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của kinh tế - xã hội, nông nghiệp Nhật Bản đã tác động
một cách tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản.
2.2.1.3. Đài Loan
Quá trình phát triển xã hội trước đây cũng giống với giai đoạn phát
triển hiện nay của Việt Nam, tức là nền nông nghiệp là chính. Vào cuối thế kỷ
XIX, cải cách ruộng đất ở Đài Loan được tiến hành. Quyền sử dụng đất
chuyển từ địa chủ thu tô sang chủ đất thực sự quản lý đất đai. Nông nghiệp
cùng với sự phát triển của kỹ thuật đã phát triển theo hướng thâm canh,
chuyên sâu và nông nghiệp thực sự là nền tảng vững chắc cho sự phát triển
kinh tế ổn định và mạnh mẽ ở Đài Loan.
Đài Loan đã tiến hành cuộc “cải cách ruộng đất lần thứ hai” vào năm
1981. Với mục tiêu mở rộng quy mô nông trại, các chính sách: hợp tác sản
xuất, hợp đồng khoán được áp dụng song song với việc áp dụng các kỹ thuật
mới như cơ khí hoá, tự động hoá, các ngành sản xuất “không sạch” như chăn
nuôi, trồng trọt được thay thế bằng sản phẩm sạch, chất lượng cao, không
dùng hoá chất. Cũng trong quá trình công nghiệp hoá này, giá đất, giá lao
động tăng nhanh làm cho sản xuất lúa bị chững lại và giảm sút hẳn. Lúa dần
được thay thế bằng các cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn và tới thập kỷ

20


1990, việc ưu tiên phát triển môi trường đã trở thành mục tiêu quan trọng của
ngành nông nghiệp Đài Loan.
Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, công nghiệp phát triển chậm,
Đài Loan thực hiện khẩu hiệu “ly nông bất ly hương” như Trung Quốc hiện
nay, sản xuất nông nghiệp và ngành nghề nông thôn đã thu hút hầu hết lao
động tăng thêm hàng năm. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6,5% năm 1952 xuống
còn thấp hơn 3% và giữ ở mức này cho đến nay. Từ năm 1952 - 1964, mỗi

năm chỉ có khoảng 0,3 - 2,3 tổng số lao động nông thôn chuyển ra thành phố
vừa đủ với khả năng tạo việc làm của công nghiệp. Khi tốc độ công nghiệp
hoá chậm lại (sau năm 1971), kinh tế nông thôn có vai trò điều tiết, giữ lao
động tăng thêm hàng năm ở lại nông thôn. Khi kinh tế tăng trưởng trở lại
(cuối thập kỷ 1980) lại thu hút lao động ra thành phố. Nguyên nhân tạo nên sự
điều tiết về lao động nói trên của Đài Loan không chỉ do chính sách về nông
nghiệp và công nghiệp mà còn do chính sách đầu tư phát triển hệ thống giáo
dục phổ cập (đào tạo nguồn nhân lực) nên chất lượng tay nghề lao động nông
thôn luôn đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá, chính sách lương kích thích
người lao động đầu tư nâng cao trình độ và chủ trương phát triển nông nghiệp
giai đoạn đầu, phát triển công nghiệp giai đoạn sau hướng về xuất khẩu, thu
hút lao động, tăng thu nhập cho lao động.
Trong suốt 30 năm công nghiệp hoá (bắt đầu từ năm 1949) Đài Loan
tập trung phát triển cơ sở hạ tầng (hệ thống: giao thông đường bộ, đường sắt,
thuỷ lợi, thông tin liên lạc, mạng lưới điện...) và hoàn thành vào cuối thập kỷ
1980. Chính phủ nắm 100% vốn kinh doanh sản xuất điện, thực hiện điện khí
hoá toàn quốc. Hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, cho phép phân bổ sản xuất
công nghiệp trên toàn lãnh thổ. Nhờ đó, phân tán mạnh công nghiệp về nông
thôn. Một số lớn nhà máy liên doanh với nước ngoài được đầu tư để tận dụng

