Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Luận Văn TỔ CHỨC DẠY HỌC TỰ CHỌN PHẦN ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN VẬT LÍ 12 VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA ĐA PHƯƠNG TIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.98 KB, 82 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa..................................................................................................................i
Lời cam đoan.................................................................................................................ii
Lời cảm ơn...................................................................................................................iii
MỤC LỤC.......................................................................................................1
.......................................................................................................................... 4
MỞ ĐẦU..........................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu..........................................................................8
3. Mục tiêu của đề tài......................................................................................9
4. Giả thuyết khoa học....................................................................................9
5. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................9
6. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................10
7. Đối tượng nghiên cứu................................................................................10
8. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................10
9. Cấu trúc của luận văn...............................................................................11
NỘI DUNG...................................................................................................12
Chương 1.......................................................................................................12
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC PHÂN HÓA, DẠY
HỌC TỰ CHỌN VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA ĐA PHƯƠNG TIỆN.......................12
1.1. Cơ sở lí luận về dạy học phân hoá, dạy học tự chọn..................................................12

1.1.1. Nguyên tắc phân hố trong dạy học...................................................12
1.1.2. Hình thức phân hóa trong dạy học....................................................12
1.1.3. Dạy học phân hóa của một số nước trên thế giới..............................13
1.1.4. Dạy học phân hóa ở trường THPT Việt nam....................................16
1.2.1. Một số khái niệm liên quan................................................................19
1


1.2.2. Đa phương tiện và vai trị của nó trong dạy học...............................25


1.3. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học tự chọn vật lí ở các trường THPT hiện nay với sự
hỗ trợ của đa phương tiện...................................................................................................28

1.3.1. Cấu trúc các chủ đề tự chọn vật lí ở trường THPT hiện nay...........28
1.3.2. Nội dung của tài liệu tự chọn môn Vật lí...........................................29
1.3.3. Tình hình trang bị và xu hướng sử dụng phương tiện dạy học tự chọn
Vật lí 12..........................................................................................................29
Kết luận chương 1...............................................................................................................34

Chương 2.......................................................................................................35
TỔ CHỨC DẠY HỌC TỰ CHỌN PHẦN ĐỘNG LỰC HỌC VẬT RẮN
................................................................................................................................. 35
VẬT LÍ 12 VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA ĐA PHƯƠNG TIỆN.........................35
2.1. Đặc điểm và của phần tự chọn Động lực học Vật rắn Vật lí 12 THPT.....................35

2.1.1. Cấu trúc của phần tự chọn Động lực học Vật rắn Vật lí 12 THPT. 35
2.1.2. Nội dung của phần tự chọn Động lực học Vật rắn Vật lí 12 THPT.37
2.2 Xây dựng tư liệu để tổ chức hoạt động dạy học..........................................................38

2.2.1. Nguyên tắc xây dựng tư liệu để tổ chức hoạt động dạy học.............38
2.2.2. Qui trình xây dựng các tư liệu hỗ trợ tổ chức hoạt động dạy học tự
chọn phần Động lực học vật rắn Vật lí 12 THPT.......................................44
2.2.2.2. Quy trình thiết kế các tư liệu hỗ trợ tổ chức hoạt động dạy học. .49
2.2.3. Kết quả sưu tầm và thiết kế các tư liệu để tổ chức dạy học tự chọn
phần Động lực học vật rắn Vật lí 12............................................................51
2.3. Thiết kế giáo án dạy học tự chọn phần Động lực học vật rắn Vật lí 12 với các tư liệu
đã xây dựng được................................................................................................................52

2.4. Hướng dẫn sử dụng tài liệu để tổ chức dạy học tự chọn phần động lực
học vật rắn Vật lí 12..............................................................................................63

Kết luận chương 2.........................................................................................66
Chương 3.......................................................................................................67
2


THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM.......................................................................67
3.1. Mục đích thực nghiệm..................................................................................................67
3.2. Nội dung thực nghiệm..................................................................................................67
3.3. Phương pháp thực nghiệm...........................................................................................67

3.3.1. Đối tượng thực nghiệm.......................................................................67
3.3.2. Bố trí thực nghiệm..............................................................................68
3.3.3. Các bước thực nghiệm........................................................................68
3.3.4. Xử lý số liệu.........................................................................................69
3.4. Kết quả thực nghiệm....................................................................................................69
3.5. Nhận xét kết quả của việc tổ chức hoạt động dạy học tự chọn phần Động lực học
vật rắn Vật lí 12 với sự hỗ trợ của đa phuơng tiện............................................................75

Kết luận chương 3.........................................................................................77
KẾT LUẬN....................................................................................................78
1. Kết luận............................................................................................................................78

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................81

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Viết tắt

Viết đầy đủ


CNTT

Công nghệ thông tin

ĐC

Đối chứng

GD - ĐT

Giáo dục - Đào tạo

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

KHTN

Khoa học tự nhiên

KHXH - NV

Khoa học xã hội - nhân văn
3



PHT

Phiếu học tập

PPDH

Phương pháp dạy học

PTTQ

Phương tiện trực quan

QTDH

Quá trình dạy học

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

THCS

Trung học cơ sở

THPT


Trung học phổ thông

TN

Thực nghiệm

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay thế giới đang bước vào thời kì ngày càng gia tăng của khoa học
công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tri thức đã trở thành một tư liệu sản
xuất quan trọng và đóng vai trị tiên quyết đối với sự thành công trong tăng trưởng
và phát triển kinh tế - xã hội. Giáo dục nước ta đang trong thời kì mới hướng tới đào
tạo những con người lao động có kiến thức, năng động, sáng tạo với năng lực tư
duy và hành động độc lập cao.
Muốn phát triển được giáo dục, một trong những vấn đề cấp thiết có tính
chiến lược là đổi mới phương pháp giáo dục. Phương pháp giáo dục được quy định
trong Luật Giáo dục nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại mục 2 Điều 4
ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư
duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên”[21].
Muốn đổi mới phương pháp giáo dục, một trong những vấn đề quan trọng
hiện nay là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào xây dựng và sử dụng tài liệu
hướng dẫn trong dạy hoc ở trường THPT với sự hỗ trợ của đa phương tiện. Như vậy
tài liệu hướng dẫn đóng vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức thơng tin nhằm
định hướng tìm tịi tri thức để người học phát huy tính tích cực nhận thức, là một bộ
phận hữu cơ gắn kết cả phương pháp và nội dung dạy học.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá

VIII quán triệt: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy
học..."[4]
Trong tình hình cơng nghệ thơng tin phát triển mạnh như hiện nay, nhu cầu
tìm kiếm, chọn lọc, xây dựng và sử dụng tài liệu thông tin đang trở thành cấp thiết
đối với giáo viên và học sinh trong việc dạy học. Đồng thời việc áp dụng các
phương tiện kĩ thuật hiện đại vào quá trình dạy học giúp cải thiện điều kiện, môi
trường giáo dục chắc chắn rằng chất lượng dạy và học sẽ được nâng cao.
5


Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động học tập
chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động, đề cao khả năng tự học của người
học và đề cao vai trò của người thầy về khả năng dạy cho người học cách học có
hiệu quả nhất.
Để thực hiện chủ trương trên thì một trong những tiếp cận hiện đại là ứng
dụng những thành tựu của Công nghệ thông tin trong giáo dục. Chỉ thị 58-CT/TW
của Bộ Chính trị ngày 17/10/2000 đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục
là: “…đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo
ở mọi cấp học, bậc học và ngành học”[1].
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục hiệu quả nhất là sử dụng các
phần mềm dạy học vì nó tích hợp được truyền thơng đa phương tiện. Một số nước
tiên tiến như Mỹ, Anh, Đức, Pháp…đã nghiên cứu và đang sử dụng nhiều phần
mềm dạy học ở trường phổ thơng. Ở nước ta cũng có một số cơng trình nghiên cứu
xây dựng các phần mềm dạy học, nhưng có chưa nhiều số cơng trình nghiên cứu hệ
thống về quy trình xây dựng và sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại để tổ
chức quá trình dạy học đạt hiệu quả cao.
Thực tế của quá trình đào tạo đã chứng minh rằng: Phương tiện dạy học ngày
càng đóng vai trị quan trọng trong việc giúp người học hiểu nhanh, nhớ lâu các nội

dung học tập, đồng thời lại giảm nhẹ sức lao động của thầy giáo. Phương tiện dạy
học hỗ trợ tốt cho giáo viên tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh.
Sự phát triển các loại phương tiện dạy học sẽ góp phần đổi mới các phương
pháp dạy học. Những năm gần đây, băng video, máy vi tính và hệ thống phương
tiện đa năng (multimedia) phát triển rất nhanh, tạo điều kiện cho việc cá nhân hố
việc học tập; thầy giáo đóng vai trị người hướng dẫn nhiều hơn. Muốn vậy, phải cố
gắng đạt các kiến thức mới nhờ sự phát huy vai trò của đa phương tiện vào q trình
dạy học. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu phát triển phương tiện dạy học, đặc biệt là
phương tiện dạy học đa truyền thông.
Đổi mới phương pháp dạy học phải gắn liền với việc xác định mục tiêu dạy
học. Luật Giáo dục 2005 quy định mục tiêu giáo dục THPT: “...nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hồn thiện học vấn phổ
thơng và có những hiểu biết thơng thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều
6


kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học,
cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”[22].
Luật Giáo dục 1998 quy định mục tiêu giáo dục THPT như sau: “Giáo dục
THPT giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn
thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động”[21].
Như vậy, mục tiêu giáo dục THPT theo quy định tại Luật giáo dục 2005 có
điểm khác với quy định tại Luật giáo dục 1998, là nhấn mạnh “giúp học sinh có
điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển”.
Để thực hiện được mục tiêu này, cần phải thực hiện dạy học phân hoá ở cấp
THPT. Tuy nhiên nhận thức của giáo viên về dạy học phân hoá chưa thật sự sâu sắc
Nhận thức của các bậc phụ huynh và học sinh về phân luồng, phân ban, dạy học tự
chọn... nhìn chung chưa đầy đủ.

Tài liệu tự chọn vật lí giới thiệu chương trình và các chủ đề tự chọn, cấu trúc
mỗi chủ đề bao gồm Mục tiêu; Kiến thức cần nhớ; Bài tập có lời giải và Bài tập tự
giải. Như vậy tài liệu cung cấp chủ yếu về kiến thức để giáo viên tham khảo trong
quá trình dạy chương trình tự chọn và học sinh tham khảo để tự rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức giải bài tập. Phần gợi ý phương pháp tổ chức dạy hoc cịn chung
chung và hạn chế do đó khơng có cơ hội để thiết kế hoạt động nhận thức cho học
sinh theo hướng tích cực. Mặt khác dạy học tự chọn là vấn đề hoàn toàn mới mẽ đối
với giáo viên nên nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức thực hiện dạy
học.
Ngoài ra, kiến thức phần Động lực học vật rắn là kiến thức hoàn toàn mới vừa
được đưa vào chương trình và sách giáo khoa hiện nay. Nhiều giáo viên lâu năm
khơng cịn nhớ phần kiến thức được học trong phần Cơ học đại cương của các
trường đại học. Do đó việc việc hiểu về kiến thức phần này của giáo viên phần lớn
là chưa sâu sắc, chưa kể đến phải nghiên cứu kiến thức và tìm phương pháp để dạy
sao cho đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ những lý do trên với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng
7


dạy và học bộ mơn vật lí nói chung và chủ đề Động lực học vật rắn lớp12 nói riêng,
chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Tổ chức dạy học tự chọn phần Động lực học
vật rắn Vật lí 12 với sự hỗ trợ của đa phương tiện”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Quang
Lạc, Quách Tuấn Ngọc, Phạm Xuân Quế, Lê Công Triêm,… về việc ứng dụng
CNTT trong dạy học Vật lí đã được đăng trên các tạp chí nghiên cứu giáo dục, các
báo cáo hội thảo khoa học … Trong đó các tác giả đều nhấn mạnh vai trị của cơng
nghệ thơng tin trong dạy học hiện nay và việc ứng dụng CNTT một cách có hiệu
quả vào QTDH.
Các luận án tiến sĩ của nhiều tác giả cũng đề cập tương đối nhiều đến việc ứng

dụng CNTT trong dạy học vật lí như: Đề tài “Nghiên cứu sử dụng thí nghiệm với sự
hỗ trợ của máy vi tính trong dạy học một số kiến thức cơ học và nhiệt học trung học
phổ thông” của tác giả Trần Huy Hoàng đã đề cập đến việc sử dụng máy vi tính để
tạo ra các thí nghiệm ảo hoặc thí nghiệm mơ phỏng, từ đó thiết kế tiến trình dạy học
cho một số bài thuộc phần cơ học và nhiệt học lớp 10. Đề tài “Nâng cao hiệu quả
dạy học Vật lí trong nhà trường phổ thơng trung học thơng qua việc sử dụng máy vi
tính và các phương tiện dạy học hiện đại”của tác giả Mai Văn Trinh đã sử dụng
một số ngơn ngữ lập trình để xây dựng một số phần mềm dạy học Vật lí nhằm mục
đích mơ phỏng, minh họa các hiện tượng, q trình vật lí để hỗ trợ giáo viên giảng
dạy phần Quang hình và Động học.
Luận văn thạc sĩ của tác giả Tạ Thị Thu Hiền với đề tài : “Thiết kế và sử
dụng bài giảng theo hướng tích hợp truyền thông đa phương tiện phần Sinh học cơ
thể động vật sinh học 11 THPT”. Đề tài đã sử dụng các phần mềm máy tính để kìm
kiếm các tư liệu như hình ảnh tĩnh, động... trên các địa chỉ trang web từ đó thiết kế
các bài giảng có sử dụng các tư liệu trên.
Hiện nay chương trình và nội dung sách giáo khoa đã được thay đổi, các tài
liệu điện tử, cũng như các thông tin ở diễn đàn trao đổi kinh nghiệm giảng dạy trên
một số địa chỉ website tương đối rộng rãi và cập nhật. Tuy nhiên rất ít ai quan tâm
đến chương trình tự chọn. Đồng thời chưa có tác giả nào nghiên cứu “Tổ chức dạy
học tự chọn phần Động lực học vật rắn Vật lí 12 trung học phổ thông với sự hỗ trợ
8


