Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.16 KB, 22 trang )

Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Lời nói đầu
Hiện nay nhân loại đang đối mặt với sự biến đổi khí hậu (BĐKH) diễn
biến hết sức phức tạp. Cùng với sự nóng lên của trái đất, hiện tượng băng
tan, thời tiết biến động bất thường, nước biển dâng cao, hạn hán, rét đậm
kéo dài và những trận bão lũ, sóng thần, động đất gây thảm họa ở một số
quốc gia trong thời gian gần đây là một minh chứng cụ thể. Đằng sau sự
biến đổi đó là dịch bệnh, lương thực, thực phẩm thiếu hụt...
Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm,
thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây
ra hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên
thủ 165 nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và
nóng lên của khí hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà
và gian băng trong lịch sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học
trên thế giới và Việt Nam ghi nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con
người không hạn chế các tác động xấu đến môi trường, không quan tâm
nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh hữu hiệu cho dân tộc
mình, thì hệ lụy có thể nói là khôn lường.
Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các biến động bất
thường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quyển và thủy
quyển không ngừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và
đang gây ra nhiều hệ lụy với đời sống loài người.
Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện tượng này đã
được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi tiếng trên thế giới tiến hành
từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc triệu tập
tại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định khung và Chương
trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi” nhanh chóng
của bầu khí quyển Trái đất, vốn được coi là nguyên nhân chủ yếu của sự
gia tăng hiểm họa. Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí hậu
của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành lập, thu hút sự tham gia của


hàng ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội nghị Kyoto năm 1997, Nghị định
thư Kyoto đã được thông qua và đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ
165 quốc gia phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực từ
10/2/2005. Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005.
Mới đây, hội nghị lần thứ 12 của 159 nước tham gia hiệp định khung về
khí hậu, phiên họp thứ 2 của các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã
được Liên hiệp quốc tổ chức tại Nairobi, thủ đô Kenya
Dựa trên những kiến thức của bản thân sau đây em xin trình bày
những hiểu biết của em về vấn đề “ Biến đổi khí hậu và mực nước biển
đâng cao” rất mong nhận được những lời nhận xét bổ ích của cô giáo giúp
em tăng thêm tầm hiểu biết về vấn đề này.
Sinh viên: Lê văn Đông

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiu lun mụn hc: Qun lý mụi trng ụ th

Phần 1. Tổng quan về quá trình đô thị hoá/CN hoá và môi trờng đô thị
1.1. Gii thiu tng quan v quỏ trỡnh ụ th hoỏ, cụng nghip hoỏ v
cỏc vn ụ nhim mụi trng phỏt sinh t cỏc quỏ trỡnh trờn.
ụ th hoỏ l s tng trng v thay i mt s khu vc nht nh trong
mt quc gia: s thay i c cu kinh t, dõn s v xó hi t iu kin
nụng thụn sang iu kin ụ th.
Hu ht cỏc vn mụi trng ụ th ta cỏc quc gia v thnh ph u
l hu qu ca vic kim soỏt quỏ trỡnh ụ th hoỏ.
Cỏc thnh ph ln ti cỏc phỏt trin ang phi tr giỏ cho nhng quyt
nh khụng sỏng sut trong quỏ kh, c bit l sau cỏch mng cụng
nghip, ú l: s ụ nhim cụng nghip, cn kit ti nguyờn, cỏc khu vc
ụ th b xung cp, cỏc ụ th b ụ nhim nhit, ma axit, s tng nhit

ton cu, vn an ton v an ninh mụi trng do khụng kim soỏt c
cỏc ngun gõy ụ nhim mụi trng, cỏc thm ho v s c do con ngi
gõy ra...
Cỏc thnh ph ti cỏc nc ang phỏt trin, do s thiu iu kin c s
h tng cựng vi s nụn núng m quỏ trỡnh ụ th hoỏ ó in ra vi tc
chúng mt. ng thi vi quỏ trỡnh ụ th hoỏ l s phỏt trin ca dõn
s ụ th quỏ nhanh ó gõy ra vụ vn vn kinh t xó hi chớnh tr v
mụi trng nh cung cp nh , cung cp nc, v sinh mụi trng, to
cụng n vic lm, gii quyt giao thụng ụ th, thoỏt nc v rỏc thi, mõu
thun gia cỏc mch ớch s dng t.v.v...Nguyờn nhõn dn n s gia
tng dõn s ụ th rt a dng gm s gia tng t nhiờn ca dõn c ụ th,
s di c hp phỏp v bt hp phỏp t cỏc vựng nụng thụn, vic m mang
kinh t, v cụng nghip, giỏo dc trong cỏc ụ th...
Mt trong nhng im núng ca s phỏt trin ụ th húa l khu vc ven ụ
th, ni ang chu nhng ỏp lc nng n gia hai xu hng phỏt trin v
bo tn, gia li ớch phỏt trin kinh t v nhu cu bo v mụi trng, bo
v cỏc giỏ tr vn húa v bo m phỏt trin bn vng cho c thnh ph.
1.2. Bn cht ca vn Bin i khớ hu v mc nc bin dõng cao
v cỏc vn chớnh sỏch ỏp ng ca quc gia cỏc nc ó phỏt trin
v cỏc nc ang phỏt trin.
1.2.1. S bin i khớ hu.

Hin ti, Trỏi t ang tng ngy tng gi núng lờn vi tc nhanh
vi chiu hng cú th cũn nhanh hn na. Vy, nguyờn nhõn no ó gõy
ra hin tng v Trỏi t m lờn ?
Nguyờn nhõn th nht, ú l vic tng hm lng khớ CO2 v cỏc loi khớ
thi to hiu ng nh kớnh do hot ng con ngi gõy ra trong bu khớ
quyn Trỏi t. Nguyờn nhõn ny chim 90, thm chớ 99% mc gia tng
*** Sinh viờn: Lờ vn ụng - MSSV: 40.0425.K40G ***



Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được báo động. Rõ ràng mối liên
quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO2 và các khí thải gây hiệu ứng
nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất đã
được minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài thập kỷ
gần đây. Nhiệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ Mặt trời
và nhận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng đất. Sự có mặt
của một hàm lượng khí CO2 cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo
giáp ngăn chặn bức xạ nhiệt (bức xạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ
trụ mênh mông lạnh lẽo. Thiếu nó thì mặt đất sẽ không có được một nhiệt
độ điều hòa cho sự sinh sôi phát triển sự sống. Các công trình nghiên cứu
áp dụng công nghệ hiện đại cho chúng ta biết suốt thiên niên kỷ trước khi
có cuộc cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển dao
động ở mức 280 phần triệu (ppm). Tuy nhiên, tính từ đầu thế kỷ XIX đến
nay hàm lượng đó đã tăng liên tục đến 360 ppm. Số liệu quan trắc trong 4
thập kỷ gần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ hàm lượng CO2 trong khí quyển
lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứng nhà kính do khí CO2 gây ra là quá
mức cần thiết, gây tăng nhanh nhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiều hệ
lụy như đã nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải đã được nêu
ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là nước
xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất vào khí quyển (trên 30% tổng
khí thải công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Nghị định thư Kyoto.
Nguyên nhân thứ hai, tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng
nhà kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên của Trái
đất do hoạt động nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và
lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình
thành và phát triển của Trái đất. Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất
hàng triệu triệu năm đã trải qua nhiều lần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo

những biến động to lớn trong đời sống sinh vật trên Trái đất, làm thay đổi
cả diện mạo địa hình lục địa và đại dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay
đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các thời kỳ băng hà kéo theo mực
nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo
mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ băng hà, nhiệt độ bề
mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt Trái đất đan
xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động của
nước biển (dâng, hạ) lên đến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo
dài hàng vạn, chục vạn năm. Mỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các
chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với
biên độ dao động mực nước biển 2-3 m hoặc hơn. Khí thải CO2 làm tăng
hiệu ứng nhà kính là hiện tượng do con người gây ra trong mấy trăm năm
gần đây. Vì vậy, theo tôi cả hai nguyên nhân trên đều có cơ sở thực tế và
chúng cùng tác động gây ra tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất
thường như hiện nay. Do đó, cần phải nhìn nhận hiện tượng nóng lên của
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Trái đất hiện nay bằng quan điểm biện chứng: chu kỳ nóng ấm của Trái
đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên
nghiêm trọng hơn do những tác động của khí thải công nghiệp và hiệu
ứng nhà kính.
1.2.2. Dâng cao mực nước biển
Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan
những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi
cao. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ
nhanh và quy mô lớn như ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam
Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ

tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng
tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới
655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở
bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng sẽ
hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì
như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng
3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc
Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so
với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990).
Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của nước được coi
như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên,
làm tràn ngập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực
nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm
qua là 1,8 mm/năm. Nhưng chỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc
của vệ tinh NASA cho thấy xu thế biển dâng đang gia tăng rất nhanh, với
tốc độ trung bình là 3 mm/năm. Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà
khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà khoa học từ 130 quốc gia tham gia
đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái
đất sẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng
28-43 cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước biển
đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra
với tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard
Alley ở Đại học Pennsylvania, Hoa Kỳ nói: Chỉ cần 15% lớp băng ở
Greenland bị tan cũng tạo ra một khối nước mới trong các đại dương đủ
để làm ngập tiểu bang Florida của Hoa Kỳ và nhiều vùng duyên hải khác
trên thế giới.
Trong tình hình cấp thiết như vậy, Hội nghị Liên hợp quốc (LHQ) về biến
đổi khí hậu lần thứ 14 diễn ra từ 1 - 12/12/2008 tại thành phố Poznan (Ba
Lan) đã tập trung bàn thảo việc xây dựng cơ chế hoạt động đầy đủ của
Quỹ thích ứng, thúc đẩy cơ chế giảm bớt khí thải theo nguyên tắc “trách

nhiệm chung nhưng có phân chia và theo năng lực” và đưa ra bản dự thảo
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

