Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm hướng dẫn phương pháp học toán cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 10 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm

Hướng dẫn phương
pháp học Toán cho
học sinh lớp 1


I / Lí do chọn đề tài
Phấn đấu để dạy tốt các môn học nói chung và môn toán nói riêng là nguyện
vọng tha thiết của đội ngũ giáo viên tiểu học. Như chúng ta đã biết, toán học là
khoa học suy diễn trừu tượng nhưng toán học ở tiểu học lại mang tính trực quan,
cụ thể bởi vì mục tiêu của môn toán học ở tiểu học là hình thành những biểu tượng
toán học ban đầu và rèn luyện kĩ năng toán cho học sinh, tạo cơ sở phát triển tư
duy và phương pháp toán học cho học sinh sau này. Một mặt khác toán học còn có
tính thực tiễn. Các kiến thức toán học đều bắt nguồn từ cuộc sống. Mỗi mô hình
toán học là khái quát từ nhiều tình huônng trong cuộc sống. Dạy học toán học ở
tiểu học là hoàn thiện những gì vốn có trong học sinh, cho học sinh làm và ghi lại
một cách chính thức các kiến thức toán học bằng ngôn ngữ và các kí hiệu toán học.
Mỗi tiết học là dịp để học sinh hình thành những kiến thức và kĩ năng mới, vận
dụng một cách sáng tạo nhất, thông minh nhất trong việc học toán trong cuộc sống
sau này. Chính vì vậy, người giáo viên cần biết phát huy tính tích cực, trí thông
minh của học sinh thông qua giờ học toán.
II/ Cơ sở lí luận
Trí thông minh là sự tổng hợp, phối hợp nhịp nhàng các năng lực trí tuệ như
: quan sát, ghi nhớ, óc tưởng tượng và chủ yếu là năng lực tư duy mà đặc trưng là
năng lực tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, vận dụng những hiểu biết đã học để
giải quyết vấn đề được đặt ra một cách tốt nhất. Chính vì vậy, nghị quyết của Bộ
chính trị về cải cách giáo dục đã nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển trí thông minh cho
học sinh cấpI nhất là học sinh lớp 1. Nghị quyết đã chỉ ra rất rõ yêu cầu “Phát triển
tư duy khoa học” và “tăng cường ở các em ý thức, năng lực vận dụng một cách
thông minh những điều đã học”.




Một điểm đổi mới trong phương pháp dạy học hiện nay luôn coi trọng việc lấy
học sinh làm trung tâm, người thầy chỉ đóng vai trò là người giúp các em đi đúng
hướng, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Chính vì vậy,
ở lớp 1, việc phát triển trí thông minh cho trẻ thông qua môn toán là hết sức cần
thiết.
III / Các biện pháp tiến hành
1/ Biện pháp thứ nhất:
Dạy học sinh nắm được bản chất các kiến thức toán học:
Để học sinh học toán một cách thông minh, người giáo viên cần phải dựa
vào việc học sinh nắm vững các kiến thức được học để giúp học sinh hiểu cặn
kẽ bản chất của kiến thức đó.
Tuy nhiên cần phải thấy rằng : không phải cứ nắm được nhiều kiến thức thì
càng thông minh mà ngược lại nếu dạy cho trẻ nắm nhiều kiến thức vô ích một
cách hình thức mà không hiểu bản chất, không biết vận dụng thì chỉ là nhồi nhét
và làm cùn trí thông minh của trẻ. Vì vậy khi dạy cho học học toán, giáo viên
cần phải biết lựa chọn phương pháp, biện pháp thích hợp để học sinh nắm được
các kiến thức bản chất nhất rồi từ đó làm cơ sở cho việc học các kiến thức tiếp
theo. Giáo viên cũng cần dựa vào những kinh nghiệm của học sinh, những kiến
thức cơ bản mà học sinh đã học để tiếp thu tốt các kiến thức của bài sau và đi
sâu tìm hiểu bản chất, ý nghĩa của kiến thức đó.
Ví dụ :
Khi dạy học sinh làm tính cộng : 2+3=5. Bằng kinh nghiệm sống của trẻ, các
em có thể trả lời ngay được kết quả là 5, song nều chỉ nghĩ rằng học sinh chỉ