của đa phương tiện”.
3. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu đề tài được xác định là:
- Xác định được cơ sở lí luận và thực tiễn của dạy học phân hoá, dạy học tự
chọn với sự hỗ trợ của đa phương tiện.
- Xác định được cơ sở lí luận về sử dụng thiết bị đa phương tiện vào dạy học
- Đánh giá được thực trạng của việc dạy học tự chọn môn vật lý hiện nay

- Xây dựng được bộ tài liệu hướng dẫn tổ chức dạy học tự chọn phần Động
lực học vật rắn Vật lí 12 với sự hỗ trợ của đa phương tiện
- Thiết kế được tiến trình dạy học trên cơ sở bộ tài liệu được xây dựng
4. Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng được tài liệu dạy học tự chọn phần “Động lực học vật rắn” Vật lí
12 với sự hỗ trợ của đa phương tiện vừa được xây dựng thì sẽ tích cực hóa hoạt
động nhận thức cho học sinh, nhờ đó mà hiệu quả dạy học tự chọn và chất lượng
học tập môn vật lý sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên nhiệm vụ nghiên cứu gồm những vấn đề
sau:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận của dạy học phân hoá, dạy học tự chọn
5.2. Nghiên cứu cơ sở lí luận về đa phương tiện và vai trị của nó trong dạy
học
5.3. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn liên quan đến đề tài:
- Điều tra cơ bản về tình hình dạy học chương trình tự chọn mơn Vật lí nói
chung và phần Động lực học vật rắn nói riêng ở trường trung học phổ thơng.
- Điều tra cơ bản về tình hình dạy học tự chọn vật lí với sự hỗ trợ của đa
phương tiện ở trường trung học phổ thông.
5.4. Tập hợp các tư liệu hỗ trợ cho việc thiết kế kịch bản các giáo án giảng
dạy.
9


5.5. Thiết kế kịch bản các giáo án với sự hỗ trợ của đa phương tiện trong đó
sử dụng chủ yếu phần mềm công cụ (Powerpoint)
5.6. Thực nghiệm sư phạm và phân tích kết quả thực nghiệm để chứng minh
tính khả thi của đề tài.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức dạy học tự chọn phần Động lực học

vật rắn Vật lí 12 trung học phổ thông với sự hỗ trợ của đa phương tiện
7. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy học tự chọn phần Động lực học vật rắn Vật lý 12 ở trường
THPT với sự hỗ trợ của đa phương tiện.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các văn bản của Nhà nước và của
Ngành Giáo dục đào tạo về đổi mới phương pháp dạy học.
- Nghiên cứu các sách, bài báo, tạp chí chun ngành, các cơng trình nghiên
cứu về cải tiến phương pháp dạy học hướng vào khai thác tài liệu và sử dụng tài
liệu hướng dẫn với sự hỗ trợ của đa phương tiện trong dạy học
- Nghiên cứu các tài liệu về dạy học phân hoá, phân ban, dạy học tự chọn.
- Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách bài tập vật lí10,vật lí 12, vật
lí 12 nâng cao, tài liệu hướng dẫn dạy học tự chọn mơn Vật lí, các tài liệu tham
khảo.
- Nghiên cứu các luận văn, luận án có liên quan đến đề tài.
8.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ và trao đổi với những người giỏi về lĩnh vực mình nghiên cứu, lắng
nghe sự tư vấn và giúp đỡ của các chuyên gia, giúp định hướng cho việc triển khai
và nghiên cứu đề tài.
8.3. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Trao đổi với giáo viên và học sinh về tình hình dạy học tự chọn mơn Vật lí
10


nói chung và các chủ đề phần Động lực học vật rắn nói riêng ở trường trung học
phổ thơng.
- Trao đổi với giáo viên và học sinh về tình hình dạy học theo với sự hỗ trợ
của đa phương tiện ở trường trung học phổ thông.
8.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

- Tiến hành giảng dạy một số tiết tự chọn có sự hỗ trợ của đa phương tiện
- Quan sát, kiểm tra, đánh giá hoạt động của học sinh khi học các giờ học tự
chọn có sự hỗ trợ của đa phương tiện. So sánh với các lớp ĐC, kết hợp với việc
trao đổi ý kiến với giáo viên giảng dạy.
8.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê tốn học để trình bày kết quả thực nghiệm sư
phạm và kiểm định sự khác nhau trong kết quả học tập của hai nhóm thực nghiệm
và đối chứng.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của dạy học phân hóa, dạy học tự chọn
và dạy học với sự hỗ trợ của đa phương tiện
Chương 2: Tổ chức dạy học tự chọn phần Động lực học vật rắn Vật lí 12 với
sự hỗ trợ của đa phương tiện
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

11


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC PHÂN HÓA, DẠY HỌC
TỰ CHỌN VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA ĐA PHƯƠNG TIỆN

1.1. Cơ sở lí luận về dạy học phân hoá, dạy học tự chọn
1.1.1. Nguyên tắc phân hoá trong dạy học
Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành
các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, sở
thích, nhu cầu và các điều kiện học tập, nhằm tạo ra những kết quả học tập tốt nhất
cho người học.

