Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Lịch sử triết học tây âu phi macxit hiện đại và đại diện chủ nghĩa hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.32 KB, 22 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Trong dòng chảy chung của lịch sử tư tưởng văn hóa nhân loại, con người
đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, nối tiếp nhau từ thấp đến cao
với những đặc trưng riêng, văn hóa, tư tưởng riêng. Con người với bộ não tiến
hóa rất cao cho phép thực hiện các suy luận trừu tượng, ngôn ngữ và xem xét
nội tâm đã dần nhận biết thế giới xung quanh, giao tiếp và góp phần tạo nên
những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả
luật pháp... Triết học với vai trò là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó đã trở thành
công cụ đắc lực trong quá trình nhận biết và chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp
giải phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ. Nghiên cứu những
vấn đề cơ bản của triết học giúp con người xây dựng được phương pháp biện
chứng trong nhận thức và cải tạo thế giới. Với từng thời kỳ, từng điều kiện tự
nhiên, văn hóa xã hội khác nhau mà các trường phái, quan điểm, tư tưởng triết
học lại có những đặc điểm riêng, phương pháp nghiên cứu riêng xoay quanh các
vấn đề cơ bản của triết học như mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào, con người có khả năng nhận
thức thế giới không?...
Không nằm ngoài mục đích nhận biết và chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp
giải phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ nói trên, với những đặc
điểm riêng biệt, các trào lưu triết học phương Tây hiện đại cũng có sự hình
thành và phát triển nhất định tương ứng với điều kiện khách quan từng giai đoạn
khác nhau, gắn với lợi ích của một giai cấp nhất định. Triết học phương Tây
hiện đại ra đời trên cơ sở kế thừa có chọn lọc triết học phương Tây cận đại và
triết học cổ điển bao gồm triết học chủ nghĩa Marx và triết học phương Tây hiện
đại phi Marx. Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biến chứng, tiếp tục giải
quyết mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại trên lập trường duy vật triệt để và
nghiên cứu các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học


Marx đã trở thành một trong những trường phái triết học có tính logic và đóng
vai trò to lớn trong đời sống xã hội thế giới hiện nay. Tuy nhiên sẽ là rất thiếu
sót nếu chỉ tập trung vào nghiên cứu triết học Marx mà quên đi vai trò và sự ra
2


đời, tồn tại song hành của các trào lưu triết học phương Tây hiện đại phi Marx
đặc biệt là Chủ nghĩa hiện sinh – một trong những trào lưu có ảnh hưởng rất
lớn tới con người trong bối cảnh xã hội phát triển và có nhiều bất ổn, áp lực như
ngày nay.
Bài thảo luận “Lịch sử triết học Tây Âu phi Macxit hiện đại và đại diện chủ
nghĩa hiện sinh” được nhóm 5 lớp cao học K18.01.NHB tiến hành để hiểu sâu
sắc Triết học phương Tây hiện đại đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh, từ đó có cơ sở
để lý giải và đối xử toàn diện, sâu sắc đối với triết học Mark đã nghiên cứu ở
bậc đại học và làm giàu và phát triển tư duy triết học, tư duy trừu tượng khoa
học của người học.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bài thảo luận gồm hai phần chính cụ thể :
- Phần thứ nhất: Khái lược về lịch sử triết học Tây Âu phi Mark hiện đại
phương Tây
- Phần thứ hai: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh và liên hệ
thực tiễn ngày nay.

3


PHẦN I: KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU PHI MARK
HIỆN ĐẠI PHƯƠNG TÂY
1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản Phương Tây chuyển nhanh từ giai

đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (Đế quốc chủ nghĩa)
Khoa học kỹ thuật phát triển làm thay đổi hiểu biết của con người về thế
giới và tạo cơ sở cho cách mạng công nghiệp, một sự chuyển đối căn bản của
các nền kinh tế thế giới. Việc sử dụng những hình thức sản xuất mới như
các nhà máy, sản xuất hàng loạt, và cơ giới hoá để sản xuất ra nhiều loại sản
phẩm với tốc độ nhanh hơn và tốn ít nhân công hơn. Kinh tế phát triển kèm với
đó là ô nhiễm công nghiệp và những tổn hại đối với môi trường thiên nhên.
Thế kỷ XX: chứng kiến sự giảm sút mức độ thống trị thế giới của giới tư
sản Châu Âu
Chiến tranh thế giới thứ nhất (6/1914-11/1918): Đây là cuộc chiến tranh có
chiến trường chính bao trùm khắp châu Âuvà ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo
tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào vòng chiến với số người chết trên
19 triệu người với sức tàn phá và ảnh hưởng về vật chất tinh thần cho nhân loại
rất sâu sắc và lâu dài  Tất cả những Đế quốc quân chủ đều sụp đổ trong cuộc
chiến tranh này. Sau chiến tranh, châu Âu lâm vào tình trạng khủng hoàng và
những cao trào dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy ở các nước bại trận
Chiến tranh thế giới thứ hai (đầu 1939 – 1945): Hầu hết mọi lục địa trênthế
giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực và Nam Mỹ.
Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945
(Châu Á: khi Nhật đầu hàng ngày 2/9/1945). Chiến tranh thế giới thứ hai là một
cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị đánh bom
hàng loạt. Khoảng 70 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này (thống kê vẫn tiếp
tục nghiên cứu). 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn
diệt chủng, bom đạn và do thiếu lương thực và không có dịch vụ cần thiết cộng
thêm việc phá hoại nhà cửa và các phương tiện cho dân trong chiến tranh
4


Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai phái: một phía chịu ảnh hưởng
phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô.

