Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sự sinh sản của thực vật bậc cao (thể giao tử)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.4 KB, 7 trang )

Sự sinh sản của
thực vật bậc cao
(Thể giao tử)
B. Thể giao tử của thực vật Hạt kín .
Sự nảy mầm của bào tử bé và bào tử lớn
của Quyết dị bào tử dẫn đến hình thành
nguyên tản đực hay cái, thể giao tử mang
túi tinh hoặc túi noãn. Cũng có nguồn
gốc như các nguyên tản này, sản phẩm
nảy mầm của bào tử bé và bào tử lớn của
thực vật có hạt là cùng nguồn với Quyết


dị bào tử.
+ Hạt phấn là thể giao tử đực.
Sự hình thành của các bào tử bé, bắt đầu
trong túi bào tử bé và thường kết thúc tại
đây, dẫn đến hình thành hạt phấn.
- Sự chuyển từ bào tử bé sang hạt phấn
Sự chuyển từ bào tử bé sang hạt phấn
luôn luôn diễn ra bởi sự phân bào nguyên
nhiễm, các tế bào ít nhiều được sắp xếp
khác so với hạt phấn sự phát tán và nảy
mầm. Sau khi thụ phấn bầu nhụy phồng
lên, góp phần vào việc hình thành quản.
- Sự đa hình hạt phấn. (H.40)
Các kiểu hạt phấn khác nhau thường gặp
trong các nhóm thực vật có hạt, ở thực
vật Hạt kín, các vách bào tử khác nhau
nhiều hơn so với các nhóm thực vật thấp
hơn.


• Trước hết, các kiểu hạt phấn phù hợp
với hai kiểu phân cắt của các tế bào mẹ


của các bào tử bé, các thể biến dị thứ cấp
có thể tăng thêm. Ví dụ, sự mở của hạt
phấn ở lưng nguyên thủy, chuyển sang sự
mở hạt phấn ở bụng bởi chuyển theo
đường rãnh có lỗ kéo dài hay tròn ở mặt
bụng (nhiều ở thực vật Một lá mầm, và
các thực vật Hai lá mầm có hoa xếp
xoắn)
• Các vách bào tử của thực vật Hạt kín.
Toàn bộ vỏ bọc bao xung quanh tế bào
chất của bào tử bé gọi là vách bào tử
(sporoderme) và biến đổi thành vách hạt
phấn bao gồm exin và intin. Vách của hạt
phấn Hạt kín đạt đến độ cấu tạo phức tạp
không bao giờ thấy ở các bào tử bé của
các nhóm thấp hơn của thực vật chồi
cành. Thế nhưng cần phải chỉ ra rằng, các
hạt phấn có hình chỉ (chiều dài đến 5mm,
đường kính 10 đến 30(µm) của một số
thực vật Hạt kín thủy sinh (Rong lương /


họ Rong lương (Zosteraceae), Rong rơm/
họ Rong rơm (Posidoniaceae)) chỉ có
intin tạo ra các sợi bé xenluloza nằm vào
trong cơ chất polysaccharit và giàu axit

photphataza như trong hạt phấn của các
loài ở cạn. Mặc dù exin của
sporopollenic không có, bề mặt của các
hạt phấn như thế được bao bọc một màng
mỏng đường và protein chứa enzim
esteraza có nguồn gốc của tầng nuôi
dưỡng. Mặc dù tiêu giảm, tuy nhiên nó
vẫn tồn tại cấu tạo và thành phần hóa
sinh giống nhau giữa các hạt phấn của
thực vật thủy sinh và hạt phấn của thực
vật ở cạn.
Trong vách hạt phấn, có các điểm núm là
các vùng ít bền, cho phép thay đổi khối
lượng hạt phấn, tại các điểm núm này
exin được phân hóa và ở ống phấn làm
nhô ra phía ngoài. Số lượng và vị trí các


điểm núm là thay đổi từ loài này đến loài
khác.
+ Túi phôi, thể giao tử cái của thực vật
Hạt kín. Tùy theo số lượng của các bào
tử lớn tham gia hình thành túi phôi,
người ta phân biệt các trường hợp khác
nhau như sau:
- Sự hình thành và sự khác nhau của các
túi phôi.
• Túi phôi đơn mầm nguyên tản (hay túi
phôi đơn bào tử). Chỉ một bào tử lớn nảy
mầm, thông thường là bào tử ở phía dưới.



Túi phôi tám nhân là phổ biến nhất (đa số
thực vật Hai lá mầm và một số thực vật
Một lá mầm): gọi là kiểu Polygonum.
Tên gọi kiểu Polygonum là của
Strasbuger, người đầu tiên đặt tên này
vào năm 1897, nghiên cứu sự hình thành
túi phôi của Polygonum divaricum (họ
Rau răm - Polygonaceae).


Tám nhân n NST do ba lần phân chia của
bào tử lớn được sắp xếp thành túi phôi:
ba tế bào ở cực lỗ noãn (một noãn cầu và
hai trợ bào nằm hai bên), ba tế bào đối
cực và hai nhân trung tâm (còn gọi là
hạch thứ cấp hay nhân cực hoặc nhân
phụ) hợp nhất trước khi thụ tinh hay sau
khi thụ tinh. Túi phôi lưỡng cực xuất
hiện do nẩy mầm của bào tử lớn và mang
một giao tử cái hay noãn cầu. Vì vậy, túi
phôi lưỡng cực này rõ ràng thể giao tử
cái.
. Túi phôi 4 nhân của họ Rau dừa nước
(Onagraceae): trong trường hợp này,
chính bào tử lớn nằm cạnh lỗ noãn nảy
mầm, chỉ qua hai lần phân chia và túi
phôi đơn cực được hình thành (một noãn
cầu, hai trợ bào và một nhân trung tâm).

. Nhiều thể biến dị dẫn đến các túi phôi
gồm ít hơn 8 tế bào hay nhân (các nhân



×