đầu tiên cho thỏa thuận mới về biến đổi khí hậu. Đặc biệt, lần đầu tiên tại
Hội nghị LHQ về biến đổi khí hậu, các Bộ trưởng Môi trường nhóm họp để
thảo luận kế hoạch hợp tác dài hạn ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy
nhiên, cũng giống như các hội nghị trước, hai nhóm nước phát triển và
đang phát triển vẫn tranh cãi không dứt xung quanh việc chia sẻ trách
nhiệm trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu cũng như thúc đẩy thực
hiện các hoạt động hỗ trợ các nước đang phát triển thích ứng với tình
trạng ấm nóng toàn cầu. Nhóm G-77 và Trung Quốc cho rằng, các nước
phát triển là thủ phạm chính gây ra tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay,
nên phải gánh trách nhiệm lớn hơn và phải đưa ra cam kết đến năm 2020
cắt giảm 25 - 40% tổng lượng khí phát thải so với mức của năm 1990 và
đến năm 2050, phải nâng mức cắt giảm lên 50%. Nhóm này cũng yêu cầu
các nước phát triển đẩy mạnh những hoạt động hỗ trợ tài chính và công
nghệ nhằm giúp nhóm nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về phần mình, nhiều quốc gia trong nhóm nước phát triển viện cớ thu
nhập bình quân đầu người ở một vài nước đang phát triển thậm chí còn
cao hơn ở nước họ để gây sức ép buộc các nước đang phát triển cũng
phải đặt ra chỉ tiêu cam kết cắt giảm khí thải và nâng cao hiệu quả sử
dụng năng lượng.
Một yếu tố nữa gây chia rẽ giữa hai nhóm nước là hiệu quả hoạt động của
Quỹ cho các nước kém phát triển (LDC Fund). Trong bối cảnh khủng
hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, việc hỗ trợ cho các nước phát triển xem
ra càng khó thực hiện. Đó là chưa kể đến việc những khó khăn về kinh tế
khiến cho vấn đề chống biến đổi khí hậu có nguy cơ bị gạt xuống hàng thứ

yếu. Nhưng bất kể thế nào thì chống biến đổi khí hậu là cuộc chiến sống
còn cho một tương lai phát triển bền vững. Bởi vì, cái giá phải trả cho biến
đổi khí hậu là vô cùng khốc liệt. Đó là sinh mạng của hàng triệu người dân
do thiên tai, đó là sự nghèo đói dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác
khi mất kế sinh nhai.
Bởi vậy, điều quan trọng là phải gạt bỏ những bất đồng, tập trung nỗ lực
toàn cầu để đạt được mục tiêu cao nhất là tiến tới một công ước quốc tế,
thay thế Nghị định thư Kyoto về cắt giảm khí thải nhà kính, dự kiến sẽ diễn
ra tại Copenhagen - Đan Mạch vào tháng 12/2009.
1.3. Sự cần thiết phải phòng ngừa/ xử lý vấn đề ” biến đổi khí hậu và
mực nước biển dâng” nẩy sinh từ quá trình phát triển ở các quốc gia
phát triển và các quốc gia đang phát triển.
Các báo cáo của Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí
hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín
hàng đầu trên thế giới công bố trong thời gian gần đây cung cấp cho
chúng ta nhiều thông tin và dự báo quan trọng. Theo đó, nhiệt độ trung

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiu lun mụn hc: Qun lý mụi trng ụ th

bỡnh trờn b mt a cu m lờn gn 1C trong vũng 80 nm (t 1920 n
2005) v tng rt nhanh trong khong 25 nm nay (t 1980 n 2005).
Mi õy, ụng Mark Lowcok, quan chc ca B Phỏt trin Quc t Anh ó
n thm Vit Nam v cú bui thuyt trỡnh v Bỏo cỏo Stern do cỏc nh
khoa hc Anh xõy dng, c chớnh ph Anh cụng b v vn bin i
khớ hu ton cu. Bỏo cỏo cho rng nu khụng thc hin c chng
trỡnh hnh ng gim khớ thi gõy hiu ng nh kớnh theo Ngh nh th
Kyoto, n nm 2035 nhit b mt a cu s tng thờm 2C. V di

hn, cú hn 50% kh nng nhit tng thờm 5C.
Vỡ vy nu chỳng ta khụng cú nhng chớnh sỏch thớch hp hn ch
s bin i khớ hu v mc nc bin dõng cao thỡ chỳng ta s phi tr
giỏ t cho nhng gỡ chỳng ta ó lm trong mt tng lai khụng xa.
Phần 2. Thực trạng về vấn đề/thách thức môi trờng về việc
biến đổi khí hậu và mực nớc biển dâng cao ở Việt nam
2.1. Quỏ trỡnh ụ th húa, cụng nghip hoỏ v cỏc vn mụi trng
phỏt sinh ang din ra Vit Nam.
Trong hn 20 nm tin hnh cụng cuc i mi, quỏ trỡnh ụ th hoỏ
din ra ht sc nhanh chúng nht l trong 10 nm tr li õy, c bit
cỏc thnh ph ln nh H Ni, Nng v Thnh ph H Chớ Minh.
T nm 1990 cỏc ụ th Vit Nam bt u phỏt trin, lỳc ú c nc mi
cú khong 500 ụ th (t l ụ th hoỏ vo khong 17-18%), n nm 2000
con s ny lờn 649 v nm 2003 l 656 ụ th. Tớnh n nay, c nc cú
khong 700 ụ th, trong ú cú 5 thnh ph trc thuc trung ng, 44
thnh ph trc thuc tnh, 45 th xó v trờn 500 th trn. Bc u ó hỡnh
thnh cỏc chui ụ th trung tõm quc gia: Cỏc ụ th trung tõm quc gia
gm H Ni, Thnh ph H Chớ Minh, Hi Phũng, Nng, Hu. Cỏc ụ
th trung tõm vựng gm cỏc thnh ph nh: Cn Th, Biờn Ho, Vng Tu,
Buụn Ma Thut, Nha Trang, Nam nh, Thỏi Nguyờn, Vit Trỡ, H Long,
Ho Bỡnh Cỏc ụ th trung tõm tnh gm cỏc thnh ph, th xó gi chc
nng trung tõm hnh chớnh-chớnh tr, kinh t, vn hoỏ, du lch-dch v, u
mi giao thụng; v cỏc ụ th trung tõm huyn; ụ th trung tõm cm cỏc
khu dõn c nụng thụn, cỏc ụ th mi.
Hiện trạng môi trờng đô thị Việt Nam
Môi trờng đất
*** Sinh viờn: Lờ vn ụng - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiu lun mụn hc: Qun lý mụi trng ụ th