Đức bị các lực lượng từ Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị
chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm đóng một cách tương tự.
Ảnh hưởng thế giới lâu dài: Hầu hết các quốc gia đã theo phía này hay phía
kia trong chiến tranh. Một số quốc gia theo cả hai phía vào các thời điểm khác
nhau. Mọi lục địa có người ở, trừ Nam Mỹ, đều có trận chiến. Ngay cả các nước
trung lập cũng bị ảnh hưởng sâu sắc trong chiến tranh và sau chiến tranh.
Giữa thế kỷ XX, các cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đạt được nhiều kết
quả nghiên cứu mới, Thuyết tương đối rộng và hẹp (1905, 1915), tìm ra điện tử
tia phóng xạ, Học thuyết về Gien, Vật lý lượng tử v.v. làm đảo lộn nhiều tri thức
trước đó. Việc ứng dụng kết quả của khoa học đã làm cho loài người chế tạo
được nhiều dạng công cụ lao động mới, đưa năng suất lao động lên cao chưa
từng thấy, đồng thời, loài người cũng chế tạo ra những vũ khí giết người hàng
loạt (bom nguyên tử, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, vũ khí sinh, hoá học v.v.)
với lượng chất nổ trong tay, con người có thể phá huỷ được nhiều lần Trái Đất.
Cuộc chạy đua vũ trang, sự phá huỷ môi trường sống luôn đặt loài người trước
những thảm hoạ khủng khiếp và khó lường.
2. Khái quát về sự phát triển của triết học phương tây
hiện đại và xu thế phát triển
2.1 Các giai đoạn phát triển
• Giai đoạn thứ nhất: từ giữa thế kỷ XIX (triết học cổ điển Đức kết thúc,
triết học Mác hình thành) đến đầu những năm 70 của thế kỷ XIX (công xã Paris)
• Giai đoạn thứ hai: từ những năm 70 của thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
(chiến tranh thế giới thứ nhất và Cách mạng tháng Mười Nga)
• Giai đoạn thứ ba: từ Đại chiến thế giới thứ nhất và Cách mạng tháng
Mười Nga đến những năm 50 của thế kỷ XX
• Giai đoạn thứ tư: từ những năm 50 của thế kỷ XX đến nay:
2.2. Xu thế phát triển
Triết học phương tây hiện đại thể hiện ở ba xu thế phát triển:
5



Một là, trào lưu triết học duy lý khoa học mà đại diện là chủ nghĩa thực
chứng, sau đó là chủ nghĩa thực chứng mới là một thứ chủ nghĩa duy khoa học
nổi bật nhất. Chủ nghĩa hậu thực chứng đã thay thế với các trường phái như chủ
nghĩa duy lý mới, chủ nghĩa duy lý phê phán, đặc biệt là triết học phân tích Mỹ.
Hai là, trào lưu triết học nhân bản phi lý tính. Đây chính là sự phản ứng
chống lại chủ nghĩa duy lý, chống lại sự thống trị kỹ thuật của chủ nghĩa thực
chứng duy khoa học. Vì vậy, nó là một thứ chủ nghĩa phi duy lý nhằm khẳng
định những bản sắc của con người. Xu hướng này bao gồm chủ nghĩa Freud,
triết học đời sống, nhân học triết học, chú giải học, hiện tượng học, chủ nghĩa
thực dụng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc…
Ba là, trào lưu triết học tôn giáo với chủ nghĩa Tômat mới được thay thế
bằng chủ nghĩa Teihard.
Như vậy có thể thấy từ giữa thế kỷ XIX đến nay, triết học phương Tây
hiện đại đã phát triển rất phong phú và đa dạng theo từng thời kỳ. Từ dần xa
rời truyền thống duy vật và biện chứng của triết học Anh, Pháp, Đức vào thời
kỳ đầu, triết học phương Tây hiện đại đã chuyển hướng sang chủ nghĩa duy
tâm và phép siêu hình, nhưng sau đó không ngừng phân hóa thành nhiều
trường phái và xoay quanh hai trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa
học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý.
3. Đặc trưng chủ yếu của Triết học phương Tây hiện đại
Cùng với tiến trình của lịch sử, triết học phương Tây hiện đại đã có những
diễn biến phức tạp của sự phân hóa và sự thích hợp với thời đại. Từ đó nó biểu
hiện một số đặc trưng nổi bật sau:
- Triết học phương Tây hiện đại có ý đồ vượt lên trên sự đối lập của chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đều nhằm phủ nhận vấn đề cơ bản của triết
học. Triết học Phương Tây hiện đại chỉ coi những vấn đề lô gíc học, kết cấu
ngôn ngữ, quan hệ ngôn ngữ và tư duy mới là những vấn đề trung tâm của triết
học và tuyên bố chống cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Tuy vậy, tính
chất duy tâm của triết học phương Tây hiện đại lại thể hiện rõ trong triết học lịch

sử, phủ định tính quy luật khách quan của sự phát triển xã hội.
6


- Triết học phương Tây hiện đại giải thích sai lệch hoặc chống lại phép
biện chứng của chủ nghĩa Mác. Triết học phương Tây hiện đại ngoài mácxít giải
thích sai lệnh hoặc chống lại phép biện chứng, nó chỉ thừa nhận biến đổi về
lượng mà không thừa nhận biến đổi về chất, hoặc tuyệt đối hoá quá trình vận
động, phủ nhận sự đứng im tương đối, làm cho phép biên chứng mang màu sắc
thần bí.
- Với tư cách là hình thái ý thức tư sản ở giai đoạn xã hội tư sản lâm vào
khủng hoảng sâu sắc, triết học phương Tây hiện đại đã không còn mang một
hình thức lý luận thống nhất và hoàn chỉnh. Phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể
luận, nhận thức luận và lô gíc học. Với tư cách là hình thái ý thức tư sản ở giai
đoạn xã hội tư sản lâm vào khủng hoảng sâu sắc, triết học phương Tây hiện đại
đã không còn mang một hình thức lý luận thống nhất và hoàn chỉnh. Nó phá vỡ
sự thống nhất của bản thể luận, nhận thức luận và lôgíc học, đề cao khoa học để
hạ thấp triết học, quy triết học là sự tổng hợp của các khoa học cụ thể hoặc sự
phân tích về phương pháp mà thực chất là nhằm thủ tiêu triết học.
- Là hình thái ý thức của giai cấp tư sản nhưng khuynh hướng chính trị của
các trường phái lại có sự khác biệt nhất định. Đặt ra được nhưng không giải
quyết đúng một số vấn đề cấp bách hiện nay của nhân loại. Triết học phương
Tây tư sản hiện đại xuất hiện với tư cách là hình thái ý thức của giai cấp tư sản,
nhưng khuynh hướng chính trị của các trường có sự khác biệt nhau. Biện hộ cho
chủ nghĩa tư bản, bộc lộ trạng thái hoang mang của tầng lớp trung gian đối với
sự khủng hoảng của xã hội tư sản v.v.
Quan hệ giữa khoa học kỹ thuật và con người. Sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật có ý nghĩa gì đối với đời sống của con người? Chủ nghĩa ta bản có tiền đồ
hay không? nhân loại rốt cuộc sẽ ra sao? Đã phát hiện đúng một số nhược điểm
của chủ nghĩa kỹ trị và triết học duy lý, đã vạch ra những mâu thuẫn, khủng