1.1.2. Hình thức phân hóa trong dạy học
Phân luồng, phân ban, dạy học tự chọn là các hình thức thực hiện dạy học
phân hố.
 Phân luồng
Phân luồng được thực hiện sau cấp THCS và sau cấp THPT, nhằm tạo ra
những cơ hội cho học sinh tiếp tục học tập hoặc làm việc sau khi đã hoàn thành một
cấp học. Mỗi cơ hội là một luồng. Ví dụ sau cấp THCS có những luồng như: tiếp
tục học THPT; học trung cấp chuyên nghiệp; học nghề; tham gia làm việc tại các cơ
sở lao động, sản xuất…[3].
 Phân ban
Phân ban được thực hiện trong quá trình dạy học ở cấp THPT. Khi thực hiện
phân ban, những học sinh có năng lực, sở thích, nhu cầu, điều kiện học tập tương
đối giống nhau được tổ chức thành nhóm học theo cùng một chương trình. Mỗi
nhóm học sinh như vậy gọi là một ban. Tùy theo số lượng học sinh mà mỗi ban có
thể chia thành một số lớp. Ví dụ, những học sinh có khả năng, nhu cầu, sở thích về
lĩnh vực tốn và khoa học tự nhiên có thể học ở ban khoa học tự nhiên; những học
sinh có khả năng, nhu cầu, sở thích về lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn có thể
tham gia học ban khoa học xã hội và nhân văn…
 Dạy học tự chọn
12


Dạy học tự chọn được thực hiện trong quá trình dạy học ở các cấp học. Nếu
phân ban hướng đến các nhóm học sinh với khả năng, sở thích, nhu cầu, điều kiện
học tập tương đối giống nhau thì dạy học tự chọn hướng đến từng cá nhân học sinh.
Dạy học tự chọn cho phép mỗi học sinh, ngoài việc học theo một chương trình
chung cịn có thể học một chương trình, với các mơn học khác nhau, hoặc có thể
học các chủ đề khác nhau trong một môn học.
1.1.3. Dạy học phân hóa của một số nước trên thế giới
Hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều hình thức phân hóa trong dạy học:

 Hoa kì và Canada:
Từ 14 đến 17 tuổi, học sinh sẽ trải qua bốn năm ở bậc trung học phổ thông,
trong thời gian này học sinh sẽ có hiểu biết sâu hơn về những mơn học ở bậc trung
học cơ sở. Tại thời điểm này, học sinh thường có thể chọn những mơn tự chọn trong
những lĩnh vực khác nhau. (Theo EF)
 Anh quốc:
Học sinh bắt đầu học trung học vào năm 11 tuổi, đây là chương trình bắt buộc
năm năm (hay cịn gọi là “bậc”). Từ bậc một lên đến bậc sáu (hay lớp 7 đến lớp 11),
học sinh trung học sẽ củng cố kiến thức với những môn đã học ở bậc tiểu học, thêm
vào ít nhất một ngoại ngữ. Vào bậc 4, họ bắt đầu chuẩn bị cho một loạt những kỳ thi
được gọi là Chứng chỉ Giáo dục Trung học (gọi tắt là GCSEs). Học sinh được kiểm
tra dựa trên khoảng 9 hay 10 môn học tùy theo lựa chọn của họ.
 Úc:
Học sinh bắt đầu bậc trung học cơ sở vào năm lớp bảy, thường là vào khoảng
12 hay 13 tuổi. Bậc học trung học cơ sở là chương trình bắt buộc trong bốn năm,
trong thời gian này học sinh sẽ tìm hiểu sâu hơn về những mơn học ở tiểu học hay,
nếu họ muốn, bắt đầu những môn học nghề để chuẩn bị cho họ một nghề nghiệp.
Vào cuối năm lớp 10, học sinh sẽ phải dự những kỳ thi lấy Chứng nhận Học vấn.
Sau đó họ có thể chọn lựa để rời trường học và bắt đầu đi làm, họ có thể vào một
trường dạy nghề hay học tiếp hai năm nữa để hoàn tất Chứng Nhận Lớp 12 và thỏa
mãn yêu cầu vào đại học.
 Trung Quốc:

13


Tại Trung Quốc, tất cả các học sinh đều phải hồn tất ít nhất 9 năm học.
Chương trình Tiểu học bao gồm 5 năm học và nối tiếp với 4 năm Trung học hoặc 6
năm học Tiểu học và 3 năm Trung học. Học sinh học Trung học cho đến năm 14, 15
tuổi, sau đó sẽ tiếp tục học phân ban cho đến năm 18 tuổi. Những môn học bắt buộc

bao gồm: Trung Văn, Anh Văn, Tốn, Vật Lý, Hóa Học, Sinh Học, Lịch Sử, Địa
Lý, Triết Học, Âm Nhạc, Nghệ Thuật, Thể Thao và Tin Học. Học sinh có thể chọn
học thêm các mơn như Văn Hóa Trung Quốc, Công Nghệ Điện Tử, Tin Học Áp
Dụng… Học sinh cũng sẽ chọn học một số môn Thể Thao trong tuần, thường là
Bóng Đá, Bóng Rổ, Bóng Chuyền, Cầu Lơng và Bóng Bàn. Các lớp Âm nhạc cũng
là một phần trong thời khóa biểu của trường.
 Nhật Bản:
Mục tiêu cải cách của nền giáo dục Nhật Bản hiện nay là nhằm đạt tới những yêu
cầu mới mới cơ bản sau:
- Thứ nhất, xây dựng nền giáo dục toàn diện về nhân cách: Kết hợp chặt chẽ
giữa giáo dục ở gia đình và ở nhà trường, tăng cường giáo dục nhân cách, quy tắc
ứng xử xã hội, bồi dưỡng đạo đức, tình thương và bản sắc dân tộc cho học sinh
trong bối cảnh của q trình tồn cầu hố mạnh mẽ hiện nay.
- Thứ hai, thực hiện một chế độ giáo dục nhà trường có khả năng phát huy cá
tính và tạo cho học sinh tự do chọn lựa những môn học và nơi học mình u thích.
- Thứ ba, đẩy mạnh q trình quốc tế hóa giáo dục thơng qua tăng cường áp
dụng các công nghệ mới trong học tập và giảng dạy, tăng giờ học ngoại ngữ và văn
hoá các quốc gia trên thế giới; thực hiện trao đổi, giao lưu học sinh và giáo viên
giữa các trường.
- Thứ tư, tiến hành cải cách giáo dục, phân quyền cho các địa phương tổ chức
chỉ đạo việc dạy và học để phát huy tính độc lập tự chủ ở cơ sở qua thể chế tự trị địa
phương. Năm 1998, Nhật Bản đã phê chuẩn một chương trình cải cách mà theo đó
cắt giảm chương trình bắt buộc 30% và cho phép các trường có thể tự quyết định
một số nội dung giảng dạy cho phù hợp. Thực hiện giảm số lượng học sinh trong
mỗi lớp chỉ còn 20 - 25 em nhằm nâng cao hiệu quả học tập và giảng dạy.