Năm 1997, đất ở đô thị khoảng 63.000 ha (chiếm 0,2% diện tích cả nớc);
năm 2003 đất ở đô thị khoảng 79.200 ha (chiếm 0,24%); tháng 1/2006 đất ở đô thị
là 106.700 (chiếm 0.32%). Dự báo đến năm 2010, diện tích đất đô thị khoảng
243.200 ha, chiếm 0,74% diện tích cả nớc; đến năm 2020, con số tơng ứng là
460.000 ha và 1,4% gấp 7 lần đất đô thị năm 1997. Vấn đề suy thoái và ô nhiễm
môi trờng đất nói chung, đất đô thị nói riêng, trớc hết là sự mất đất đai do sói mòn;
do hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt, du lịch, thơng mại,
giao thông, xây dựng.
Hiện tợng rửa trôi, xói mòn xảy ra trong những đô thị có địa hình đồi núi,
độ che phủ thấp, lợng ma và cờng độ ma lớn, tập trung. Ô nhiễm đất do hoạt đông
nông nghiệp xảy ra ở hầu hết các đô thị. Việc sử dụng một lợng lớn phân bón hoá
học, thuốc bảo vệ thực vật đã gây ra nhiều tác động xấu tới môi trờng đô thị trong
đó có môi trờng đất. Do các ngành công nghiệp lạc hậu, lợng nguyên vật liệu tiêu
hao nhiều và mức độ gây ô nhiễm môi trờng lớn, lại thiếu các thiết bị xử lí nớc
thải, khí thải, nên các đô thị có diện tích đất công nghiệp càng lớn thì mức độ ô
nhiễm môi trờng càng lớn bởi chất thải công nghiệp càng cao, trong đó có môi trờng đất. Đất bị tích tụ các hoá chất độc, kim loại nặng, thay đổi thành phần và tính
chất đất, ảnh hớng tới con ngời và động thực vật thông qua nguồn nớc và thức ăn.
Ngoài ra, tất cả các hoạt động khác của đô thị đều gây suy thoái và ô nhiễm môi tr ờng đất do chất thải không đợc thu gom và xử lí.
Giải pháp: Hạn chế tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp (có chất lợng tốt) để
xây dựng đô thị; Giữ gìn và bảo vệ các hệ sinh thái trong xây dựng, cải tạo và phát
triển các khu đô thị.
Môi trờng nớc
Hạ tầng kĩ thuật cấp thoát nớc ở các đô thị còn nhiều yếu kém. Cấp nớc mới
chỉ đạt 47%; tiêu chuẩn cấp nớc sạch thấp; tình hình thất thoát, thất thu của hệ
thống cấp nớc đô thị trong cả nớc còn rất cao, với tỉ lệ bình quân khoảng 40%,
trong đó: Hà Nội thất thoát 52%, Trà Vinh 50%; thấp nhất là Huế, Đà Lạt, Vũng
Tàu thì con số này cũng vào khoảng 20-25% mà nguyên nhân chủ yếu là do mạng
lới đờng ống cũ, chất lợng ống kém, thờng xuyên bị vỡ và rò rỉ; không có sự phối
hợp giữa các cơ quan trong việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng....

Chất lợng nguồn nớc (kể cả nớc mặt và nớc ngầm) có xu hớng ngày càng
xấu đi. ở hầu hết các đô thị, nguồn nớc phải tiếp nhận một lợng lớn nớc thải sinh
hoạt, nớc thải công nghiệp không qua xử lí tập trung hoặc chỉ xử lí cục bộ, sơ bộ ở
một số bể tự hoại. Kết quả vợt quá khả năng tự làm sạch của nguồn nớc nh sông
Kim Ngu, sông Tô Lịch, sông Sét, sông Lừ ở Hà Nội, các kênh Tham Luông, Thị
*** Sinh viờn: Lờ vn ụng - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiu lun mụn hc: Qun lý mụi trng ụ th

Nghè, sông Sài Gòn, ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống thoát nớc chủ yếu vẫn là
hệ thống thoát nớc chung. Hệ thống ao, hồ, kênh, rạch ở đô thị bị ô nhiễm nặng,
đặc biệt là các sông chảy qua khu công nghiệp ở thành phố lớn.
Ví dụ về chất lợng nớc các sông ở phía Bắc:
Đoạn sông Hồng tại Lào Cai, Hà Nội, các chỉ tiêu NH 4+, NO2 vợt quá chỉ
tiêu cho phép 1,5-2 lần. Tại khu vực điểm xả nhà máy giấy Bãi Bằng, hàm lợng
NH4+ cũng cao hơn tiêu chuẩn cho phép đối với nớc mặt loại A từ 2-24 lần. Đoạn
sông Hồng từ Diên Hồng tới ngã ba Việt Trì, NH4+ vợt 2 lần, NO2 vợt 1,4 lần; Tại
cầu Việt Trì, NO2 cao hơn tiêu chuẩn cho phép đối với nớc mặt loại A từ 4-20 lần.
Tại sông Cầu, thuộc khu vực Thái Nguyên hàm lợng NO2 cao hơn tiêu chuẩn cho
phép đối với nguồn nớc loại A là 5-10 lần, hàm lợng NH4+ cao hơn tiêu chuẩn cho
phép đối với nguồn nớc loại A là 2 lần, hàm lợng NO2 cao hơn tiêu chuẩn đối với
nguồn nớc loại A là 7-20 lần. Sông Thơng tại khu vực cầu Bắc Giang đặc biệt lợng
NO2 vợt 7-200 lần tiêu chuẩn cho phép đối với nguồn nớc loại A.
Các xí nghiệp công nghiệp, bệnh viện cũng xả nớc trực tiếp thải ra kênh mơng, không qua xử lí sơ bộ. Một vài xí nghiệp, bệnh viện tuy có trạm xử lí nớc thải,
nhng do nhận thức và kĩ thuật bảo dỡng kém nên các trạm xử lí này cũng không
hoạt động nh bệnh viện Thanh Nhàn, bệnh viện Việt Tiệp, nhà máy dệt Minh Phơng, giấy Bãi Bằng, Cơ khí công cụ Hà Nội.
Giải pháp bảo vệ nguồn nớc: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cấp thoát nớc đô thị, các khu xử lí nớc thải tập trung; Qui hoạch khai thác, sử dụng hợp lí
nguồn nớc; Đầu t các dự án nớc phải cân đối giữa tăng công suất nguồn nớc và
mạng tiêu thụ; Đối với những hệ thống cấp nớc cũ phải đợc cải tạo, thay thế mạng

ống truyền dẫn và phân phối.
Môi trờng không khí, tiếng ồn và môi trờng giao thông
Ô nhiễm môi trờng không khí đang là một vấn đề nổi cộm ở các đô thị hiện
nay. Theo thống kê, hàm lợng bụi trong không khí cao gấp từ 10-60 lần giá trị cho
phép; nồng độ bụi lơ lửng trong không khí quá lớn đã và đang gây ảnh hởng tới
chất lợng môi trờng không khí đô thị và sức khoẻ ngời dân. Nguồn phát thải các
chất ô nhiễm tơng đối nhiều và đa dạng, chủ yếu do hoạt động sản xuất công
nghiệp, giao thông, hoạt động sinh hoạt của dân c và sự yếu kém của hệ thống hạ
tầng kĩ thuật đô thị. Lợng phát thải của các phơng tiện giao thông ở các nớc phát
triển chiếm 1/3 tổng lợng phát thải do giao thông trên thế giới. Song mức độ
nghiêm trọng về ô nhiễm vẫn tập trung chủ yếu ở các nớc đang phát triển và một
số đô thị của các nớc phát triển.

*** Sinh viờn: Lờ vn ụng - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiu lun mụn hc: Qun lý mụi trng ụ th

Trong các đô thị hiện nay, mức độ ô nhiễm tiếng ồn đang có xu hớng gia
tăng, nhất là các đô thị lớn. Nguồn ồn chủ yếu do hoạt động giao thông và sinh
hoạt đô thị. Mức ồn do giao thông thờng có giá trị xấp xỉ hoặc cao hơn tiêu chuẩn
cho phép từ 1-15 dBA. Nguyên nhân chủ yếu do trong các đô thị còn tồn tại nhiều
phơng tiện giao thông cũ lu hành, cơ sở hạ tầng kĩ thuật thấp kém.
Cùng với ô nhiễm tiếng ồn là hiện tợng ùn tắc giao thông diễn ra phổ biến ở
các đô thị lớn. Tai nạn giao thông xảy ra khắp nơi dới mọi hình thức, mọi loại phơng tiện. Theo thông kê, mỗi ngày cả nớc có trên dới 30 ngời chết do tai nạn (trong
2 năm trở lại đây) và con số này vẫn tiếp tục tăng. Nguyên nhân chủ yếu do cơ sở
hạ tầng giao thông kém, số lợng và lu lợng xe ngày càng cao, ý thức chấp hành luật
giao thông của ngời dân kém.
2.2. Nguyờn nhõn gõy ra vn bin i khớ hu v mc nc bin
dõng cao.