hoảng, nhất là hiện tượng tha hoá của xã hội phương Tây hiện đại, nhưng các
nhà triết học phương Tây bị hạn chế ở lập trường duy tâm không tổng kết và
khái quát đúng quy luật phát triển của khoa học.
Như vậy triết học phương Tây hiện đại phản ánh được một số vấn đề mới
của thời đại hiện nay, đã có những tìm tòi và đạt được nhiều thành quả nhận
7


thức nhất định, song do hạn chế về lập trường giai cấp nên không đưa ra được
câu trả lời khoa học cho các vấn đề đó, càng không thể chỉ ra phương hướng
phát triển của nhân loại.
PHẦN II: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ
LIÊN HỆ THỰC TẾ HIỆN NAY
1. Trào lưu triết học nhân bản phi lý tính
Như đã trình bày phía trên, từ đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế
giới thứ hai, triết học phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều
trường phái, nhưng xoay quanh hai trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa
học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản đi lên, chủ
nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo đã từng là hai vũ khí tư tưởng của giai cấp
tư sản chống lại chế độ phong kiến và thần học và chủ nghĩa kinh viện. Lúc đó,
giai cấp tư sản tôn sùng lý tính, đề cao khoa học và chủ nghĩa nhân đạo để dùng
chúng chống lại tôn giáo và chế độ chuyên chế phong kiến. Trong cuộc đấu
tranh của giai cấp tư sản nhằm xác lập và phát triển chủ nghĩa tư bản, thì chủ
nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo thống nhất với nhau và đã có vai trò lịch sử
tiến bộ. Sau khi giành được chính quyền, giai cấp tư sản buộc phải đối phó với
những lực lượng xã hội mới và các mâu thuẫn xã hội mới ngày càng bộc lộ gay
gắt. Họ không còn nhu cầu chống lại thần học, tôn giáo như trước đây. Nhưng
để phát triển sức sản xuất, củng cố sự thống trị của bản thân họ, giai cấp tư sản
cần phát triển khoa học kỹ thuật. Vì vậy, giai cấp này tìm cách điều hoà mâu
thuẫn giữa khoa học và tôn giáo. Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ

thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn không đưa lại “tự do,
bình đẳng, bác ái”. Trái lại, nó còn dẫn đến các cuộc khủng hoảng xã hội, khủng
hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái ngày càng sâu sắc, đẩy con người vào
tình trạng tha hoá toàn diện ngày càng nặng nề hơn.
Trong điều kiện lịch sử đó, trong triết học phương Tây đã diễn ra sự tách
biệt và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản. Để phát triển sản
xuất, gia tăng lợi nhuận, giai cấp tư sản cần đến khoa học, nhưng lại lý giải khoa
học một cách duy tâm, do đó đã hình thành trào lưu triết học duy khoa học theo
lập trường duy tâm đẩy mâu thuẫn trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư
8


sản không muốn thừa nhận các quy luật khách quan của sự phát triển nên họ đề
cao chủ nghĩa phi duy lý. Do đó đã hình thành trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi
duy lý. Chủ nghĩa nhân bản phi duy lý hay còn gọi là trào lưu triết học nhân bản
phi lý tính chính là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa duy lý, chống lại sự thống
trị kỹ thuật của chủ nghĩa thực chứng duy khoa học. Nó là một thứ chủ nghĩa phi
duy lý nhằm khẳng định những bản sắc của con người mà đại diện có thể kể đến
như: chủ nghĩa Phreud, triết học đời sống, nhân học triết học, chú giải học, hiện
tượng học, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc…
2. Chủ nghĩa hiện sinh và những nội dung cơ bản của
chủ nghĩa hiện sinh
2.1 Bối cảnh lịch sử và nguyên nhân ra đời
* Về bối cảnh lịch sử
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu chủ
nghĩa nhân bản phi duy lý Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính đặc thù
độc đáo của tồn tại con người. Tính độc đáo này không thể nhận thức bằng khái
niệm và cũng không thể diễn đạt qua ngôn ngữ. Chủ nghĩa hiện sinh bắt nguồn
từ học thuyết của Kiếckegơ và trở thành một trào lưu tư tưởng phổ biến ở Đức
vào những năm 20 của thế kỷ XX. Lúc đó nước Đức thua trận trong chiến tranh

thế giới thứ nhất và bị tàn phá nghiêm trọng. Triết học hiện sinh của Hâyđơgiơ
phản ánh tâm trạng bi quan của xã hội Đức trước sự tàn phá đó. Trong chiến
tranh thế giới II, trung tâm của chủ nghĩa hiện sinh từ nước Đức chuyển sang
nước Pháp. Sau chiến tranh thế giới II, mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản tiếp
tục phát triển gay gắt. Các cuộc khủng hoảng nhiên liệu, khủng hoảng sinh thái
cùng với đạo đức xã hội suy thoái đã làm tăng sự khủng hoảng về tâm hồn trong
xã hội các nước tư bản chủ nghĩa, khiến cho tư tưởng hiện sinh lan tràn trên
nước Mỹ và sang nhiều nước phương Tây khác. Chủ nghĩa hiện sinh đầu thế kỷ
XX có cội nguồn sâu xa mà trực tiếp nhất là triết học phi duy lý ở thế kỷ XIX.
*Về nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời từ hai nguyên nhân trực tiếp sau đây:
- Nguyên nhân thứ nhất là từ mâu thuẫn của xã hội tư bản. PTSX TBCN
chạy theo lợi nhuận tối đa đã đẩy con người vào tình trạng tha hoá cùng cực, lấy
9