14


- Thứ năm, tiến hành công cuộc cải cách đại học và phát triển công tác nghiên

cứu nhằm nâng cao năng lực phấn đấu, cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế
giới.
Các trường đại học mở rộng việc tiếp nhận sinh viên nước ngồi. Việc tuyển
sinh cũng có những cải tiến, một số trường chuyển sang thí điểm xét tuyển nhằm
giảm nhẹ khâu thi cử. (TheoVYSA: Hội thanh niên sinh viên Việt Nam ở Nhật bản)
Như vậy nhiều nước trên thế giới có nền giáo dục tiên tiến hiện nay trong hệ
thống giáo dục quốc dân, đối với bậc trung học phổ thơng đều có xu hướng tuỳ
thuộc vào nhu cầu sở thích và năng lực từng cá nhân để định hướng mục tiêu giáo
dục đào tạo đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu xã hội.
Dưới đây là những hình thức chủ yếu đã được áp dụng rộng rãi ở nhìn chung
nhiều nước trên thế giới từ trước đến nay.
1.1.3.1. Phân ban
Hình thức này ra đời từ khoảng thế kỷ XVIII ở nhiều nước châu Âu. Hình
thức phân ban ngày càng được hồn thiện và được áp dụng rộng rãi ở các nước châu
Âu và các nước thuộc địa chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp.
Đặc điểm của hình thức này là mỗi trường tổ chức dạy học theo một số ban đã
được quy định, học sinh được phân chia vào học các ban tùy theo năng lực, hứng
thú và nhu cầu của các em. Chương trình học tập của mỗi ban gồm các mơn học
nhất định khác nhau giữa các ban[3].
Hình thức phân ban có ưu điểm là thuận lợi về mặt quản lý dạy học. Tuy
nhiên nó có nhược điểm là khó đáp ứng được sự phân ban đa dạng của học sinh. Do
vậy hiện nay chỉ cịn một số ít nước thực hiện hình thức này ví dụ: Ghinê, Angiêri,
Mali, Campuchia.
1.1.3.2. Dạy học tự chọn
Hình thức phân hóa bằng dạy học tự chọn cũng ra đời vào khoảng thế kỷ XIX.
Dạy học tự chọn ngày càng được phát triển, đặc biệt ở Mỹ.
Đặc điểm của hình thức này là mọi học sinh phải học một số môn học cốt lõi
(hay cịn gọi là mơn học bắt buộc). Ngồi các mơn học cốt lõi này học sinh có thể
chọn học một số môn học khác theo năng lực, nguyện vọng của cá nhân. Cũng có
hình thức tự chọn khác là ở tất cả các mơn học trong nhà trường đều có hai loại

15


chương trình: Chương trình chuẩn và chương trình nâng cao. Học sinh căn cứ vào
năng lực và sở thích của mình để quyết định chọn học loại chương trình nào ở mỗi
môn học[3].
Ưu điểm nổi bật của dạy học tự chọn là đáp ứng được yêu cầu phân hóa cao
của học sinh. Tuy nhiên nó địi hỏi cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và năng lực quản
lý cao. Xu hướng hiện nay nhiều nước hướng tới hình thức dạy học tự chọn.
1.1.3.3. Phân ban kết hợp với dạy học tự chọn
Đặc điểm của hình thức này là học sinh vừa được phân chia theo học các ban
khác nhau, đồng thời học sinh được chọn một số môn học, chủ đề tự chọn ngoài
phần nội dung học tập bắt buộc chung cho mỗi ban. Hình thức này kết hợp được ưu
điểm của cả hai hình thức phân ban và dạy học tự chọn, nó được nhiều nước trên
thế giới áp dụng, ví dụ Pháp, Nga, Singapore, Tây Ban Nha. Đây cũng chính là hình
thức phân hóa mà chúng ta thực hiện ở trường THPT hiện nay.
1.1.3.4. Phân luồng kết hợp với dạy học tự chọn
Đặc điểm của hình thức này là cấp THPT được tổ chức thành các loại trường
khác nhau. Chương trình của mọi loại hình trường được xây dựng theo một định
hướng, thường là về lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, kinh tế, công
nghệ… Theo mỗi định hướng này, học sinh phải học theo một số môn bắt buộc theo
quy định chung và một số môn tự chọn. Việc lựa chọn các môn học theo một số
định hướng xác định hiện đang được áp dụng ở khá nhiều nước như Đức, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển, Hà Lan, Italia…
1.1.4. Dạy học phân hóa ở trường THPT Việt nam
1.1.4.1. Cơ sở lí luận của việc dạy học phân hóa, dạy học tự chọn ở trường THPT
Việt nam
Hình thức phân hố trong dạy học ở cấp THPT của nước ta là phân ban kết
hợp với dạy học tự chọn
 Chương trình chuẩn của THPT

Luật Giáo dục 2005, tại Điều 29 quy định “Chương trình giáo dục phổ thông
thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi
và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt

16


động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp
và mỗi cấp học của giáo dục phổ thơng”[22].
Như vậy, chương trình giáo dục phổ thông là một kế hoạch sư phạm bao gồm:
- Mục tiêu giáo dục.
- Phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục.
- Chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ đối với từng môn học sau
từng đơn vị kiến thức, sau mỗi lớp học và cấp học.
- Phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục.
- Đánh giá kết quả giáo dục từng môn học ở từng lớp, từng cấp học.
Trong chương trình giáo dục phổ thông của nước ta, chuẩn kiến thức, kỹ năng
và yêu cầu về thái độ là những yêu cầu tối thiểu về kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về
thái độ mà mỗi học sinh đều cần phải và có thể đạt được. Nói cách khác, chuẩn kiến
thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ là cơ sở học vấn phổ thơng của giáo dục nước
ta.
Một chương trình với những quy định cụ thể về nội dung giáo dục nhằm đạt
được các chuẩn kiến thức, kỹ năng và yêu cầu về thái độ như vậy được gọi là
“chương trình chuẩn”. Chương trình chuẩn có thể được hiểu là chương trình nhằm
đảm bảo giáo dục mang tính phổ thơng, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp cho tất
cả học sinh trong cả nước.
 Chương trình nâng cao của THPT
Ở cấp THPT ngồi chương trình chuẩn, để thực hiện dạy học phân hố, một
số mơn học cịn có nội dung nâng cao như: tốn, vật lý, hóa học, sinh học, ngữ văn,
lịch sử, địa lý, ngoại ngữ. Chương trình của các môn học với nội dung nâng cao này

gọi là chương trình nâng cao.
Tổ chức dạy học tự chọn ở cấp THPT dựa trên các ban đã qui định:
- Ban khoa học tự nhiên (KHTN): Ban này phù hợp với những học sinh có
năng lực, hứng thú, nguyện vọng học sâu hoặc lựa chọn các nghề nghiệp đòi
hỏikiến thức vềlĩnh vực Toán và khoa học tự nhiên.
- Ban khao học xã hội và nhân văn (KHXH-NV): Ban này phù hợp với những
học sinh có năng lực hứng thú, nguyện vọng sâu hoặc lựa chọn các nghề nghiệp đòi
hỏi kiến thức về lĩnh vực văn hoá xã hội.
17