Nguyờn nhõn trc tip ca s bin i khớ hu l do phỏt thi quỏ mc
khớ nh kớnh, c bit l CO2 t vic t mt khi lng ln cha tng cú
cỏc nhiờn liu hoỏ thch nh than ỏ, du m, khớ t trong quỏ trỡnh phỏt
trin cụng nghip. Tỡnh trng phỏ rng v khai thỏc g thiu bn vng
cng l nguyờn nhõn to ra hn 20% phỏt thi khớ nh kớnh trờn ton cu.
Mt s hỡnh thc canh tỏc, chn nuụi, giao thụng vn ti, thúi quen s
dng nng lng nhiờn liu khụng tỏi to v cỏc sn phm t rng ó lm
tng ỏng k lng khớ nh kớnh, lm cho nhit trỏi t núng lờn to ra
cỏc bin i khớ hu trờn ton cu. S tng ca nhit trỏi t n n
hin tng bng tan v lm cho mc nc bin dõng cao.
2.3. tỏc ng ca Bin i khớ hu v mc nc bin dõng cao ti
cht lng mụi trng sng v sc kho cng ng.
Vit Nam, trong thi gian qua, din bin ca khớ hu cng cú nhng
nột tng ng vi tỡnh hỡnh chung trờn th gii. BKH tỏc ng ti tt c
cỏc vựng, min, cỏc lnh vc v ti nguyờn, mụi trng v kinh t - xó hi,
nhng trong ú ti nguyờn nc, ngnh nụng nghip v phỏt trin nụng
thụn, y t v cỏc vựng ven bin s chu tỏc ng mnh nht.
Tỏc ng ca BKH ti ti nguyờn nc
Vit Nam c xp vo nhúm cỏc quc gia thiu nc vi tng bỡnh quõn
u ngi c nc mt v nc ngm trờn phm vi lónh th l 4.400
m3/ngi/nm (so vi bỡnh quõn th gii l 7.400 m3/ngi, nm). Trong
khai thỏc, s dng ti nguyờn nc, Vit Nam cú nhiu yu t khụng bn
vng.
S suy thoỏi ti nguyờn nc ngy mt tng v c s lng v cht lng
do nhu cu v nc ngy mt ln, khai thỏc, s dng ba bói, thiu quy
hoch v c bit l s suy gim n mc bỏo ng ca rng u ngun.

*** Sinh viờn: Lờ vn ụng - MSSV: 40.0425.K40G ***



Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Dưới tác động của BĐKH, khi nhiệt độ trung bình tăng, độ bất thường của
thời tiết, khí hậu và thiên tai gia tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tài nguyên
nước ngọt ở các khía cạnh sau:
- Nhu cầu nước sinh hoạt cho con người, nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, năng lượng, giao thông... đều tăng. Bên cạnh đó,
lượng bốc hơi nước của các thủy vực (hồ ao, sông, suối...) cũng tăng. Hậu
quả dẫn đến là sự suy thoái tài nguyên nước cả về số lượng và chất
lượng sẽ trở nên trầm trọng hơn.
- Những thay đổi về mưa, sẽ dẫn tới những thay đổi về dòng chảy của các
con sông và cường độ các trận lũ, tần suất và đặc điểm của hạn hán,
lượng nước ngầm. Theo dự đoán, BĐKH sẽ làm giảm đáng kể lượng
nước trong các con sông ở nhiều vùng trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
- Khi băng tuyết ở các cực và đỉnh núi cao tan sẽ làm tăng dòng chảy ở
các sông và làm tăng lũ lụt. Khi các băng trên núi cạn, lũ lụt sẽ giảm đi
nhưng khi đó các dòng chảy cũng giảm dần, thậm chí cạn kiệt. Nạn thiếu
nước sẽ trầm trọng hơn. Điều này rất đặc trưng cho các nước châu Á với
nguồn nước sông ngòi phụ thuộc nhiều vào nước thượng nguồn.
Tác động của BĐKH tới lĩnh vực nông nghiệp
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam còn phụ thuộc rất nhiều vào
thời tiết. Khi nhiệt độ, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu
tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt. Sự
bất thường của chu kỳ sinh khí hậu nông nghiệp không những dẫn tới sự
tăng dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất mùa màng, mà còn có thể
gây ra các rủi ro nghiêm trọng khác.
Trong thời gian qua, ở nhiều địa phương, mùa màng đã bị mất trắng do
thiên tai (lũ lụt và hạn hán).
Tác động của BĐKH tới tài nguyên ĐDSH rừng
Việt Nam có ĐDSH cao, có các hệ sinh thái (HST) đa dạng. Tuy nhiên

trong thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau, ĐDSH, các HST,
đặc biệt là các HST rừng - HST có ĐDSH cao nhất bị suy thoái trầm trọng.
Diện tích rừng giảm rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm
trọng (giảm 80% diện tích) do bị chuyển đổi thành các ao đầm nuôi trồng
thủy hải sản thiếu quy hoạch. Trong những năm gần đây, rừng tuy có tăng
lên về diện tích, nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ khoảng 8% (so
với 50% của các nước trong khu vực).
Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam để ứng phó với BĐKH trong
các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước ĐDSH nhằm
tăng cường hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các HST rừng trong giảm
thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước và giảm phát thải CO2.
Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã
sinh vật của nhiều HST. Các loài nhiệt đới sẽ giảm đi trong các HST ven
biển và có xu hướng chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các
HST trên cạn.
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Nhiệt độ tăng, còn làm gia tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng
trên đất than bùn, vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng
phát thải khí nhà kính và làm gia tăng BĐKH.
Tác động của BĐKH tới tài nguyên đất
Trong thời gian gần đây, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do sức ép
dân số, đô thị hóa, công nghiệp hóa và bị chuyển đổi mục đích sử dụng.
Hiện tượng xói mòn, rửa trôi, hoang mạc hóa và ô nhiễm do hóa chất
nông nghiệp ngày càng gia tăng.
Dưới tác động của BĐKH, nhất là nước biển dâng làm mất đi nơi ở của cư
dân và phần đất màu mỡ nhất cho sản xuất nông nghiệp sẽ là thách thức

lớn cho ngành nông nghiệp. Thiên tai, bão, lũ gia tăng sẽ làm tăng hiện
tượng xói mòn, rửa trôi, sạt lở bờ sông, bờ biển, bồi lắng lòng dẫn ảnh
hưởng nghiêm trọng tới tài nguyên đất. Hiện tượng thiếu nước và hạn hán
sẽ dẫn tới hoang mạc hóa, đặc biệt là các tỉnh miền Trung.
Tác động của BĐKH tới sức khỏe
Báo cáo gần đây nhất của Ủy ban liên quốc gia về BĐKH đã khẳng định,
BĐKH gây ra tử vong và bệnh tật thông qua hậu quả của các dạng thiên
tai như sóng nhiệt/nóng, bão, lũ lụt, hạn hán... Do nhiều bệnh sẽ gia tăng
dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh, nhất là các bệnh
truyền qua vật trung gian như sốt rét (do muỗi truyền), sốt xuất huyết
(muỗi), viêm não (muỗi) qua môi trường nước (các bệnh đường ruột), và
các bệnh khác (suy dinh dưỡng, bệnh về phổi…). Những bệnh này đặc
biệt ảnh hưởng lớn tới các vùng kém phát triển, đông dân và có tỷ lệ đói
nghèo cao.
Đặc biệt, ở Việt Nam, trong thời gian qua cũng xuất hiện một số bệnh mới
ở người và động vật (tả, cúm gia cầm, bệnh tai xanh...) nhiều bệnh có diễn
biến phức tạp và bất thường hơn (sốt xuất huyết) và gây ra những thiệt hại
đáng kể.
Tác động của BĐKH tới vùng ven biển (VVB)
VVB cũng sẽ là nơi chịu tác động nặng nề nhất của thiên tai mà trước hết
là bão, sóng thần, lũ lụt gây những tổn thất năng nề về nguời và tài sản.
Chỉ tính riêng năm 2006, thiệt hại do bão gây ra ở Việt Nam lên tới 1,2 tỷ
USD.
Nước biển dâng gây hiện tượng ngập lụt, mất nơi ở và diện tích sản xuất
(nông nghiệp, thủy sản và làm muối), gây nhiễu loạn các HST truyền
thống. Hiện tượng xâm nhập mặn sẽ gia tăng, các HST đất ngập nước
ven biển, nhất là rừng ngập mặn, môi trường sống của các loài thủy hải
sản, bức tường chắn sóng và giảm tác động của sóng, bão, nguồn sống
hàng ngày của cộng đồng địa phương sẽ bị thu hẹp nhanh chóng. Các cơ
sở hạ tầng nhất là các cảng, khu công nghiệp, giao thông sẽ bị tác động

mạnh, thậm chí phải cải tạo, nâng cấp hoặc di dời.
Nước biển dâng và nhiệt độ tăng sẽ làm ảnh hưởng lớn tới các rạn san
hô, HST có tính đa dạng cao và có ý nghĩa quan trọng đối với tự nhiên và
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