đi của họ cái vị trí làm người đích thực. Những tệ nạn xã hội cùng với sự tàn phá
khủng khiếp từ hai cuộc thế chiến do chủ nghĩa đế quốc gây ra đã đẩy con người
vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong đời sống tinh thần. Nhiều luận điểm
của chủ nghĩa hiện sinh cùng với phong trào hiện sinh thể hiện sự nổi loạn trong
lòng xã hội tư bản nhằm lên án nó, chống lại nó, kêu gọi con người phải tự cứu
lấy mình. Nhưng dựa vào cái gì để cứu mình và cứu xã hội thì họ chưa rõ.
- Nguyên nhân thứ hai là phản ứng trước việc các nước phương Tây tuỵêt
đối hoá vai trò của khoa học, sùng bái kỹ thuật đã hạ thấp, bỏ rơi con người hoặc
chỉ quan tâm đến mặt vật chất mà xem nhẹ mặt tâm hồn, đời sống tình cảm của
họ. Triết học duy lý đã từng có vai trò tích cực nhất định trong việc làm cho các
nước phương Tây đạt được những thành tựu vượt bậc trong chinh phục tự nhiên
bằng khoa học, công nghệ hiện đại. Đồng thời khoa học kỹ thuật cũng bắt con
người phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về môi trường, xã hội, sinh thái,
sức khoẻ. Một xã hội phương Tây giàu có về vật chất lại nghèo nàn về văn hoá,

tinh thần; tăng trưởng nhanh về kinh tế lại suy thoái nhanh về văn hóa, đạo đức.
Các nhà triết học hiện sinh hoàn toàn có lý khi họ kịch liệt phê phán sự tuyệt đối
hoá vai trò của lý trí, của khoa học khi họ vạch rõ sự thiếu hụt tinh thần nhân
đạo trong chính nền tảng của văn minh phương Tây. Nhưng họ đã mắc sai lầm
khi chỉ thừa nhận vai trò của cảm giác, của xúc cảm cá nhân, tức là ngả sang
phía chủ quan phi duy lý.
2.2. Các nội dung cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức tạp. Quan điểm
của những đại biểu triết học này thường có sự khác nhau rất lớn. Ngoài sự phân
biệt quốc gia như chủ nghĩa hiện sinh Đức, chủ nghĩa hiện sinh Pháp và chủ
nghĩa hiện sinh của Mỹ, còn có thể phân biệt chủ nghĩa hiện sinh theo thái độ
với tôn giáo như chủ nghĩa hiện sinh vô thần và chủ nghĩa hiện sinh hữu thần.
Trên những vấn đề chính trị lớn, giữa những nhà triết học hiện sinh cũng có
những khác biệt lớn. Nhưng tất cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh đều coi
sự hiện sinh của cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học của mình, đều coi
hiện sinh là sự cảm thụ chủ quan, sự thể nghiệm tâm lý có tính chất phi lý tính

10


của cá nhân. Các nội dung cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh thể hiện ở các điểm
cụ thể như sau:
Về mặt bản thể luận: Chủ nghĩa hiện sinh nhấn mạnh việc nghiên cứu bản
thể luận nhưng cho rằng khuyết điểm căn bản của triết học truyền thống không
phải là đã nghiên cứu bản thể luận mà là phương hướng nghiên cứu không đúng,
không giải thích đúng đắn đối với hiện sinh. Bởi vì hiện sinh có trước bản chất.
Xactơrơ giải thích điều này như sau: Thế nào là hiện sinh có trước bản chất?
Điều đó có nghĩa là con người hiện hữu trước, tự nổi lên trong thế giới, và sau đó
nó mới được định nghĩa. Con người nếu như nó không định nghĩa được, đó là vì
không có cái gì cả. Con người không có cái gì khác ngoài cái mà nó đang hiện ra.

Các nhà hiện sinh phân biệt hai khái niệm hữu thể và hiện hữu (hiện sinh).
Hữu thể là khái niệm chỉ một cái gì đó (một vật,một người) đang tồn tại, đang có
mặt nhưng chưa là một cái gì đó cụ thể cả, chưa có diện mạo, chưa có cá tính.
Đó là một tồn tại chưa sống đích thực, vô hồn tức là chưa hiện hữu. Còn hiện
hữu là một khái niệm chỉ một cái gì đó không những là đang có mặt (tồn tại) mà
còn là đang sống đích thực với diện mạo riêng.
Do đó hiện sinh không phải là giới tự nhiên hoặc sự vật, mà là con người.
Bởi vì chỉ có con người mới hiểu được sự tồn tại của bản thân và của sự vật
khác. Chỉ có con người mới có hiện sinh. Hiện sinh của con người không phải là
sự tồn tại lịch sử cụ thẻ của họ trong những quan hệ xã hội, mà là sự tồn tại tinh
thần của nhân vị. Chỉ có xuất phát từ tinh thần tồn tại của nhân vị mới có thể lý
giải ý nghĩa của toàn bộ thế giới. Do đó nhiệm vụ hàng đầu của triết học là phân
tích vè mặt bản thể luận đối với hiện sinh, tức là mô tả sự tồn tại bản chất của
con người trong hoạt động ý thức phi duy lý của các cá nhân. Đó mới là bản thể
luận duy nhất đúng. Thực chất đây là bản thể luận duy tâm chủ quan.
Về mặt nhận thức luận: do đã coi vấn đề bản thể luận trung tâm của triết
học là sự cảm thụ chủ quan và thái độ ứng xử của cá nhân nên chủ nghĩa hiện
sinh không chú trọng nghiên cứu nhận thức khoa học. Trái lại, chủ nghĩa hiện
sinh cho rằng những tri thức khoa học thu được do lý tính là hư ảo. Người ta
càng dựa vào lý tính, khoa học thì càng khiến mình bị chi phối, từ đó bị tha hoá.
Theo họ để đạt đến hiẹn sinh chân chínhchỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính.
11