học thuộc các phép tính làm đúng kết quả thôi thì chưa đủ mà người giáo viên
cần làm cho học sinh hiểu cặn kẽ bản chất, ý nghĩa của phép cộng bằng các
hình ảnh trực quan, động tác hoạt động của học sinh để từ đó rút ra “động tác

gộp các nhóm đồ vật vào nhau chính là cơ sở của phép cộng hay nói cách
khác đó chính là ý nghĩa của phép cộng.”
Từ các hình ảnh cụ thể, từ những hoạt động của chính mình, học sinh đã biết
vận dụng các kiến thức về ý nghĩa phép cộng. Dần dần các em hiểu về phép
cộng một cách trừu tượng, khái quát hơn, thông qua việc hình thành cấu tạo số
để hình thành phép cộng một cách có cơ sở, từ đó mở rộng sự hiểu biết của
mình.
Ví dụ 1:
Khi dạy phép cộng trong phạm vi 3, sau khi hiểu ý nghĩa phép cộng là : 2 gộp
1 là 3 thì sẽ có phép tính 2+1=3, học sinh đã biết khái quát hơn về ý nghĩa bằng
cách dựa vào cấu tạo số:
Từ việc hiểu ý nghĩa để vận dụng dựa vào cấu tạo số như trên, học sinh
cần được hiểu ý nghĩa phép tính cộng một cách toàn diện hơn, khái quát hơn, đầy
đủ hơn:2+1=3

2 gộp 1 là 3
-

2 thêm 1 là 3


-

2 tăng 1 là 3

Ví dụ 2:
Khi dạy các số tròn chục, giáo viên gợi ý cho học sinh nắm chắc cấu tạo số rồi tự
học sinh suy nghĩ tìm ra nét đặc biệt của các số tròn chục là hàng đơn vị luôn bằng
0. Từ nhận biết cơ bản này, học sinh sẽ áp dụng vào việc thực hiện phếp cộng, trừ
các số tròn chục một cách thuận lợi.

30 + 50 = 80
80 - 30 = 50
Vì hàng đơn vị luôn băng 0 nên học sinh chỉ cần nhẩm hoặc tính hàng chục thì sẽ
ra kết quả của phép tính.
Ví dụ 3 :

Khi dạy học sinh các dạng :
giáo viên cần dạy cho học sinh hiểu để tìm ra điểm cơ bản của 3 dạng tính là số có
1 chữ số có hàng chục bằng 0. Do đó khi thực hiện phép tính ở hàng chục các em
cần vận dụng kiến thức toán đã học ở bài “Số 0 trong phép cộng và phép trừ.” để
giải bài nhanh và đúng.
2/ Biện pháp thứ hai:
Bồi dưỡng cho họ sinh năng lực quan sát, biết suy nghĩ lập luận, phân tích đề toán
để phát hiện trí thông minh.


Quan sát là chức năng bẩm sinh của muôn loài nhưng với con người thì nó tinh tế
và sâu sắc hơn rất nhiều. Nhờ biết cách quan sát mà loài người đã phát hiện ra các
chân lí của cuộc sống. Quan sát là một cách thức rất hiệu quả giúp cho con người
nhận thức chân lí “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của quá trình nhận thức chân lí.
Qua thực tế giảng dạy tôi thấy năng lực quan sát, năng lực suy nghĩ của học sinh
trong học tập nói chung và học toán nói riêng còn hạn chế. Chính vì vậy việc rèn
luyện năng lực quan sát, suy nghĩ lập luận cho học sinh là việc làm hết sức cần
thiết để dạy học sinh học toán một cách thông minh .
Muốn học tốt môn toán, biết giải các bài tập toán từ đơn giản đến phức tạp thì
đều đòi hỏi học sinh biết quan sát, biết suy nghĩ một cách thông minh, từ đó tìm ra
cách giải ngắn gọn, sáng tạo, chính xác bằng cách lập luận chính xác để loại bỏ
những giả thiết không phù hợp với yêu cầu của đề bài. Vì vậy phương pháp giảng
dạy của giáo viên phải gợi mở cho học sinh biết suy nghĩ tìm ra những giả thiết