đời sống con người, lá chắn hiệu quả chống xói mòn bờ biển và rừng
ngập mặn. San hô là các động vật rất nhạy cảm với các yếu tố sinh thái,
nhất là nhiệt độ và chất lượng nước. Nhiệt độ nước biển chỉ cần tăng một
vài độ, san hô có thể chết hàng loạt. Hiện nay đã có khoảng 30 quốc gia
báo cáo có nguy cơ bị mất san hô.
Tác động của BĐKH tới an ninh môi trường/an ninh quốc gia
BĐKH còn có thể ảnh hưởng tới an ninh môi trường nói riêng, an ninh
quốc gia nói chung, tập trung ở những vấn đề sau:
- Sử dụng chung nguồn nước: Việt Nam có khoảng 2/3 tổng lượng nước
là từ bên ngoài lãnh thổ chảy vào. Việc sử dụng nước phía thượng nguồn,
việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện của các quốc gia trên
thượng nguồn các sông lớn (sông Hồng, sông Cửu Long) sẽ là một khó
khăn rất lớn cho chúng ta trong sử dụng nguồn nước và bảo vệ môi
trường. BĐKH sẽ làm suy thoái tài nguyên nước, trong khi nhu cầu dùng
nước của các quốc gia đều tăng lên, làm tăng các bất đồng và xung đột có
thể có trong sử dụng chung nguồn nước.
- Tị nạn môi trường/khí hậu (trong nước và quốc tế) do mất nơi ở hoặc do
bệnh tật và nghèo đói. Có những cảnh báo cho rằng, vấn đề tị nạn khí hậu
không chỉ đơn thuần là vấn đề xã hội, kinh tế mà có thể còn là vấn đề
chính trị, chiến tranh.
- An ninh sinh thái do sự nhiễu loạn của nhiều HST, sự xâm lấn của các
sinh vật lạ và sinh vật biến đổi gen.

Tác động của BĐKH tới cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng ở đây được hiểu là những công trình xây dựng thuộc tất cả
các lĩnh vực của đời sống và sản xuất như xây dựng, năng lượng, giao
thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch - dịch vụ. Đặc trưng của
những đối tượng này là thời gian tồn tại tương đối dài, có thể hàng thế kỷ
và chịu tác động trực tiếp và liên tục của khí hậu, thời tiết, và hiện nay là
BĐKH với xu hướng ngày càng gia tăng.
BĐKH sẽ tác động tới tính tiện nghi, tính hữu dụng, sức chịu tải, độ bền,
độ an toàn của các công trình được thiết kế.
Vì vậy, cần đánh giá tác động của BĐKH cho từng loại cơ sở hạ tầng trong
từng địa phương cụ thể để có các giải pháp thích ứng phù hợp là điều
quan trọng.
2.4.Thực trang biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng tại Việt Nam
Việt Nam có 3.260 km bờ biển với 28/64 tỉnh, thành phố có biển. Kinh tế biển
đã trở thành một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược kinh tế đất
nước. Biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, song đối với
một nước có đường bờ biển dài và hai đồng bằng châu thổ lớn thì mối đe doạ do
biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao sẽ thực sự nghiêm trọng. Các vùng ven
biển Việt Nam sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu gây ra như
bão, lũ lụt, xói lở bờ biển và xâm nhập mặn…Đó cũng là nguyên nhân làm chậm

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực, tăng tỷ lệ nghèo khổ và làm giảm khả
năng ứng phó đối với các thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra.
Đối với nước ta, các tác động của biến đổi khí hậu ban đầu có thể nhận thấy
được thông qua những thay đổi về khí hậu theo mùa ở các vùng miền khác nhau;

lượng mưa và mùa mưa cũng sẽ thay đổi... Tuy nhiên, thách thức lớn nhất lại là
khi mực nước biển dâng cao. Dải ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long
và Đồng bằng sông Hồng - Thái Bình, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước,
mật độ dân cư cao và tập trung, địa hình bằng phẳng và thấp (80% diện tích Đồng
bằng sông Cửu Long và 30% diện tích Đồng bằng sông Hồng có độ cao dưới 2,5m
so với mặt nước biển). Những ảnh hưởng đầu tiên là gia tăng nguy cơ xâm nhập
mặn, tình trạng ngập lụt trong mùa mưa bão, xói lở bờ biển, phá vỡ các hệ thống
đê biển, hồ chứa nước và nhấn chìm những cánh đồng lúa ở vùng đồng bằng ven
biển, gây tổn hại nhiều hơn đối với các khu vực đất ngập nước, rạn san hô, các hệ
sinh thái và những ảnh hưởng quan trọng khác đến đời sống của người
dân. Các nguy cơ đe doạ Việt Nam:
- Nguy cơ thiếu nước ngọt và xâm nhập mặn
- Bão và nước dâng do do bão
- Nguy cơ xói lở
- Sản xuất nông nghiệp, thuỷ hải sản và du lịch
- Đa dạng sinh học và hệ sinh thái
- Giao thông và cơ sở hạ tầng
- Nước sạch và vệ sinh môi trường
2.5. Xu hướng tương lai nếu không có can thiệp sẽ dẫn tới các hậu
quả đối với: Chất lượng môi trường; đối với sức khoẻ cộng đồng; đối
với sự phát triển chung của quốc gia.
Thời kỳ băng hà cuối cùng của địa cầu trong kỷ Đệ tứ (băng hà Wurm 2)
lạnh nhất cách đây khoảng 18.000 năm. Thời đó, biển lùi xa về phía đông.
Các tài liệu khoan thăm dò dầu khí đã ghi nhận dấu vết đường bờ biển
thời đó nằm trên thềm lục địa ở độ sâu 100-120 m so với mực nước biển
hiện tại. Thời đó, toàn bộ vùng Vịnh Bắc Bộ và thềm Sunda (nối liền Nam
Bộ Việt Nam với Indonesia), vịnh Thái Lan còn là đất liền. Nhiệt độ trung
bình hàng năm ở Việt Nam vào thời băng hà lạnh nhất đó dự đoán thấp
hơn so với ngày nay khoảng 5-7°C. Băng bắt đầu tan và mực nước biển
bắt đầu dâng lên từ khoảng 15.000 năm cách nay. Nhiệt độ Trái đất cũng

như đường bờ biển đạt đến mức như bây giờ vào khoảng 10.000 năm
cách nay. Tuy nhiên, Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên và băng tiếp tục tan,
biển vẫn tiến lấn sâu hơn vào so với đường bờ hiện tại. Nhiều bằng chứng
thực vật ở Đông Nam Á cho thấy, nhiệt độ trung bình ấm hơn ngày nay
chừng 2°C ở khoảng 8.000 năm cách nay, nhưng phải đến khoảng 6.0005.000 năm cách nay, băng mới ngừng tan và nước biển mới dừng ở độ
cao 4-6 m so với mực nước biển ngày nay (biển tiến Flanđri).

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Các nhà nghiên cứu khảo cổ Việt Nam đã phát hiện nhiều bằng chứng về
con người trong lịch sử đã chịu ảnh hưởng của các đợt biển tiến do nhiệt
độ Trái đất ấm lên đó. Do mực nước biển dâng cao hơn ngày nay 4-6 m,
biển lấn sâu vào lục địa có chỗ tới hàng trăm km. Dấu tích đường bờ biển
đương thời xuất lộ ngay ở sát rìa Hà Nội, đến tận sát chân các dãy núi đá
vôi thuộc Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa và các tỉnh miền Trung. Biển phủ
ngập hầu như toàn bộ đồng bằng Nam Bộ. Sau đó, biển đã rút, để lại một
đồng bằng phù sa màu mỡ vào khoảng 3800-3500 năm cách nay, tạo điều
kiện cho sự xuất hiện nở rộ những làng trồng lúa sớm trong lịch sử Việt
Nam. Nhưng đến khoảng 3200 năm, các nhà khảo cổ phát hiện những
chứng cứ cư dân đương thời rời chân núi lên cư trú trên các đỉnh núi cao
trong các đồng bằng ven biển từ Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình ra đến
Quảng Ninh. Thức ăn họ để lại trên các chỏm núi đá đó bao gồm nhiều
loại nhuyễn thể biển. Điều đó phản ánh một đợt biển tiến có tính đột biến
đã diễn ra. Những tài liệu nghiên cứu chi tiết về địa chất học và khảo cổ
học còn cho biết, từ đó đến nay, xu hướng chung là biển lùi, song vẫn có
một số chu kỳ tiến, lùi với biên độ dao động mực nước biển trên dưới 2-3
m vào khoảng trước 3000 năm, sát trước và sau công nguyên và khoảng