Chỉ có trong cuộc sống đau khổ, cô đơn, sợ hãi, tuyệt vọng… con người mới có
thể trực tiếp cảm nhận được sự tòn tại của mình. Như vậy, nhận thức luận của
chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức duy tâm chủ quan phi duy lý.
Về luân lý: Chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận
trong đạo đức, phủ nhận sự tồn tại phổ biến của các nguyên tắc đạo đức.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá

nhân con người, nó không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào, cũng
không chịu sự ràng buộc của bất cứ tính tất yếu khách quan nào, nó là tuyệt đối.
Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn của tự do cá nhân.
Chủ nghĩa hiện sinh còn đặt tự do của cá nhân đối chọi với tự do của cá nhân
khác. Tự do của cá nhân không bị gò bó bởi người khác hay bất kỳ lưc lượng xã
hội nào. Như vậy, quan điểm tự do của chủ nghĩa hiện sinh là quan điểm tự do
cá nhân cực đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội: Chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá
nhân tuyệt đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là
một phương thức hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh
không chân thực. Bởi vì xã hội và cá nhân liên hệ chặt chẽ thì sự tồn tại của cá
nhân sẽ không còn là cá nhân thực sự mà là cá nhân bị đối tượng hoá, bị mất cá
tính do bị ràng buộc với người khác và với xã hội, là cá nhân bị tập thể, bị xã hội
lấn át. Do đó, tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Để
khôi phục sự hiện sinh chân chính của mình, con người cần thoát khỏi sự ràng
buộc của những người khác và của xã hội. Xã hội chính là sản vật tha hoá của
con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách quan tự thân phát triển
theo quy luật, mà chỉ là một mớ ngẫu nhiên những con người bị tha hoá. Động
lực phát triển tất nhiên cũng không nằm trong bản thân xã hội mà là do hiện sinh
của cá nhân quyết định. Do đó cần tìm tiến trình và đặc điểm của lịch sử thế giới
ở bên trong cá nhân con người.
Chủ nghĩa hiện sinh còn cho rằng, lịch sử là không thể nhận thức được.
Theo họ, lịch sử chẳng qua là sự biểu hiện ra bên ngoài của tồn tại của con
người, mà sự tồn tại của con người là không thể biết được. Vì chúng ta không
hiểu biết về quá khứ, cũng không hiểu biết về tương lai, nên chúng ta không
12


hiểu được thực sự hiện tại. Cho nên đốivới con người thì líchử xã hội mãi mãi
chỉ là một vùng đen tối. Lịch xã hội đã không thể biết thì đứng trước xã hội con

người tất nhiên cảm thấy yếu đuối, bất lực.
Theo chủ nghĩa hiện sinh, một mặt lịch sử xã hội là sự tha hoá của tồn tại
cá nhân, nên bản thân nó không có thực tại khách quan; mặt khác con người lại
bị nô dịch bởi những cái mà họ sáng tao ra, đó là sức mạnh tha hóa. Hơn nữa,
mọi cố gắng thoát khỏi sự nô dịch đó đều vô ích, đều bị thất bại. Do đó, lịch sử
loài người chỉ là một bi kịch không có kết thúc. Vậy con người làm thế nào để
giải thoát khỏi sức mạnh tha hoá và bi kịch của họ? Chủ nghĩa hiện sinh nhận
định rằng không thể dựa vào khoa học và lý tính hay bất cứ cái gì khác mà chỉ
có thể tự cứu mình bằng những hành động tự phát, mạo hiểm hoặc chờ mong sự
giải thoát ở các lực lượng tôn giáo thần bí. Đó là con đường bế tắc mà chủ nghĩa
hiện sinh chỉ ra cho con người.
Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng của con người trước tình trạng bất ổn
về xã hội trong thời kỳ khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa tư bản như lo sự
chiến tranh, không tin vào khoa học, đau khổ, phiền não, tuyệt vọng vì thế nó có
ảnh hưởng mạnh mẽ, rộng rãi đối với thế giới phương Tây.
Từ cuối những năm 60 đầu những năm 70 đến nay, khi mà chủ nghĩa tư
bản đi vào thời kì tương đối ổn định thì vai trò của chủ nghĩa hiện sinh tương đối
mờ nhạt và bị thay thế bởi các triết học khác. Nhưng vì chủ nghĩa tư bản không
có cách nào căn bản thoát khỏi các mâu thuãn xã hội vốn có của nó, nên chủ
nghĩa hiện sinh tuy đã suy thoái nhưng những tư tưởng chủ yếu của nó vẫn tiếp
tục có ảnh hưởng đến khoa học nhân văn, triết học và khoa học xã hội ở nhiều
nước phương Tây. Giải pháp của chủ nghĩa hiện sinh đối với các vấn đề xã hội
cơ bản là tiêu cực.Nhưng các nhà hiện sinh đã đóng vai trò tích cực khi họ đặt ra
và đề cao nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề về bản chất con người, về sự tôn vinh
các giá trị con người, về tự do cá nhân, về sự tha hoá do sự thống trị của kĩ thuật
v. v. cũng như việc họ thức tỉnh mọi người phải trăn trở về ý nghĩa của cuộc
sống và về các hiện tượng bất hợp lý trong xã hội tư bản hiện đại.
2.3. Đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh
2.3.1. Kierkegaard (1812 – 1855):
13



Kiếckegơ sinh ra tại Đan Mạch ông
được coi là cha đẻ của chủ nghĩa hiện
sinh. Ông là triết gia đầu tiên đã đem đời
mình, đời cha mình ra để suy nghiệm về
nỗi thống khổ của con người. Với ông, con
người không phải là con người trừu tượng,
con người phổ quát, con người được đem
ra làm vật thể để lý luận như trong triết
học duy lý của Heghen, con người mà ông
khảo sát ở đây là chính bản thân ông, với
những giai đoạn trong đường đời. Đó là lý
do khiến ông trở thành ông tổ đích thực
của triết học Hiện Sinh. Người ta nói rằng

Kierkegaard (1812 – 1855)