- Ban cơ bản: Thực hiện phân hoá linh hoạt bằng dạy học tự chọn ở các mức
độ năng cao khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu của các bộ phận học sinh học lên đại
học, cao đẳng, trung cấp nghề, đi vào lao động sản xuất.
Học sinh ban KHTN học theo chương trình nâng cao của 4 mơn: Tốn, Lí,
Hố, Sinh và chương trình chuẩn của các mơn cịn lại
Học sinh học ban KHXH-NV học theo chương trình nâng cao của 4 môn:
Văn, Sử, Địa, Ngoại ngữ và chương trình chuẩn của các mơn cịn lại.
Học sinh học ban cơ bản sử dụng thời lượng tự chọn (4 tiết/tuần) để học theo
chương trình sách giáo khoa nâng cao của một số mơn có nội dung nâng cao hoặc
học theo tài liệu dạy tự chọn dành cho giáo viên và học sinh.
Tổ chức dạy học tự chọn trong các trường học là giải pháp thực hiện dạy học
phân hoá triệt để nhất vì mang đến cơ hội lựa chọn cho từng người học.
Tuy nhiên, việc thực hiện dạy học tự chọn địi hỏi rất nhiều điều kiện:
- Ngồi các mơn học truyền thống, phải thiết kế và đưa vào chương trình giáo
dục nhiều mơn học khác để có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của học sinh. Việc xây
dựng chương trình và biên soạn tài liệu dạy học cho các mơn học như vậy địi hỏi
rất nhiều thời gian.
- Phải thiết kế chương trình chuẩn và chương trình nâng cao cho tất cả các
môn học trong kế hoạch giáo dục. Đồng thời, phải biên soạn SGK và tài liệu dạy

học khác cho cả 2 loại chương trình này. Những việc làm trên địi hỏi q trình
chuẩn bị nhiều năm.
- Phải chuẩn bị đội ngũ giáo viên cho các môn học mới.
- Phải có đủ phịng học, phịng thí nghiệm, thực hành để có thể bố trí các lớp
học theo sự lựa chọn đa dạng của học sinh.
- Ngoài những điều kiện nêu trên, dạy học tự chọn còn đòi hỏi nhiều điều kiện
khác mà hiện nay nền kinh tế - xã hội của nước ta chưa đáp ứng đầy đủ.
Hiện nay trong chương trình THPT có hai loại chủ đề tự chọn:
Ban cơ bản có nguyện vọng học tự chọn thì sẽ học các chủ đề nâng cao trong
số các mơn học có nội dung nâng cao (Tốn, Lí, Hoá, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngoại
ngữ). Các chủ đề này đề cập đến các nội dung nâng cao, nhằm bổ sung và phát triển
chưong trình chuẩn đạt mức tương đương chương trình nâng cao.
18


Các chủ đề bám sát chương trình chuẩn của các môn học trong kế hoạch giáo
dục. Các chủ đề này nhằm củng cố, hệ thống hoá, khắc sâu kiến thức, kĩ năng của
các mơn học
Chương trình giáo dục THPT thể hiện tính phân hố, nhằm phát triển kĩ năng
và hứng thú cá nhân của học sinh nhưng vẫn đảm bảo tính phổ thơng tồn diện.
Mức độ phân hố ở cấp THPT chưa quá sâu và rõ rệt.
Phương pháp dạy học các chủ đề tự chọn có khác phương pháp dạy học các
môn học không?
Phưong pháp dạy học phải căn cứ vào trình độ học sinh. Đối với các học sinh
học các chủ đề bám sát cần phải gợi ý, củng cố, làm mẫu,...
Đối với học sinh chọn các chủ đề nâng cao thì nên tổ chức và hướng dẫn học
sinh bằng các gợi ý cần thiết để học sinh tự giải quyết, tìm kiếm các mối liên hệ
giữa phần đã học và phần năng cao, gơi ý để tiếp tục nghiên cứu phát triển các vấn
đề đó nhằm tạo hứng thú và đáp ứng nguyện vọng của những đối tượng này.
1.2. Cơ sở lí luận về vai trị của đa phương tiện trong dạy học

1.2.1. Một số khái niệm liên quan
1.2.1.1. Phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học là các phương tiện được sử dụng trong quá trình dạy
học, bao gồm các đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng trong dạy học,
các thiết bị hỗ trợ và các điều kiện cơ sở vật chất khác[32].
Các nhà giáo dục phân loại phương tiện dạy học thành 2 phần: phần cứng và
phần mềm.
Phần cứng là cơ sở để thực hiện các nguyên lí thiết kế, phát triển các loại thiết
bị cơ, điện, điện tử… theo các yêu cầu biểu diễn nội dung bài giảng. Các phương
tiện chiếu, radio, cassette, máy thu hình, máy dạy học, máy tính…. được gọi là phần
cứng. Phần cứng là kết quả tác động của sự phát triển khoa học kỹ thuật trong nhiều
thế kỷ. Phần cứng đã cơ giới hóa, điện tử hóa q trình dạy học, nhờ đó giáo viên có
thể dạy cho nhiều học sinh, truyền đạt nội dung nhiều và nhanh hơn, đạt hiệu quả
cao hơn mà tiêu hao sức lực ít hơn.
Phần mềm sử dụng nguyên lí sư phạm, tâm lí, khoa học kỹ thuật để cung cấp
cho học sinh một khối lượng kiến thức hay cải thiện cách ứng xử cho học sinh.
19


Chương trình mơn học, báo chí, sách vở, tạp chí, tài liệu giáo khoa… được gọi là
phần mềm. Phần mềm được đặc trưng bằng sự phân tích mơ tả chính xác đối tượng,
sự lựa chọn mục tiêu, sự củng cố và đánh giá kiến thức.
Sự phân loại trên mang tính chất tổng quát. Ngoài ra đi sâu vào các loại
phương tiện dạy học cụ thể, chúng ta có thể chia thành nhiều loại tùy theo tính chất,
cấu tạo, mức độ phức tạp chế tạo…
1.2.1.2. Phương tiện trực quan
 Khái niệm phương tiện trực quan
Phương tiện trực quan (PTTQ) là một khái niệm phụ thuộc, liên quan với khái
niệm phương tiện dạy học.
PTTQ được hiểu như là một hệ thống, bao gồm các dụng cụ, đồ dùng thiết bị kỹ

thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học với tư cách là đại
diện cho hiện thực khách quan của sự vật, hiện tượng; tạo điều kiện thận lợi cho
việc khám phá, lĩnh hội kiến thức kỹ năng, kỹ xảo về đối tượng nghiên cứu, giúp
HS củng cố, khắc sâu, mở rộng, nâng cao và hoàn thiện tri thức; qua đó rèn luyện
những kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy tìm tịi sáng tạo, năng lực quan sát, phân
tích tổng hợp, hình thành và phát triển động cơ học tập, tích cực làm quen với
phương pháp nghiên cứu khoa học. Từ đó, HS có khả năng vận dụng những tri thức
đã học vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề của cuộc sống.
Phương tiện dạy học nói chung và PTTQ nói riêng là một cơng cụ trợ giúp đắc
lực cho GV trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học ở tất cả các khâu của quá
trình dạy học. Nếu sử phương tiện dạy học một cách lơgic, hợp lí nó sẽ giúp GV
trình bày bài giảng, tổ chức hoạt động cho HS một cách tinh giản nhưng đầy đủ sâu
sắc và sinh động, điều khiển quá trình nhận thức của HS theo hướng sáng tạo[11].
 Phân loại các phương tiện trực quan:
Nếu phân loại theo tính chất, thì PTTQ gồm có 2 nhóm sau:
* Nhóm truyền tin: nhóm này cung cấp cho các giác quan của HS nguồn tin
dưới dạng tiếng hoặc hình hoặc cả 2 cùng một lúc.
Những phương tiện truyền tin dùng trong giáo dục phần lớn là các thiết bị
dùng trong sinh hoạt như: máy tính, máy chiếu, camera, máy ghi âm…