21


nguồn nhân công rẻ. Đây là những yếu tố quyết định tạo nhiều việc làm ở
nông thôn.
Giữa Đài Loan và Trung Quốc về lịch sử chung một cội nguồn; song,
với chính sách sử dụng đất đai khác nhau, các tác động của các chính sách
này đã mang lại hiệu quả hoàn toàn khác nhau. Sự chuyển dịch đất nông
nghiệp sang đất công nghiệp đã được định hướng về nông thôn đã mang lại
hiệu quả vô cùng to lớn ngay trong cả ngắn hạn dài hạn cho nền kinh tế đất

nước.
Thực tế trên đã cho thấy: chính sách phát triển nông nghiệp (trong đó
có sử dụng đất nông nghiệp hay chuyển dịch đất nông nghiệp) thích hợp đã
tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia có xuất phát
điểm từ một nền kinh tế nông nghiệp; ngược lại, sẽ phải gánh chịu một hậu
quả nghiêm trọng cho nền kinh tế xã hội.[18]
2.2.2. Nghiên cứu trong nước về sử dụng đất bền vững
2.2.2.1. Chiến lược sử dụng đất bền vững ở Việt Nam
Tổng diện tích đất của Việt Nam vào khoảng 33 triệu ha. Trong đó
khoảng gần 2 triệu ha thuộc các thành phố và thị xã, khu dân cư nông thôn và
chuyên dùng, khoảng 9 triệu ha là đất sản xuất nông nghiệp nằm chủ yếu ở
các vùng đồng bằng và trung du, khoảng 630.000 ha được dùng cho nuôi
trồng thuỷ sản, 12 triệu ha là đất rừng. Hơn 9 triệu ha còn lại là đất chưa sử
dụng gồm chủ yếu là đồi trọc và đất trống.
Chủ trương của Chính phủ Việt nam là sử dụng đất có hiệu quả và sự
cần thiết phải có tầm nhìn lâu dài. Chính phủ cũng luôn chú ý đến các nhu cầu
đa dạng của nhân dân, cùng với sự gia tăng dân số nhanh chóng. Để thực hiện
điều này, chiến lược của Chính phủ là chỉ đạo thực hiện 6 nhiệm vụ sau đây:

22


1. Cố gắng không mở rộng các thành phố và nếu có thể tránh việc xây
dựng trên đất nông nghiệp có chất lượng cao.
2. Duy trì diện tích đất sản xuất nông nghiệp, và tăng diện tích đất
nông nghiệp ở những nơi có điều kiện, bằng vịêc khai hoang, mở rộng
tưới tiêu.
3. Giao đất sản xuất nông nghiệp để trồng trọt hoặc để chăn nuôi gia
súc tuỳ theo khả năng của đất và nhu cầu của thị trường nội địa hoặc xuất
khẩu đối với các sản phẩm này.

4. Tăng diện tích đất cho nuôi trồng thuỷ sản bằng việc chuyển đất sản
xuất nông nghiệp hoặc khai hoang đất chưa sử dụng ở những nơi mà điều
kiện thiên nhiên phù hợp.
5. Bảo vệ các rừng hiện có và tăng nhanh diện tích rừng bằng việc
trồng rừng mới hoặc khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên.
6. Khuyến khích việc quản lý đất bền vững lâu dài bằng việc giao đất
sử dụng ổn định lâu dài cho các hộ dân và cộng đồng địa phương.[2]
2.2.2.2. Những chính sách về đất đai liên quan đến quản lý sử dụng
đất bền vững ở Việt Nam
Chiến lược phát triển bền vững ở Việt nam là một chiến lược chung
đưa ra các nội dung phát triển bền vững, kết hợp chặt chẽ và hài hoà giữa phát
triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Điều này gắn liền với
việc quản lý sử dụng đất bền vững.
Theo thống kê, từ 24/7/1993 đến 15/6/2004, Quốc hội đã ban hành 9
văn bản, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ ban hành 42 văn bản liên quan
đến quản lý và sử dụng đất đai. Chính sách đất đai nhằm điều tiết nguồn lực