“ hiện tượng học Đức + kierkegaard = chủ nghĩa hiện sinh” . Ông tiến hành phê
phán chủ nghĩa duy lý của A.Comte, đặc biệt là của heeghen, có thể nói chủ nghĩa
hiện sinh đã rút ra những chủ đề của mình từ sự phê phán Heghen. Triết học của
Kierkergaard là triết học nghiệm sinh trên cá nhân tác giả.
2.3.2. Martin Heiderger (1889 –1976):
Martin Heiderger là một triết gia
Đức. Ông chịu ảnh hưởng của triết
học Brentano, sau khi nghiên cứu, ông
quyết định tìm hiểu ý nghĩa của khái
niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại
người. Ông từng là học trò và là trợ giảng
cho Huxec, sau đó đã kế tục Huxec giảng

dạy triết học tại đại học tổng hợp Freiburg.
Heiderger là người đã thừa nhận tư
tưởng Đức quốc xã, năm 1933 -1934, ông
trở thành hiệu trưởng đại học Freiburg
nhưng sau đó do bị khủng hoảng tinh thần
ông đã từ chức

Martin Heiderger (1889 –1976)
14


Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: "Tồn tại và thời gian" đây là tác phẩm
đã đưa ông trở nên nổi tiếng được xuất bản năm 1927; " Kant và vấn đề siêu
hình học"; "Nhập môn siêu hình học" (1935); " Học thuyết Platon về chân lý"
(1942); "Bức thư về chủ nghĩa nhân đạo" (1947); "Những con đường rừng"
(1950); Những bài thuyết trình và những bài viết (1952); "Tư duy là gì" (1954);
"Nietzsche" (1961);….
Bản thể luận của Heidegger là học thuyết về tồn tại con người, về cấu trúc
của tồn tại con người.
Heidegger cho rằng, triết học châu Âu trước đó chỉ đặt ra vấn đề hiện hữu
nói chung và sự hiện hữu tối cao là Chúa, chứ không đặt ra vấn đề: thông qua
cái gì mà tất cả mọi sự hiện hữu mới có thể là hiện hữu? Tức là triết học truyền
thống đã không đặt ra vấn đề tồn tại người.
Heidegger cho rằng tồn tại người là xuất phát điểm, là hiện thực đầu tiên có
tính thứ nhất. Khác các hiện hữu khác, tồn tại người là một hiện hữu ý thức được
sự hiện hữu của chính mình, tức là có khả năng nhận thức, khả năng tự hỏi về
vấn đề hiện hữu. Tồn tại không phải là các sự vật và nó cũng khác hiện hữu. Tồn
tại người là nền tảng, là nguồn gốc của toàn bộ hiện hữu.
Nếu đối tượng nghiên cứu của bản thể luận truyền thống là vật thể, hay cao
hơn nữa là Chúa trời thì đối tượng nghiên cứu của bản thể luận chính là tồn tại.

Theo Heiderger tồn tại chính là cái định đoạt sự vật như là sự vật, là cái trên cơ
sở đó sự vật đã được hiểu.
Trong các vật thể, con người là một loại đặc biệt. Sự đặc biệt đó, theo
Heiderger là do trong sự tồn tại của con người có sự hiện diện sự hiểu biết về
tồn tại. Chỉ trong sự tồn tại của con người mới tiềm ẩn một sự hiểu biết về tồn
tại. Nó thể hiện trong cách sống của con người, trong cách con người liên hệ với
các vật thể khác.
Heidegger phân biệt hiện hữu là khác với tồn tại, hiện hữu là một cái gì đó
được hình thành và có được bằng một cách nào đó.
Bản thân hiện hữu có tính hữu hạn và tính đặc thù. Hiện hữu có nền tảng là
tồn tại người. Hiện hữu là đối tượng của các khoa học tự nhiên (vật lý, hóa học,
15


sinh học…) và các khoa học xã hội nhân văn (sử học, xã hội học, nhân học…),
trong khi đó chỉ có tồn tại người mới là đối tượng của triết học.
Xuất phát từ quan niệm như vậy về tồn tại và hiện hữu, Heidegger đã đi
đến phê phán triết học châu Âu sau Socrate. Ông cho rằng triết học sau Socrate
đã không phân biệt được sự khác nhau giữa tồn tại người với sự hiện hữu của
các sự vật khác. Nó coi tồn tại người cũng giống như tồn tại của các sự vật khác,
nó đã đồng nhất tồn tại và hiện hữu với nhau. Và như vậy, quan niệm cũ đó đã
đưa đến quan niệm sai lầm về con người, coi con người là một con vật thuần túy
sinh học.
Nét đặc trưng cơ bản của tồn tại người là siêu việt, theo Heiderger thì sự
siêu việt này đặc trưng bởi sự tồn tại trong thế giới. Mọi mối liên hệ giữa con
người với vật thể và đồng loại có được là do sự siêu việt này thế nên con người
không phải là "chủ thể" tư duy, đứng ngoài quan sát và nhận biết thế giới bên
ngoài mà con người, trong sự tồn tại của mình với tư cách là tồn tại trong thế
giới đã luôn ở trong, hóa nhập với thế giới đó.
2.3.3. GI.P.Xáctơrơ (1905-1980)


16


Chủ nghĩa hiện sinh vô thần của
Gi.P.Xáctơrơ là sản phẩm của sự dung
hoà, sự kết hợp theo một cách riêng
của ba khuynh hướng tư tưởng hiện
đại - chủ nghĩa Mác, hiện tượng học
Huxéc và chủ nghĩa hiện sinh
Haiđơgơ - trên cơ sở lấy quan điểm
chung của ba khuynh hướng tư tưởng
này làm xuất phát điểm - quan điểm
khẳng định vai trò tích cực của con
người trong việc tự sáng tạo nên bản
chất của chính mình. Nguyên lý nền
tảng của chủ nghĩa hiện sinh vô thần