1000-1200 năm sau công nguyên đến nay.
Những điều trình bày sơ lược trên đây cho thấy, nếu chu kỳ biển tiến, lùi
với biên độ thời gian khoảng 800-1000 năm thì hiện tại chúng ta đang ở
đoạn cuối của chu kỳ biển tiến hiện đại, không loại trừ tốc độ sẽ nhanh
hơn nhiều hoặc có đột biến. Như vậy, mực nước biển dâng đang xảy ra
nằm trong chu trình chung của biến động, cộng thêm tác động nhanh do
hiệu ứng nhà kính gây ra, làm cho chúng ta phải nhìn nhận vấn đề một
cách cảnh giác hơn, chứ không phải ngược lại. Dù nguyên nhân nào thì
việc nhận thức được để có kế hoạch ứng phó, vì sự tồn tại và phát triển
bền vững cho mỗi quốc gia dân tộc cũng như toàn nhân loại là điều con
người có thể và cần phải làm.
Trong tình hình biển tiến hiện nay, mực nước biển chỉ cần dâng thêm 1 m
thì sẽ gây nên hiểm họa lớn đối với các nước có vùng dân cư và đời sống
kinh tế tập trung ở các vùng đồng bằng thấp dọc ven biển. Việt Nam là một
trong những nước sẽ bị tác động lớn; khi đó sẽ có đến 10,8% dân số Việt
Nam bị tác động nặng nề, do có 2 đồng bằng thấp chủ yếu là đồng bằng
Sông Hồng và đồng bằng Cửu Long.
Về phía Việt Nam, chúng ta thấy gì và nghĩ gì về những hiểm họa này
trước thực tế và thực tiễn Việt Nam ? Những biến động thời tiết bất
thường gây thiệt hại lớn cho đời sống dân cư và đất nước mà chúng ta gọi
là thiên tai cần được nghiên cứu, xem xét theo chiều hướng có sự báo
động toàn cầu về gia tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất và mực nước biển ngày
càng dâng cao: nhiệt độ khí quyển và thủy quyển tăng lên kéo theo những
biến động khác thường (hiện tượng El Nino) làm cho chế độ thời tiết gió
mùa bị xáo động bất thường; bão có xu hướng gia tăng về cường độ, bất
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị


thường về thời gian và hướng dịch chuyển; thời tiết mùa đông nói chung
ấm lên, mùa hè nóng thêm; xuất hiện bão lũ và khô hạn bất thường. Hiện
tượng ngập úng vùng đồng bằng châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các
dòng sông tăng cường xâm thực ngang gây sạt lở lớn các vùng dân cư
tập trung ở 2 bờ trên nhiều khu vực từ Bắc chí Nam. Hiện tượng này cũng
đồng thời tạo cồn, bãi bồi, lấp dòng chảy các sông, nhánh sông ở vùng hạ
du; ở những sông đã xây dựng hệ thống đê kiên cố thì có hiện tượng bồi
lấp ngay chính dòng sông cũng như tuyến khống chế giữa hai bờ đê, tạo
nên thế địa hình ngược; những dòng sông nổi cao hơn cả đồng bằng hai
bên sông. Vào mùa khô, hiện tượng phổ biến là nước triều tác động ngày
càng sâu về phía trung du, hiện tượng nhiễm mặn ngày càng tiến sâu vào
lục địa.
Ở vùng ven biển, đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng
hình phễu (hiện tượng estuary) trên những diện rộng, nhất là ở hạ du các
hệ thống sông nghèo phù sa. Rõ nhất là vùng hạ du hệ thống sông Thái
Bình - Bạch Đằng, ở vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống
sông Đồng Nai, ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí
Minh. Vào mùa khô, các nhánh sông và dòng sông ở các khu vực này đã
không thể đóng vai trò tiêu thoát nước về phía biển, biến thành những
dòng sông, kênh tù đọng với mức độ ô nhiễm nhân tạo gây nguy hại cho
đời sống của những vùng dân cư đông đảo (thuộc diện này có thể kể đến
cả vùng rộng lớn thuộc các lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, Châu Giang ở
phía tây nam Hà Nội và các tỉnh Hà Tây, Hà Nam, Nam Định và Ninh
Bình).
Hiện tượng sạt lở bờ biển trên nhiều đoạn kéo dài hàng chục, hàng trăm
km với tốc độ phá hủy bờ sâu vào đất liền hàng chục, thậm chí hàng trăm
mét, là hiện tượng xảy ra thường xuyên trong nhiều năm gần đây, liên
quan đến sự tàn phá do gia tăng bão, sóng lớn và sự thay đổi của động
lực biển ở đới bờ. Hiện tượng hình thành các cồn cát chắn và tái trầm tích
bồi lấp luồng vào các cửa sông, gây trở ngại lớn cho hoạt động vận tải ra

vào các cảng biển, khiến cho những công trình nạo vét rất tốn kém đều
nhanh chóng bị vô hiệu hóa.
Theo báo cáo Phát triển con người 2008 do UNDP tại VN và Bộ TN – MT
công bố ngày 28/11 tại Hà Nội: Riêng ở Việt Nam, nước biển dâng sẽ
khiến 22 triệu người Việt Nam mất nhà cửa với thiệt hại lên tới 10% GDP.
Lũ lụt và bão tố mạnh hơn cũng có thể làm chậm những tiến bộ trong phát
triển con người ở những vùng dân cứ chính yếu, kể cả Đồng bằng sông
Cửu Long.
Báo cáo cũng cho thấy, biến đổi khí hậu gây đe dọa với Việt Nam ở nhiều
cấp. Lượng mưa dự kiến sẽ gia tăng và Việt Nam sẽ đối mặt với những
trận bão nhiệt đới mạnh hơn. Mực nước biển dự kiến sẽ dâng cao 33 cm
vào năm 2050 và 1 m vào năm 2100.

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

“Với ĐBSCL thấp trũng, đây là một dự báo rất ảm đạm. Mực nước biển
dâng cao như dự báo vào năm 2030 sẽ khiến khoảng 45% diện tích đất
của khu vực này có nguy cơ nhiễm mặn cực độ và thiệt hại mùa màng do
lũ lụt. Năng suất lúa dự báo sẽ giảm 9%. Nếu mực nước biển dâng cao
1m, phần lớn ĐBSCL sẽ hoàn toàn ngập trắng nhiều thời gian dài trong
năm”
Biến đổi khí hậu cũng làm một diện tích rộng lớn của đồng bằng sông Mê
Công, sông Hồng và ven biển miền Trung bị ngập lụt do nước biển dâng.
Nước biển dâng cũng ảnh hưởng đến vùng đất ngập nước của bờ biển
Việt Nam, nghiêm trọng nhất là các khu vực rừng ngập mặn của Cà Mau,
TP.HCM, Vũng Tàu và Nam Định.
Về khí hậu, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 độ C/thập kỷ. Trong

một số tháng mùa hè, nhiệt độ tăng khoảng 0,1 – 0,3 độ C/thập kỷ. Mua
lớn thường xuyên hơn.
Báo cáo cũng cho biết sự biến đổi này còn gây những tác động lớn đối với
phát triển con người ở ĐBSCL. Theo đó, dù mức đói nghèo đã và đang
giảm nhưng hiện vẫn còn 4 triệu người đói nghèo ở ĐBSCL. Đối với nhóm
này, sự sụt giảm nhỏ về thu nhập hay mất cơ hội việc làm do lũ lụt sẽ gây
hậu quả nghiêm trọng đối với dinh dưỡng, sức khỏe và giáo dục.
Một số phác thảo kịch bản BĐKH ở Việt Nam đã được công bố tại Hội
thảo BĐKH toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tại Hà Nôi tháng
2/2008, được trình bày tóm tắt dưới đây.
Bảng 1.Thông báo Quốc gia về Biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm
1990)
Năm
2010
2050
2100
Bảng 2.Kịch bản
với năm 1990)

Nhiệt độ tăng thêm(0C)
Mực nước biển tăng thêm (cm)
0,3-0,5
9
1,1-1,8
33
1,5-2,5
45
BĐKH các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so

Năm


Tây
Bắc

Đông
Bắc

2050
2100

1,41
3,49

1,66
4,38

Đồng
bằng
BB
1,44
3,71

Bắc
Trung
Bộ
1,68
3,88

Nam
Trung

Bộ
1,13
2,77

Tây
Nam
nguyên Bộ
1,01
2,39

1,21
2,80

PHẦN 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẢI THIỆN SỰ BIẾN ĐỔI KHÍ
HẬU VÀ MỰC NƯỚC BIỂN DÂNG CAO Ở VIỆT NAM