23


đặc biệt nhất đối với sản xuất nông nghiệp, chính sách đất đai khẳng định
quyền sở hữu cao nhất thuộc về toàn dân, Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu.
Đối với đất nông nghiệp, việc quản lý được đổi mới theo hướng tăng
dần quyền chủ động cho người sử dụng đất bắt đầu bằng chỉ thị 100 (1981)
của Ban Bí thư Trung ương về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản
phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp. Chỉ thị 100 về cải tiến
công tác khoán đã làm thay đổi cơ chế quản lý HTX, tạo động lực khuyến
khích lợi ích vật chất đối với người nhận khoán, nông dân phấn khởi, đầu tư
thêm công sức, tiền vốn, vật tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tận dụng đất đai để
phát triển sản xuất. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế

trong nông nghiệp được ban hành năm 1988 nhằm vào giao khoán ổn định
ruộng đất cho nông dân (15 năm), người nông dân được chủ động thực hiện
các khâu canh tác, ngoài các chi phí dịch vụ cho HTX, thuế cho nhà nước, xã
viên được tự do sử dụng và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.[5]
Chính sách đất đai đã góp phần thúc đẩy mở rộng diện tích đất nông
nghiệp nhờ khai hoang phục hoá, chuyển một số diện tích có khả năng sang
đất sản xuất nông nghiệp, hạn chế tối đa việc chuyển đất nông nghiệp sang đất
phi nông nghiệp (công nghiệp, thương mại, dịch vụ) nhờ đó diện tích đất cho
sản xuất nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản) đã tăng từ 6,9
triệu ha lên 9,4 triệu ha (tăng 2,41 triệu ha), đất lâm nghiệp từ 9,3 triệu ha lên
12,1 triệu ha trong thời gian 1990 – 2002 góp phần tăng thêm nguồn lực và tư
liệu sản xuất cho nông nghiệp.
Thời gian 1981 – 1985, Ban Bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị 29
CT/TW ngày 21/11/1983, chỉ thị 36 CT/TW ngày 19/1/1985. Nội dung 2 chỉ
thị này đã khẳng định chủ trương giao đất, giao rừng cho hộ nông dân ...Mặc
dầu chưa có nhiều thay đổi lớn trong chính sách đất đai nhưng việc bước đầu

24


gắn lợi ích của nông dân với hiệu quả sử dụng đất đã tạo ra sự thay đổi lớn
trong hiệu quả sử dụng đất và phát triển nông nghiệp. Trong 5 năm (1981 –
1985), sản lượng lương thực quy ra thóc cả nước tăng 27% năng suất lúa tăng
23,8%, diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%... Năm 1988, Bộ
chính trị ban hành Nghị quyết 10 – NQ/TW về đổi mới cơ chế quản lý trong
nông nghiệp. Về đất đai, Nghị quyết 10 chỉ rõ, đất đai được giao khoán ổn
định đến hộ xã viên khoảng 15 năm và sản lượng giao khoán ổn định trong 5
năm và bảo đảm cho các hộ nhận khoán được hưởng trên, dưới 40% sản
lượng khoán. Trên cơ sở Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các Nghị quyết
khác của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách mới về quản lý, sử

dụng đất trong nông nghiệp nhờ đó, hiệu quả sử dụng đất không ngừng tăng
lên. Ví dụ, giá trị thu nhập sản phẩm nông nghiệp tính trên 1 ha đất nông
nghiệp được sử dụng không ngừng tăng lên. Nếu như năm 1996, chỉ tiêu trên
mới đạt 13,5 triệu đồng, năm 2000 là 17,5 triệu đồng, năm 2003 đạt 19,3 triệu
đồng.
Việc giao đất ổn định lâu dài cho người nông dân đã tạo ra động lực
mới thúc đẩy phát triển kinh tế và sử dụng đất đai hiệu quả, người dân mạ nh
dạn đầu tư những đối tượng cây trồng trên mảnh đất của mình. Trong việc
quản lý sử dụng đất đai đã có những thay đổi đáng kể, kể cả phương thức sử
dụng và cơ chế ràng buộc đối với người sử dụng. Ruộng đất đã được quản lý
chặt chẽ hơn so với khi còn quản lý theo hình thức tập thể kiểu cũ. Giá trị sản
xuất ngành trồng trọt tính bình quân trên 1 ha canh tác đã tăng từ 5,94 triệu
đồng (năm 1994) lên 7,8 triệu đồng (năm 2003). Trước năm 1988, Việt Nam
luôn ở trong tình trạng mất an ninh lương thực. Nhờ những chính sách đúng đắn
về giao quyền sử dụng đất cho nông dân, phát triển kinh tế hộ, nền nông nghiệp
Việt Nam đã không những đáp ứng được lương thực trong nước mà còn dư để

25


×