GI.P.Xáctơrơ (1905-1980)

này là “Tồn tại có trước bản chất”, còn vấn đề trung tâm của nó là sự tự do của
con người. Con người là tự do nên con người có thể làm cho mình trở thành một
thực thể hiện hữu, tồn tại với tư cách một “nhân vị”, một “hữu thể”. Bản tính
con người là cái không thể được “định nghĩa” trước bởi Thượng đế hay một
Đấng sáng tạo nào đó. Con người tự tạo nên bản tính của mình bằng sự tự do lựa
chọn sau khi đã tồn tại như một “hữu thể”, tồn tại một cách hiện sinh.
Là người có năng khiếu văn học từ rất sớm, Gi.P.Xáctơrơ coi “văn học là
hoạt động cao nhất của con người” và với quan điểm này, ông đặc biệt chú trọng
sử dụng văn học làm phương tiện chuyển tải những tư tưởng triết học. Ở ông,
văn học và triết học là bất phân. Văn học ở ông là văn học hiện sinh, còn triết

học là triết học hiện sinh. Do vậy, đã có người cho rằng, nói tới triết học hiện
sinh của Gi.P.Xáctơrơ mà bỏ qua văn học hiện sinh của ông thì như vậy, coi như
mới chỉ biết có “một nửa” triết học đó mà thôi. Trong sự nghiệp sáng tạo văn
học, Gi.P.Xáctơrơ đã để lại cho nhân loại, trong đó có cả những người yêu văn
học ở nước ta, những tác phẩm vào hàng kinh điển mà không chỉ nhiều độc giả
trên phạm vi toàn thế giới ở thế kỷ XX và có lẽ còn nhiều độc giả nữa trong thế
kỷ XXI này vẫn đọc chúng một cách say mê. Với những tác phẩm văn học đầy
tính triết lý và mang nặng tư tưởng triết học hiện sinh, đặc biệt là Buồn
nôn và Ruồi mà nhiều độc giả nước ta đã được đọc qua bản dịch sang tiếng Việt
17


của Nhà xuất bản Văn học, vào năm 1964, Gi.P.Xáctơrơ đã được Ủy ban giải
Nôben đề nghị trao giải Nôben văn học. Thế nhưng, thật bất ngờ, Gi.P.Xáctơrơ
đã từ chối giải thưởng cao quý này với lý do “Tôi không muốn biến nó thành
một cơ chế” và theo chúng tôi, có lẽ còn vì ông đã nghĩ trước hết và hơn hết,
ông là nhà triết học.
Không chỉ thế, Gi.P.Xáctơrơ còn được tôn vinh bởi ông là một chiến sĩ
kiên cường trên mặt trận chống chủ nghĩa phát xít (ông tham gia phong trào
kháng chiến chống Đức quốc xã chiếm đóng Pari trong tư cách một quân nhân
Pháp và bị quân Đức bắt giam năm 1940, năm sau ông trốn thoát), là nhà hoạt
động chính trị - xã hội lừng danh, người đấu tranh không biết mệt mỏi cho hòa
bình, công lý, cho phong trào giải phóng dân tộc và cho sự tự do của con người.
Với những đóng góp lớn lao trên lĩnh vực này, ông đã được Chính phủ Pháp
quyết định trao Huân chương Bắc đẩu bội tinh - Huân chương cao quý nhất của
Nhà nước Pháp. Song, cũng lại thật bất ngờ, ông đã từ chối không nhận vinh
quang này với lý do đã dấn thân vào hoạt động chính trị mà ông cho là “một
cách tích cực”. Năm 1967, với tư cách là người ủng hộ nhiệt thành cuộc chiến
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược,
Gi.P.Xáctơrơ đã được bầu làm Chủ tịch Tòa án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh

ở Việt Nam. Và, nhân dịp Tòa án này mở phiên chính thức đầu tiên, ngày 6
tháng 5 năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi đến ông và các vị trong Tòa án
lời chúc mừng và cảm ơn chân thành.
Gi.P.Xáctơrơ còn là người cầm bút ở cương vị nhà báo, là người đồng sáng
lập tờ báo Giải phóng (Liberation) và tờ tạp chí Thời đại (Les Temps Modernes)
có khuynh hướng nghiêng về cánh tả. Với tư cách nhà báo, ông đã viết nhiều bài
chính luận nổi tiếng.
Là con người nổi tiếng, nhưng Gi.P.Xáctơrơ lại có cuộc sống đơn sơ, thậm
chí còn nghèo khó trong một căn hộ nhỏ ở Pari để rồi dành sự viên mãn cho hoạt
động sáng tạo triết học và văn học, cho những hoạt động chính trị - xã hội và
qua đời khi đã viết đến gần như bị mù.
Gi.P.Xáctơrơ chịu ảnh hưởng sâu xa của chủ nghĩa Mác, coi chủ nghĩa Mác
là triết lý của thời đại, đánh giá cao triết học Mác, nhất là chủ nghĩa duy vật lịch
18


sử và cũng đã từng đi đến nhiều nước có phong trào cộng sản, tiếp xúc với nhiều
nhà lãnh đạo phong trào này, song ông chưa bao giờ trở thành đảng viên cộng
sản với lý do là làm như vậy, “Tôi sẽ phải quay lưng lại vớiTồn tại và hư vô của
mình”.
Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song chủ nghĩa hiện sinh vô thần
của Gi.P.Xáctơrơ vẫn được thừa nhận là một chủ nghĩa nhân đạo, một trào lưu
triết học tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại thế kỷ XX. Gi.P.Xáctơrơ vẫn
đi vào lịch sử tư tưởng nhân loại với tư cách “nhà triết học của thế kỷ XX”,
người sáng lập chủ nghĩa hiện sinh vô thần Pháp.
3. Lối sống hiện sinh trong giới trẻ hiện nay
Hiện sinh là lối sống mà con người hành động theo bản năng, theo sở thích
đôi khi là muốn làm cái gì đó một cách bồng bột trong lúc mất đi sự kiểm soát
của chính mình. Hiện sinh ở lối sống thanh niên đa phần là hành động theo cảm
tính chứ ít lý tính. Lối sống hiện sinh trong tầng lớp thanh niên Việt Nam hiện