20


* Nhóm mang tin: là nhóm mà tự bản thân mỗi phương tiện đều chứa đựng
một khối lượng tin nhất định. Những tin này bố trí trên các vật liệu khác nhau và
dưới các dạng riêng biệt.
Những phương tiện mang tin gồm:
- Những phương tiện mang tin thính giác: là các phương tiện mang tin dưới
dạng tiếng như: đĩa âm thanh, băng âm thanh, chương trình phát thanh.
- Những phương tiện mang tin thị giác: là các phương tiện được trình bày và

bảo lưu dưới dạng hình ảnh như: slide, ảnh, biểu bảng, đồ thị, bản đồ…
- Những phương tiện mang tin nghe nhìn: là nhóm hỗn hợp mang tin dưới
dạng cả tiếng lẫn hình. Có một yếu tố tâm lí rõ ràng là nếu như càng nhiều giác
quan tham gia vào việc tiếp nhận những “tác nhân kích thích” thì việc hình thành
những khái niệm và ghi nhớ kiến thức càng dễ hơn. Trong việc lĩnh hội kiến thức
thì cơ quan thính giác và thị giác đóng vai trị quan trọng nhất và tất nhiên ảnh
hưởng tổng hợp của 2 cơ quan đó sẽ mạnh hơn so với từng cơ quan riêng rẽ. Từ đó
có thể thấy rằng phương tiện mang tin nghe nhìn chiếm vị trí quan trọng trong việc
truyền thụ và tiếp nhận kiến thức.
Các phương tiện mang tin nghe nhìn gồm có: phim có tiếng, video, phương
tiện đa chức năng (multimedia)…
- Những phương tiện mang tin dùng cho sự hình thành khái niệm và tập dượt.
Các phương tiện này tạo khả năng hình thành những thói quen nghề nghiệp, kĩ
năng, kĩ xảo và năng lực ứng xử theo yêu cầu đào tạo.
Các phương tiện thuộc loại này gồm có: mơ hình (tĩnh và động), các ngun
vật liệu độc đáo (đồ vật, chế phẩm, bộ sưu tập), phương tiện và vật liệu thí nghiệm,
tranh lắp hoặc dán, các máy tập luyện, các phương tiện sản xuất[11].
Theo Lê văn Giáo, trong dạy học vật lí, PTTQ có thể phân thành hai nhóm,
gồm Các phương tiện dạy học truyền thống và các phương tiện nghe nhìn:
* Các phương tiện trực quan truyền thống:
- Các vật thật trong đời sống và kĩ thuật.
- Các thiết bị thí nghiệm được dùng để tiến hành thí nghiệm hoặc thí
nghiệm học sinh
- Các mơ hình vật chất
21


- Bảng
- Tranh ảnh, biểu bảng và các bản vẽ sẵn
- Các tài liệu in

* Các phương tiện nghe nhìn gồm hai khối: khối mang những tin và khối
chuyển tải thông tin.
Khối mang thông tin, gồm:
- Phim học tập: phim đèn chiếu, phim nhựa, phim truyền hình.
- Các băng hình, đĩa CD, đĩa DVD, đĩa VCD…
- Băng cassette.
- Các phần mềm dạy học.
- Giấy bóng trong đã có nội dung; Folie màu
Khối chuyển tải thơng tin, gồm:
- Máy vi tính.
- Máy chiếu qua đầu.
- Máy chiếu đa chức năng.
- Đèn chiếu.
- Tivi.
- Đầu video, đầu đĩa: CD, DVD, VCD.
- Máy cassette
- Máy chiếu phim…
- Camera
- Đèn chiếu slide
Có thể hiểu rằng phương tiện nghe nhìn là những phương tiện dạy học mang
lại thông tin qua hiệu ứng âm thanh (ngôn ngữ) hoặc hình ảnh động (hoặc tĩnh),
hoặc kết hợp cả âm thanh lẫn hình ảnh. Như vậy các phương tiện nghe nhìn có thể
tác động đến người học thơng qua kênh hình và kênh tiếng[10].
Trong QTDH, để đạt được mục đích dạy học, trước hết GV phải đưa ra được
các mục tiêu đúng đắn và kế hoạch hợp lí. Mục tiêu dạy học là những yêu cầu mà
HS cần phải lĩnh hội được cả về tri thức, kĩ năng, thái độ, hành vi sau mỗi bài học,
chương học hay cấp học. Để thực hiện được mục tiêu đó, GV cần phải căn cứ vào
22



nội dung bài dạy, đối tượng HS để dự kiến PTDH (PTTQ) phù hợp. Như vậy PTTQ
vừa là nguồn tri thức, vừa là công cụ để HS lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng
của bài học, môn học.
Như vậy, PTTQ là một yếu tố quan trọng trong QTDH, nó gắn kết các yếu tố
cấu trúc của QTDH thành một chỉnh thể toàn vẹn. Và việc xây dựng hợp lí mối
quan hệ giữa các yếu tố này sẽ nâng cao chất lượng dạy học.
Trong mối quan hệ giữa các thành phần tham gia QTDH, PTTQ chở thông
điệp đi theo một phương pháp dạy học nào đó.
Trong lí luận dạy học, QTDH là một q trình truyền thơng tin bao gồm sự
lựa chọn, xắp xếp và truyền đạt thông tin trong mơi trường sư phạm thích hợp, tối
ưu cho người học. Trong bất kì tình huống dạy học nào cũng có một thơng điệp
truyền đi, thơng điệp đó thường là nội dung của chủ đề được dạy, cũng có thể là các
câu hỏi về nội dung cho người học và các phản hồi từ người học, kể cả sự kiểm sốt
q trình này về sự nhận xét, đánh giá các câu trả lời hay các thơng tin khác. PTTQ
chính là cầu nối truyền thông tin từ người thầy tới HS và ngược lại.
PTTQ được sử dụng trong QTDH, giúp GV tổ chức và tiến hành hợp lí, có
hiệu quả của QTDH để có thể thực hiện được những yêu cầu của chương trình học
tập. PTTQ chỉ phát huy hiệu quả cao nhất khi GV sử dụng nó với tư cách là phương
tiện tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của HS. Cịn đối với HS thơng qua
làm việc với PTTQ để hình thành những tri thức, kĩ năng, thái độ và hình thành
nhân cách.
PTTQ có vai trị quan trọng trong QTDH, nó thay thế cho những sự vật, hiện
tượng và các quá trình xảy ra trong thực tiễn mà GV và HS không thể tiếp cận trực
tiếp được. PTTQ giúp cho GV phát huy được tất cả các giác quan của HS trong quá
trình tiếp thu kiến thức, giúp HS nhận biết được quan hệ giữa các hiện tượng, các
khái niệm, quy luật làm cơ sở cho việc rút ra những tri thức và sự vận dụng vào
thực tế. Như vậy, nguồn tri thức mà HS nhận được trở nên đáng tin cậy và được nhớ
lâu bền hơn.
PTTQ làm cho việc dạy học trở nên cụ thể hơn, vì vậy tăng khả năng tiếp thu
kiến thức về sự vật, hiện tượng, các quá trình phức tạp mà bình thường HS khó hiểu