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Trước nguy cơ ảnh hưởng và cảnh báo về biến đổi khí hậu và nước
biển dâng, Việt Nam cần làm gì để ứng phó với hiểm họa này. Các
hành động trước mắt và lâu dài cần được xem xét và cân nhắc kỹ
nhằm thích ứng và giảm nhẹ những tác động bất lợi cho nền kinh tế
và đời sống con người. Các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
của Việt Nam gồm:
1) Chấp nhận tổn thất: Phương pháp thích ứng này là phản ứng cơ
bản “không làm gì cả”.
2) Chia sẻ tổn thất: Chia sẻ tổn thất giữa cộng đồng dân cư, bảo

hiểm.
3) Làm thay đổi nguy cơ: giảm nhẹ biến đổi khí hậu.
4) Ngăn ngừa các tác động: Thích ứng từng bước và ngăn chặn các
tác động của biến đổi khí hậu và bất ổn của khí hậu.
5) Thay đổi cách sử dụng: biến đổi khí hậu khiến các hoạt động kinh
tế không thể thực hiện thì có thể thay đổi cách sử dụng.
6) Thay đổi/chuyển địa điểm: thay đổi/chuyển địa điểm của các hoạt
động kinh tế.
7) Nghiên cứu: phát triển công nghệ mới và phương pháp mới về
thích ứng.
8) Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: Phổ biến
kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo
dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi.
3.1. Đề xuất kỹ thuật.
 Hạn chế sử dụng phân bón hoá học và thuốc bảo vệ thực vật có
hại cho môi trường.
 Thay thế dần các dây truyền công nghệ sản xuất lạc hậu, các
loại nhiên liệu gây ô nhiễm môi trường bằng nhiên liệu sạch.
 khuyến khích sử dụng công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng,
hướng tới nền công nghiệp sinh thái.
 Lắp đặt các phương tiện, thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường trong
sản xuất.
3.2. Đề xuất thể chế, pháp lý.
 Gải pháp về quy hoạch
Hạn chế xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp trong nội thị,
nằm đầu hướng gió chủ đạo, đầu nguồn nước.
Cần có quy hoạch tổng thể, có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ
quan thi công, lắp đặt cơ sở hạ tầng, tránh sự làm đường, làm cống
cấp nước xong rồi lại đào lên để sửa chữa…vừa gây tốn kém vừa làm
ô nhiễm môi trường và nguồn nước

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

Đình chỉ hoặc di dời các nhà máy xí nghiệp gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng mà không có giải pháp khắc phục ra khỏi khu
vực nội thị.
Từng bước qui hoạch, quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại,
trong đó ưu tiên qui hoạch các bãi chon lấp hợp vệ sinh, xây dựng
một số cơ sở tái chế và xử lý chất thải rắn.
 Các giả pháp về cơ chế chính sách:
Nhà nước cần có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật bảo vệ môi trường một cách tối ưu, ưu tiên xây dựng các khu
xử lý chất thải rắn công nghiệp nguy hại, hệ thống cấp-thoát nước và
xử lý nước thải, phát triển và hoàn thiện hệ thống giao thong công
cộng.
 Các giải pháp về quản lý:
Nâng cao năng lực quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
Tăng cường quản lý, kiểm soát chất lượng môi trường các thành
phần theo tiêu chuẩn Việt Nam. Xây dựng và mở rộng các tram quan
trắc môi trường theo hệ thống các sông lớn.
Đẩy mạnh hơn nữa công tác trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi
núi trọc, bảo tồn đa dạng sinh học.
Đa dạng trong quản lý: dung nhiều biện pháp, công cụ như luật
pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, tuyên truyền giáo
dục…
3.3. Đề xuất chính sách hỗ chợ.
Trong lĩnh vực môi trường, đã có nhiều hình thức tài chính hỗ trợ cho
việc triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường như Chương trình Tín

dụng xanh do các ngân hàng tại Việt Nam cung cấp, Quỹ Bảo vệ Môi
trường Việt Nam, Quỹ Tín dụng Xanh do Chính phủ Thuỵ Sĩ tài trợ, Quỹ
DANIDA của Chính phủ Đan Mạch, Chính phủ Hà Lan, Quỹ Môi trường
toàn cầu, Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra còn có rất nhiều chương trình, dự
án hợp tác quốc tế khác triển khai các hoạt động nghiên cứu và thích ứng
với biến đổi khí hậu huy động từ nhiều nguồn phi chính phủ, tư nhân khác.
Cần đa dạng hóa các hình thức cho vay, hỗ trợ vốn, cho vay với lãi
suất ưu đãi, tài trợ hoặc cho vay có hoàn trả; thế chấp tài sản để thực hiện
các chương trình, đề án, dự án thử nghiệm, nghiên cứu ứng dụng trong
lĩnh vực nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, xóa đói giảm
nghèo...Trong tương lai, Việt Nam có thể thành lập các quỹ thích ứng với
biến đổi khí hậu để tài trợ cho các dự án về thích ứng với biến đổi khí hậu.
Cần tiếp tục triển khai nhiều dự án thích ứng với biến đổi khí hậu ở
những nơi phải hứng chịu nhiều thiệt hại và người dân còn nghèo. Các
hoạt động của dự án nên tập trung ở cấp địa phương và được gắn kết
hoặc lồng ghép với những dự án hỗ trợ đang được triển khai của các nhà
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

tài trợ và các Tổ chức phi chính phủ quốc tế dành cho các các cộng đồng
về lĩnh vực sẵn sàng và ứng phó với hạn hán, lũ lụt và bão với mục tiêu là
tạo cho người dân nguồn sinh kế bền vững.
Các giải pháp tài chính mới có thể giúp con người đối mặt với các rủi ro
do biến đổi khí hậu như bảo hiểm, bảo trợ xã hội, y tế và giáo dục. Mức
bảo hiểm xã hội ở các nước giàu thường rất cao, trong khi người nghèo ở
các nước đang phát triển đều không có. Bảo hiểm rủi ro do biến đổi khí
hậu có thể là một tấm lá chắn giúp những người bị ảnh hưởng có thể
đương đầu với rủi ro mà không làm mất đi các cơ hội phát triển.

3.4. Đề xuất về giáo dục nâng cao nhận thức công đồng
Biện pháp quan trọng khác nữa là cần nâng cao nhâân thức của côâng
đồng về khí hậu và biến đổi khí hậu ở Viêât Nam để có cách thích ứng với
biến đổi khí hậu (sống chung với bão, lũ,...). Với người dân địa phương ở
một số nơi dễ tổn thương nhất thì vấn đề biến đổi khí hậu vẫn là một
chuyện quá xa vời, vì vậy cần tăng cường tổ chức các buổi nói chuyện,
trao đổi cho người dân để họ nhận thức được khí hậu không phải là vấn
đề ‘hàn lâm’ mà thực tế nó có tác động rất lớn đến cuộc sống, là mối đe
dọa trực tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của con người. Qua những hoạt
động này, nhận thức và sự hiểu biết của người dân về các vấn đề biến đổi
khí hậu chắc chắn sẽ tăng lên và góp phần thay đổi hành vi của họ với môi
trường như tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên nước,
bảo vệ rừng ngập mặn, trồng và bảo vệ các loại rừng phòng hộ ven biển…
Đây có thể coi là những bước ban đầu để chuẩn bị năng lực cho người
dân ở những cộng đồng dễ bị tổn thương nhất.
Các hoạt động nhằm đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà ra quản
lý, các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định ở các cấp địa phương
cũng cần được đẩy mạnh. Củng cố năng lực để xây dựng và thực hiện
các chiến lược thích ứng cho cộng đồng thông qua phòng chống thiên tai,
lồng ghép với phòng và giảm thiểu rủi ro, thiệt hại vào các kế hoạch phát
triển ở địa phương.
Nhận thức của công chúng về biến đổi khí hậu được xem như một trong
những chiến lược then chốt để dẫn đến chuyển biến của toàn xã hội sẵn
sàng cho những hành động ứng phó. Chúng ta có thể trông đợi vào công
nghệ, chính sách, nhưng điều quan trọng hơn cả là cần phải có những
thay đổi trong lối sống và hành vi. Xây dựng một kênh truyền thông riêng
nhằm cung cấp thông tin đầy đủ nhất về các vấn đề biến đổi khí hậu
nghiêm trọng là một giải pháp đối với nước ta. Truyền thông báo chí sẽ
đóng vai trò quan trọng để nâng cao nhận thức của công chúng cũng như
tác động đến các nhà hoạch định chính sách. Báo chí và các phương tiện

truyền thông đại chúng như truyền hình cũng cần phát huy hơn nữa vai trò
của mình trong công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường và chống biến
đổi khí hậu. Các báo nên có chuyên mục về riêng về các vấn đề môi
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