không thích hợp để đi đến đích là có lời giải đúng.
Ví dụ 1:
Mẹ cho Thư hộp kẹo trong đó có 5 cái kẹo xanh, 5 cái kẹo đỏ. Thư lấy ra 8 cái
chia cho các bạn. Số kẹo mỗi màu của Thư lấy ra có thể là bao nhiêu? Hỏi trong
hộp còn lại mấy cái kẹo?
Sau khi cho học sinh đọc kỹ đề, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh quan sát
bằng hình ảnh cụ thể để học sinh suy nghĩ và xác định yêu cầu của bài.
+ Số kẹo lấy ra mỗi màu có thể là bao nhiêu?
+ Số kẹo còn lại trong hộp?


Sau khi đã xác định yêu cầu của bài, học sinh sẽ suy nghĩ, phân tích, lập luận để
tìm ra những giả thiết có thể xảy ra ở yêu cầu 1.
Học sinh cần biết vận dụng kiến thức phân tích số 8 để tìm ra các giả thiết sau:
Chọnđược vì phù hợp với đề bài
Loạibỏ vì không phù hợp với đề bài (có 5
xanh, 5đỏ)

Loại,bỏ vì không phù hợp với đề bài
Khi học sinh đã tìm ra các giả thiết, giáo viên cùng học sinh thảo luận và lựa
chọn các giả thiết phù hợp với yêu cầu đề bài và loại những yêu cầu không phù
hợp (giáo viên cần gợi ý cho học sinh tự lựa chọn và giải thích tại sao lại chọn giả
thiết đó)
Yêu cầu 2 : học sinh biết gộp 2 màu kẹo để tìm kết quả số kẹo lúc đầu rồi mới
bớt số kẹo đã cho bạn để tìm ra kết quả cuối cùng:
5+5-8=2
3/ Biện pháp thứ ba:
Dạy học sinh nắm chắc các kiến thức đơn lẻ để rèn kỹ năng nhận biết hình, vẽ
hình để giải các bài tập tổng hợp.
Trong đời sống, trong sản xuất khoa học kỹ thuật, đâu đâu cũng cần kỹ năng

toán học trong đó có kỹ năng hình học, nói hẹp là kỹ năng thao tác vẽ hình, nhận


biết hình ở lớp 1. Các thao tác hình học là phương tiện cần thiết để học sinh lĩnh
hội kiến thức hình học. Song tư duy của trẻ lớp 1 chủ yếu là tư duy cụ thể, các em
có thể phát hiện và làm nhanh các đề toán có kiến thức cơ bản cụ thể song khi gặp
các bài toán có tính tổng hợp nhiều kiến thức hình học, kiến thức cũ được tổng
hợp, trừu tượng hoá hơn thì các em gặp nhiều lúng túng. Vì vậy trong việc dạy học
sinh làm quen với hình học, giáo viên cần chú ý bồi dưỡng khả năng khái quát cho
học sinh bằng cách hướng dẫn học sinh biết vận dụng những kiến thức toán học
đơn giản để giải các bài tập hình có kiến thức tổng hợp để bồi dưỡng óc quan sát,
khả năng tập trung suy nghĩ độc lập của học sinh.
Ví dụ 1:
Khi dạy học sinh phần nhận dạng các hình, các đoạn thẳng, nếu là hình đơn, các
đoạn thẳng không bị cắt thì các em nhận biết rất dễ dàng. Song những đoạn bị cắt
bởi 1, 2, 3 ... điểm ở giữa trong các hình thì các em gặp rất nhiều khó khăn vì tính
trừu tượng khái quát cao.
Để giúp các em giải được loại toán này, trước hết cần dạy các em nắm chắc,
nhận biết được khái niệm một đoạn thẳng luôn được xác định bởi 2 điểm, rồi nhận
biết các đoạn thẳng bị cắt bởi 1 điểm, 2 điểm, 3 điểm ở giữa một cách thành thạo
sau đó mới hướng dẫn các em vận dụng vào việc nhận biết số lượng các đoạn
thẳng trong các hình tổng hợp. Cụ thể khi dạy về các đoạn thẳng, ngoài việc học
sinh nắm chắc khái niệm về đoạn thẳng, các em còn phải nhận dạng được các đoạn
thẳng trong nhiều trường hợp.
Sau khi các em đã nắm được cách tìm các đoạn thẳng bị cắt bởi nhiều điểm một
cách thành thạo, giáo viên cần tiếp tục giúp các em biết vận dụng vào việc tìm
đoạn thẳng trong các hình tổng hợp.