rõ.
23


Sử dụng PTTQ có thể rút ngắn thời gian dạy học mà việc lĩnh hội kiến thức
của HS lại nhanh hơn, vững chắc hơn.
PTTQ giúp GV có nhiều thời gian và cơ hội thuận lợi để tổ chức, hướng dẫn
HS tự chiếm lĩnh tri thức mới. Bên cạnh đó nó cịn giải phóng người thầy khỏi một
khối lượng các cơng việc tay chân, do đó làm tăng khả năng chất lượng dạy học.
PTTQ dễ dàng gây được cảm tình, sự chú ý của HS và cuốn hút đối với HS.
Sử dụng PTTQ, GV có thể kiểm tra một cách khách quan khả năng tiếp thu kiến
thức cũng như sự hình thành kĩ năng, kĩ xảo của HS.
Ngày nay, với những thành tựu của khoa học và cơng nghệ thì PTTQ càng
được phát triển cùng với sự ra đời của các phương tiện nghe nhìn hiện đại làm cho
PTTQ ngày càng đóng vai trị quan trọng trong QTDH. Những thành tựu đó đã cho
phép đưa vào những nội dung diễn cảm và hứng thú làm thay đổi phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học, làm tăng nhịp độ của QTDH, tạo nên phong cách mới và
trạng thái tâm lí mới. Nhưng dù PTTQ có hiện đại đến đâu thì nó vẫn chỉ là công cụ
trong tay người GV, giúp họ thực hiện có hiệu quả QTDH.
1.2.1.3. Q trình dạy học
QTDH theo nghĩa rộng nhằm hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ
một cách có ý thức, được tiến hành dưới tác động chủ đạo của nhà sư phạm. QTDH
là một q trình tổng thể, tồn vẹn bao gồm các khâu, các yếu tố tồn tại trong sự
biện chứng: trí dục, đức dục, mĩ dục, thể dục, lao động… QTDH còn được hiểu là
hoạt động dạy và học, được cấu tạo bởi các thành tố cơ bản: mục đích và nhiệm vụ
dạy học; nội dung dạy học; phương pháp, phương tiện dạy học; người dạy; người
học; kết quả dạy học. QTDH luôn luôn vận động và phát triển theo các quy luật vốn
có của nó. Người dạy - nhà sư phạm phải biết tổ chức và điều khiển quá trình này,
phát huy cao độ vai trị tự giác, tích cực, độc lập của người học, tạo ra hệ thống các
động lực, thúc đẩy và phát triển một cách tổng hợp và đồng bộ mọi thành tố của q

trình nói chung và đặc biệt là thành tố người học nói riêng, đáp ứng được yêu cầu
của xã hội đối với sự nghiệp giáo dục.
QTDH là sự phối hợp thống nhất các hoạt động chỉ đạo của thầy với hoạt
động lĩnh hội tự giác, tích cực tự sáng tạo của trị, nhằm làm cho trị đạt được mục
đích dạy học.
24


Hay nói cách khác QTDH là một q trình được thiết lập kế hoạch tỉ mỉ và
khảo nghiệm chặt chẽ nhằm thiết lập một hệ thống truyền tin hợp lí trong một mơi
trường sư phạm thích hợp để dẫn dắt người học đạt được các mục tiêu học tập đặc
biệt. Việc xắp xếp thông tin vào môi trường sư phạm trong QTDH thông thường là
trách nhiệm của người thầy giáo và người thiết kế phương tiện với mục tiêu là đảm
bảo cho người học dễ dàng thu nhận và nắm vững các thông tin được thầy giáo phát
đi. Mặt khác, trong QTDH, thầy giáo cần phải nắm được mức độ tiếp thu thơng tin
của người học và từ đó có những phản hồi cho người học những sự uốn nắn, hướng
dẫn, đánh giá, động viên, khen thưởng… kịp thời.
1.2.2. Đa phương tiện và vai trị của nó trong dạy học
1.2.2.1. Thế nào là đa phương tiện (multimedia)
Người ta có thể giải thích từ multimedia theo nghĩa đen của thuật ngữ đó bằng
cách dẫn ra nhiều phương tiện. Tuy nhiên, với tư cách là một thuật ngữ gắn với
CNTT, có thể hiểu multimedia là phương pháp giới thiệu thông tin bằng máy vi
tính, sử dụng nhiều phương tiện truyền thơng tin như văn bản, đồ hoạ, hình ảnh
(bao gồm cả hình tĩnh, hình động) và âm thanh, cùng với sự gây ấn tượng bằng
tương tác[30]. Nói gọn hơn, có thể hiểu:
Multimedia = digital text, audio- visual media + hyperlink
1.2.2.2. Vai trò của đa phương tiện trong dạy học
Kỹ thuật siêu liên kết (hyperlink) của CNTT đã giúp kết nối mau lẹ nhiều cơ
sở dữ liệu gồm mọi loại văn bản, đồ hoạ, âm thanh trở thành nguồn tư liệu đa năng
và phong phú, và tăng tốc độ tương tác giữa người sử dụng và nguồn tư liệu. Khi

ngồi trước một máy tính có nối mạng là bạn được ngồi trước một kho dữ liệu vô
tận, bao gồm các cơ sở dữ liệu ghi trên máy tính và các đĩa CD, DVD kèm theo, và
vô vàn các trang Web liên quan trên tồn thế giới, mà mọi cơ sở dữ liệu đó được kết
nối rất nhanh chóng khi tìm kiếm bằng cơng cụ siêu liên kết. Rõ ràng nếu hiểu "đa
phương tiện" theo cách như trên chúng ta mới thấy hết quy mơ và sức mạnh diệu
kỳ của nó.
Với sự tiến bộ nhanh chóng của CNTT và vi điện tử, các cơng cụ lưu trữ
thơng tin ngày càng có sức chứa lớn, chẳng hạn một CD-ROM thơng thường có
dung lượng 700 MB, có thể chứa được cỡ 250.000 trang văn bản, cho phép ghi các
25


×