trường liên quan đến biến đổi khí hậu, trong khi truyền hình và phát thanh
đã có các chuyên mục này. Các bản tin dự báo cũng cần được đưa đến
công chúng một cách nhanh chóng và chính xác hơn. Ngoài ra, cũng cần
xem xét việc đưa các vấn đề về biến đổi khí hậu vào các chương trình
giảng dạy để học sinh nắm bắt được những kiến thức cơ bản từ đó có thái
độ và hành động đúng với môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Các
trường học cũng có thể tổ chức các hoạt động ngoại khóa tìm hiểu về
thiên nhiên như tổ chức các hình thức tham quan, cắm trại tại các khu bảo
tồn, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường và đưa ra các sáng kiến
về bảo vệ nguồn nước, biển, bảo vệ rừng và các hệ sinh thái ven biển,
phát động các chiến dịch trồng cây, trồng rừng phòng hộ...
3.5. Hợp tác quốc tế.
Việt Nam cần yêu cầu các nước phát triển hỗ trợ tài chính và chuyển
giao công nghệ mới, thân thiện với môi trường nhằm phục vụ mục tiêu
phát triển bền vững đồng thời sẵn sàng phối hợp với các nước phát triển
trong việc xây dựng và thực hiện các dự án CDM tại Việt Nam phục vụ
phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính.
Bộ Tài nguyên&Môi trường cần tăng cường hợp tác với các nước, các
tổ chức quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu nói chung và cơ chế phát
triển sạch để đạt được các thỏa thuận hợp tác. Việt Nam cũng cần tiếp tục
đẩy mạnh hợp tác tài chính, công nghệ và xây dựng năng lực trong thời kỳ
hậu Kyoto, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị và đàm phán

quốc tế về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu.
Xây dựng các danh mục các dự án thuộc lĩnh vực biến đổi khí hậu để
kêu gọi tài trợ và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước công
nghiệp và các nước phát triển. Hợp tác quốc tế trong đào tạo, nâng cao
năng lực thông qua đầu tư trực tiếp, tư vấn và xây dựng các hệ thống
cảnh báo sớm.
Ngoài việc chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, cập nhật
và xử lý kịp thời các thông tin về biến đổi khí hậu, nước biển dâng, Bộ Tài
nguyên & Môi trường đồng thời cần tăng cường hợp tác với các tổ chức
quốc tế về biến đổi khí hậu để nghiên cứu xây dựng Chương trình hành
động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam.

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

KẾT LUẬN


Các nguyên nhân gây biến đổi khí hậu rất đa dạng và phức tạp,
do cả tự nhiên và do con người. Nhưng rõ ràng là con người là tác
động đẩy nhanh quá trình này trong vài thập kỷ qua. Về lâu dài, biến
đổi khí hậu là mối đe doạ hết sức to lớn đối với sự phát triển con
người.

Nhằm hạn chế tốc độ biến đổi khí hậu, cần định hướng phát triển
toàn cầu theo lộ trình hướng tới một nền kinh tế xanh-sạch, ít cácbon;
cắt giảm khí thải nhà kính gây nóng lên toàn cầu chủ yếu ở các lĩnh
vực năng lượng, công nghiệp và giao thông; cắt giảm trợ cấp cho các

nguồn năng lượng hóa thạch; tăng cường sử dụng hiệu quả năng
lượng, nghiên cứu tìm ra các nguồn năng lượng mới, thân thiện với
môi trường.

Biến đổi khí hậu đã gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản và
tài nguyên thiên nhiên và huỷ hoại môi trường. Một trong hệ quả rõ
nhất của biến đổi khí hậu là nước biển dâng cao và đây thực sự là mối
lo ngại trong tương lai đối với các vùng thấp và nằm dưới mực nước
biển, các quốc đảo và quốc gia có biển, đặc biệt là các nước đang phát
triển và kém phát triển. Trong thế kỷ này, hàng trăm triệu người có thể
phải di dời do mực nước biển dâng cao. Thế giới sẽ phải đối mặt với
nguy cơ này trên phạm vi rộng lớn hơn. Nhiều thành phố của các quốc
gia ven biển đang đứng trước nguy cơ bị nước biển nhấn chìm - hậu
quả trực tiếp của sự tan băng ở Bắc và Nam cực. Nhằm hạn chế
những tổn thất, cần phải quy hoạch và đưa ra các giải pháp thích ứng
ngay từ bây giờ. Một số nước có thể chỉ bị ảnh hưởng ít, trong khi một
số nước khác có thể bị tác động nặng nề, đe doạ đến tính toàn vẹn
lãnh thổ. Muốn ngăn chặn những mối đe doạ này, đòi hỏi phải có sự
hợp tác quốc tế chặt chẽ hơn bao giờ hết.

Tác động của biến đổi khí hậu không trừ đất nước nào, dù cho
nước đó không góp nhiều vào nguyên nhân gây biến đổi khí hậu. Theo
đánh giá, Việt Nam là nước đang phát triển nằm trong nhóm nước dễ bị
tổn thương trước mực nước biển dâng cao. Hậu quả của mực nước
biển dâng làm hệ thống đê biển không thể chống chọi được với nước
dâng do bão như thiết kế dẫn đến nguy cơ vỡ đê. Mực nước biển
dâng cao làm thay đổi chế độ động lực của sóng và dòng chảy ven bờ,
làm thay đổi hình thái bờ biển và sông, gây xói lở bờ và hệ thống đê
biển. Mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra
biển sẽ giảm, kéo theo mực nước các con sông trong nội địa dâng lên,

kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ đe dọa sự an
toàn của hệ thống đê sông, thống đê bao và bờ bao. Tất cả nguy cơ
này đe doạ đến sự tồn tại của các cộng đồng ven biển, các hệ sinh thái
và các cơ sở hạ tầng có tầm quan trọng quốc gia. Bởi vậy, cần xác định
*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***


Tiểu luận môn học: Quản lý môi trường đô thị

và lựa chọn các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng đủ độ tin
cậy và phù hợp với Việt Nam để từ đó có những biện pháp giảm thiểu
và thích ứng phù hợp.

Nhiều hoạt động kinh tế đang được phát triển ở dải ven biển Việt
Nam đã mang lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế quốc dân, nhưng
đồng thời cũng khiến Việt Nam đang phải đối mặt với một loạt các vấn
đề môi trường biển và ven biển, một phần do hậu quả của sức ép dân
số và kinh tế, khả năng quản lý và sử dụng kém hiệu quả nguồn tài
nguyên thiên nhiên cộng với những ảnh hưởng do sự biến động khí
hậu toàn cầu, tăng các loại thiên tai như bão, lũ, xâm nhập mặn, triều
cường…Việt Nam đã sớm có sự chuẩn bị nhằm đối phó với tình hình
bằng cả khoa học kỹ thuật và các biện pháp xã hội. Thách thức lớn
nhất hiện nay của Việt Nam trong tình hình biến đổi khí hậu ngày càng
phức tạp là Việt Nam cần đưa ra các chiến lược, chính sách, chương
trình, kế hoạch phát triển phù hợp với sự tiến triển nhanh chóng của
biến đổi khí hậu toàn cầu, xem vấn đề biến đổi khí hậu là một nhân tố
quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội bền vững, sớm
hoàn thiện và đưa ra Chương trình mục tiêu quốc gia đối phó với biến
đổi khí hậu trong năm 2008.


Để làm giảm ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển
dâng cao, cần xác định rõ hai mục tiêu giảm thiểu tác động biến đổi khí
hậu và chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu với một trong những
hậu quả quan trọng nhất đối với Việt Nam là nguy cơ nước biển dâng
cao. Các giải pháp thực hiện hai mục tiêu này có thể rất đa dạng, như
tăng cường các hoạt động nghiên cứu gồm đo đạc, đánh giá hiện
tượng biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao, từ đó đưa ra các
chính sách và kế hoạch hành động, tổ chức và thực hiện các biện pháp
nhằm giảm thiểu sự biến đổi khí hậu và các tác động bất lợi đến con
người và môi trường, xác định và tổ chức các hành động thích ứng để
đối phó với biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao. Trong các
giải pháp chiến lược này, tăng cường khoa học công nghệ và nâng cao
nhận thức cho cộng đồng cần được chú trọng.
Trên đây là phần trình bày những nhận thức về vấn đề “Biến đổi khí hậu
và mực nước biển dâng cao” của cá nhân em. Là một sinh viên ngành “kỹ
thuật môi trường”, tuy nhiên những hiểu biết của em về vấn đề “Biến đổi
khí hậu và mực nước biển dâng cao” vẫn còn nhiều hạn chế, em rất mong
được những lời nhận xét giúp em hoàn thiện hơn những kiến thức về môi
trường nói chung và vấn đề “Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao”
nói riêng.
Sinh viên: Lê Văn Đông

*** Sinh viên: Lê văn Đông - MSSV: 40.0425.K40G ***



×