Ví dụ 2:

Tìm xem hình vẽ dưới đây có:
-

Mấy tam giác

-

Mấy đoạn thẳng

Để tìm ra số đoạn thẳng ở hình 1 và hình 2, các em đã phát hiện ra ngay 10 đoạn
thẳng vì biết áp dụng bài trước vào việc giải bài tập. Đó là nhận ra hình 1 có 2 đoạn
bị cắt bởi 1 điểm, vậy mỗi đoạn sẽ tạo thành 3 đoạn và 4 đoạn đơn nên : 3 + 3 + 4
= 10 đoạn
Còn ở hình 2 có 1 đoạn đáy tam giác bị cắt bởi 2 điểm do đó sẽ tạo thành 6
đoạn và 4 đoạn đơn, tổng cộng là 10 đoạn.
Ngoài việc dạy các em kỹ năng nhận biết hình từ đơn giản đến phức tạp thì việc
dạy các em vẽ hình, sử dụng các dụng cụ hình học cần được giáo viên quan tâm
đặc biệt thông qua việc luyện tập với các bài toán cơ bản. Vẽ một đoạn thẳng, vẽ
một đường thẳng, vẽ đoạn thẳng nối 2 điểm, vẽ đoạn thẳng có số đo cho trước, vẽ
một hình vuông, hình tam giác. Việc vẽ một đối tượng hình học thường quy về vẽ
các đối tượng hình học cơ bản nên người giáo viên cần biết kết hợp rèn luyện kỹ
năng thao tác hình học với việc rèn luyện các kỹ năng toán học khác, đặc biệt là kỹ
năng thực hành toán học. Việc rèn luyện kỹ năng thao tác hình học cần thực hiện
thường xuyên, liên tục với yêu cầu cao dần về trình độ kỹ năng.
4/ Biện pháp thứ tư:


Kết hợp việc kiểm tra bài cũ để học tốt bài mới
Trong thực tế giảng dạy hiện nay, có rất nhiều tiết học nói chung và tiết học toán
nói riêng, không ít giáo viên chưa thực sự coi trọng việc kiểm tra bài cũ. Có những

giáo viên đã “sát nhập” hoặc “đan xen” khâu kiểm tra bài cũ với bước truyền thụ
kiến thức mới đế có sự “đổi mới’, “sáng tạo”. Song làm như vậy đã khiến cho khâu
kiểm tra bài cũ trở thành hình thức, không rõ mục đích nên để việc kiểm tra bài cũ
có chất lượng, hiệu quả, góp phần giúp học sinh ôn luyện kiến thức đã học để làm
cơ sở cho việc tiếp thu kiến thức mới là một việc hết sức cần thiết. Chính vì vậy, ở
khâu soạn tôi luôn xác định rõ 3 vấn đề là:
-

Kiểm tra bài để làm gì?

-

Kiểm tra cái gì?

-

Kiểm tra như thế nào?

Để trả lời 3 câu hỏi trên, tôi luôn xác định yêu cầu cần kiểm tra từ cuối tiết học
trước để định hình hướng dẫn học sinh học ở nhà và có được sự chuẩn bị tốt cho
tiết học sau của cả thầy và trò. Vì vậy việc kiểm tra sẽ có tác dụng đánh giá chính
xác sự tiếp thu của học sinhvaf giúp cho học sinh vận dụng tốt kiến thức cũ vào
việc học kiến thức mới.
Khi thực hiện việc kiểm tra tôi luôn bám sát đặc trưng môn học, đối tượng học
sinh để tận dụng tối đa khoảng thời gian cho phép, phương tiện dạy học, đồ dùng
học tập của học sinh, sử dụng và phá huy hết khả năng của các phương tiện ấy để
tạo ra các hình thức kiểm tra đa dạng và phong phú mà không cầu kỳ tốn kém.
Ví dụ:




×