nay đôi khi cũng có lợi phát huy được khả năng của con người; nhưng đa phần
là biểu hiện tiêu cực trong lối sống của không ít giới trẻ hiện nay. Ví dụ ở lối
sống hiện sinh, như trường hợp không ít bố mẹ áp đặt ngành nghề cho con em
mình. Người Việt Nam có truyền thống lối dõi tông đường, “con ông cháu cha”,
cha truyền con nối. Cha mẹ luôn muốn con đi theo con đường sự nghiệp mà họ
muốn và cho rằng đó là con đường an toàn và hạnh phúc nhất cho con mình; họ
không muốn để ý đến ước mơ, sở thích của con cái. Những đứa trẻ là con cái
của những gia đình như vậy thường có xu hướng theo bố mẹ, nhưng cá biệt với
những trường hợp có ước mơ hoài bão của riêng mình với tư tưởng hiện sinh
chúng sẽ không làm theo cha mẹ, chúng làm những gì chúng thích và rồi chúng
sống hạnh phúc với nghề nghiệp mình chọn. Lối sống hiện sinh còn thể hiện ở
việc giới trẻ kết hôn với nhau vượt lên trên định kiến gia đình. Điển hình như
việc tuổi tác không hợp nhau trong hôn nhân, với tư tưởng hiện sinh nhưng đôi
yêu nhau sẽ lấy nhau vì tình cảm mà không cần để ý đến những định kiến xung
quanh như không hợp tuổi, hợp mệnh, nhà người này không điều kiện bằng nhà
người kia… Nhiều khi theo chủ nghĩa hiện sinh con người có thể được sống thật
với bản thân mình với những gì mình có. Mặt trái của chủ nghĩa hiện sinh đó là
19


lối sống thực dụng của giới trẻ hiện nay. Thanh niên là một lực lượng đông đảo
chiếm trên 1/3 dân số và trên 1/2 lực lượng lao động trong xã hội, có vai trò
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là người chủ tương lai
của nước nhà.
Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng cao. Song
hành cùng với nó là mặt trái của nền kinh tế thị trường đang hàng ngày, hàng
giờ tác động đến mọi ngõ ngách của đời sống. Trong sự tác động ấy, tầng lớp
thanh niên, học sinh-sinh viên - hình ảnh tương lai của xã hội là lực lượng chịu
ảnh hưởng nhiều nhất. Do đó, nhận diện đúng thực trạng văn hóa lối sống thanh
niên, học sinh-sinh viên là cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng mẫu

hình văn hóa lối sống, định hướng con đường phát triển cho giới trẻ.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, đại bộ phận thanh thiếu niên vẫn giữ
vững đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, giản dị, lành mạnh biết vươn tới
giá trị Chân, Thiện, Mỹ; sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin ở tương lai
tươi sáng của dân tộc. Họ dám đấu tranh để bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo
vệ sự công bằng, lên án cái xấu, cái ác… Đa số thanh niên tích cực học tập, lao
động, sống lành mạnh, tình nghĩa, đi đầu vào những việc khó, việc mới, không
quản ngại gian khổ, hi sinh, ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đóng góp to lớn vào thành tựu đổi
mới của đất nước.
Trong khi rất nhiều người đang cố gắng đóng góp một phần công sức nhỏ
bé của mình mong muốn một xã hội tốt đẹp hơn thì một bộ phận không ít thanh
niên chưa thật sự vững tin vào tương lai của đất nước, giảm sút ý chí phấn đấu
vươn lên, ngại khó khăn, vất vả, sống thực dụng, ích kỷ, buông thả, thờ ơ, hành
xử thô bạo, vi phạm pháp luật nhà nước, coi nặng giá trị vật chất... Họ sống hờ
hững với những gì diễn ra xung quanh, sống theo quan niệm: “Được đến đâu thì
hay đến đó”. Trong đó lối sống thực dụng như căn bệnh nguy hiểm cần phải
được loại trừ. Lối sống thực dụng sẽ làm tha hóa con người, khơi dậy những
ham muốn bản năng, cơ hội, chạy theo hưởng lạc, những lợi ích trực tiếp, trước
mắt, xa rời những mục tiêu phấn đấu. Trong quan hệ xã hội giữa người với
người, những tình cảm lành mạnh bị thay thế bằng những quan hệ vụ lợi, vật
20


chất. Trong đời sống họ vô trách nhiệm, bàng quan, vô cảm, không đấu tranh
chống cái sai và cũng không ủng hộ, bảo vệ cái đúng...
Như vậy có thể thấy Chủ nghĩa hiện sinh trong giai đoạn hiện nay đã được
các thế lực thù địch cải biến lại cho phù hợp để dễ dàng tồn tại ở nước ta với
một mục đích giả tạo đó là “thúc đẩy động lực con người” nhưng thực chất đó là
một thứ lý thuyết phản động nó chỉ làm cho con người mất niềm tin vào cuộc

sống đặc biệt là tầng lớp thanh niên hiện nay. Chúng ta cần giáo dục nhận thức
của vai trò của thanh niên với tương lai đất nước và sự nghiệp cách mạng chung
của đất nước trong thời đại mới đó là kiên trì đi lên chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế
độ tư bản chủ nghĩa, chống những tư tưởng của chủ nghĩa tư bản đặc biệt là chủ
nghĩa hiện sinh .

21


KẾT LUẬN
Triết học phương Tây hiện đại hình thành và phát triển ở phương Tây tư bản
chủ nghĩa, ở mức độ nhất định có thể nói đó là hình thái lý luận của thế giới quan
và nhân sinh quan giai cấp tư sản.
Triết học phương Tây hiện đại tiêu biểu với chủ nghĩa hiện sinh đã cho
chúng ta thấy được lối sống cá nhân đề cao bản tính của con người, với những bản
năng có thể tìm mọi cách để chống lại thực tại bi đát. Có thể hiểu rõ nhất ở chủ
nghĩa hiện sinh trên lập trường quan điểm lịch sử xã hội, khi thấy rằng nó xuất
phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân
thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương
thức hiện sinh không chân thực
Việc tìm hiểu, học tập và nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại giúp
chúng ta có được một nhận thức toàn diện, đúng đắn; thúc đẩy kết hợp giữa việc
nghiên cứu triết học phương Tây hiện đại của nước ta với việc nghiên cứu triết
học chủ nghĩa Marx trong giai đoạn mới.

22




×