Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC: PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG XIN VIỆC CHO SINH VIÊN NĂM CUỐI HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.68 KB, 73 trang )

BỘ NỘI VU
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG XIN VIỆC CHO SINH VIÊN NĂM CUỐI
HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

Mã số: DTSV.2015.89

Chủ nhiệm đề tài

: Nguyễn Thị Thu Thảo

Lớp

: 1205QTND

Khoa

: Tổ chức và Quản lý nhân lực

Giảng viên hướng dẫn

: ThS. Đoàn Văn Tình

Hà Nội, tháng 6 - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Nhóm tác giả xin cam đoan đề tài: “Phát triển kỹ năng xin việc của sinh viên


năm cuối hệ chính quy tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” là công trình nghiên cứu
của các thành viên trong nhóm. Tất cả các nội dung trong đề tài hoàn toàn được hình
thành và phát triển từ những quan điểm của các cá nhân trong nhóm, dưới sự hướng
dẫn khoa học của ThS. Đoàn Văn Tình. Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả
trong đề tài này là hoàn toàn trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào
trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét,
đánh giá được nhóm nghiên cứu thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi rõ trong danh
mục tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, nhóm nghiên cứu xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung đề tài của mình.

2


LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Phát triển kỹ năng xin việc của sinh viên năm cuối hệ chính quy tại
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội” đã được hoàn thành với nỗ lực của các thành viên
trong nhóm và sự quan tâm, giúp đỡ từ nhiều phía.
Nhóm tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên ThS. Đoàn Văn Tình
đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉnh sửa, giải đáp các thắc mắc và khó khăn mà nhóm nghiên
cứu gặp phải trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài nghiên cứu khoa học.
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy, cô trong
Trường đã hỗ trợ và tạo điều kiện để nhóm nghiên cứu được tham gia nghiên cứu khoa
học và hoàn thành đề tài đúng hạn.
Chúng tôi cũng xin cảm ơn các bạn sinh viên khóa 1205 đã nhiệt tình tham gia
khảo sát, tham gia trả lời phỏng vấn sâu, cung cấp thông tin hữu ích về quá trình tìm
việc để nhóm nghiên cứu hoàn thiện đề tài.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

1
2
3
4
5
6

Từ viết tắt
Ths
NXB
ILO
TS
CV
CLB

Từ viết đầy đầy đủ
Thạc sĩ
Nhà xuất bản
Tổ chức lao động quốc tế
Tiến sĩ
Curriculum vitae
Câu lạc bộ


MỤC LỤC

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN...............................................9
KỸ NĂNG XIN VIỆC CỦA SINH VIÊN............................................................9
1.1. Một số khái niệm............................................................................................9
1.1.1. Khái niệm kỹ năng....................................................................................9

1.6. Các yếu tố ảnh hưởng tới kỹ năng xin việc của sinh viên.......................24
Chương trình đào tạo...........................................................................................24
Sự hỗ trợ từ các cơ quan, tổ chức, từ đơn vị đào tạo...........................................24
Điều kiện học tập và trang thiết bị......................................................................25
Động cơ tìm kiếm việc làm.................................................................................26
DANH MUC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................64
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Số lượng sinh viên Bậc Đại học (khóa 2012 – 2016).........................31
Bảng 2.2: Điểm chuẩn đầu vào khóa Đại học 2012 – 2016................................32


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đại học trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang đứng
trước một bài toán hóc búa là giải quyết mâu thuẫn giữa việc vừa gia tăng kiến thức,
vừa phải nâng cao chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu xã hội đang biến đổi từng
ngày. Xu hướng mới cần rút ngắn thời gian đào tạo, tạo điều kiện để người học được
học theo nhu cầu với đa dạng các hình thức và nội dung đào tạo,… theo yêu cầu xã
hội, hội nhập quốc tế và sở thích cá nhân.
Để đánh giá chất lượng giáo dục đại học có nhiều tiêu chí như: Đội ngũ nhân
lực, cơ sở vật chất, phương pháp dạy và học, chất lượng nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ, năng lực quản lý giáo dục đại học,... Nhưng yếu tố quan trọng
nhất để đánh giá, khẳng định chất lượng đào tạo của mỗi trường đại học đó chính là
đầu ra, là việc làm của sinh viên. Theo Báo cáo của Hội nghị Tuyển sinh toàn quốc do
Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đầu năm 2011: có 37% sinh viên tốt nghiệp ra trường
không tìm được việc làm vì ngành nghề đã tốt nghiệp trên thị trường bị bão hòa; 57%

sinh viên sau khi ra trường phải học thêm nghề khác do phát hiện bản thân không phù
hợp với chuyên môn đã học; 50% số lượng sinh viên tại các trường đại học không có
hứng thú với ngành học đã chọn. Mặt khác, theo bản tin cập nhật thị trường lao động
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính tới quý 4 năm 2015, số người thất
nghiệp trong độ tuổi lao động là 1051 nghìn người. Trong đó, số người thất nghiệp đã
qua đào tạo là 191.492 người (chiếm khoảng 18,2%) (Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội, Bản tin cập nhật thị trường lao động hàng quý, số 8 năm 2015). Vì vậy, tỉ lệ
sinh viên ra trường không tìm kiếm được việc làm và không được làm các công việc
đúng chuyên môn chuyên ngành cao.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân, trực thuộc Bộ Nội vụ. Với trên 40 năm hình thành và phát triển, trường
có sứ mệnh mở cơ hội học tập cho mọi người với chất lượng tốt, phục vụ nhu cầu học
tập đa dạng với nhiều hình thức đào tạo, đa ngành, đa cấp độ, đáp ứng yêu cầu nguồn
nhân lực ngành Nội vụ và cho xã hội, phục vụ sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước
và hội nhập quốc tế. Nhà trường hiện đang tổ chức quản lý và đào tạo 27 ngành nghề,
trong đó có 6 ngành đại học, 11 ngành cao đẳng, 11 ngành trung cấp và đào tạo nghề.
Chương trình giáo dục đào tạo của Nhà trường được thiết kế bao gồm khối kiến thức,

1


kỹ năng cần thiết để sinh viên hòa nhập, thích ứng với công việc và cuộc sống. Tuy
nhiên, cũng giống như nhiều trường đại học khác, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội vẫn
chú trọng đào tạo về kiến thức nhiều hơn kỹ năng. Do đó, sinh viên chưa nắm bắt và
chuẩn bị những kỹ năng cần thiết để phục vụ cho quá trình xin việc.
Sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói chung và sinh viên năm cuối nói
riêng là nguồn nhân lực nòng cốt trong tương lai và đặc biệt là của ngành Nội vụ. Chính
những kiến thức về xin việc là động lực cho việc học tập, học hỏi, giao lưu, lĩnh hội tri
thức để sinh viên cố gắng trau dồi, hoàn thiện bản thân. Bên cạnh đó, sau khi rời khỏi
ghế Nhà trường, sinh viên có được những tri thức cơ bản về kỹ năng xin việc sẽ giúp họ

có thể nhanh chóng tìm được việc làm đúng ngành, đúng nghề, đúng chuyên môn.
Xuất phát từ những lí do trên, nhóm tác giả lựa chọn đề tài: "Phát triển kỹ năng
xin việc của sinh viên năm cuối hệ chính quy tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội".
Chúng tôi mong muốn kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho Nhà trường nói chung
và các bạn sinh viên năm cuối hệ chính quy nói riêng có những góc nhìn đa chiều về kỹ
năng xin việc, chuẩn bị hành trang tốt nhất để có việc làm ngay sau khi ra trường.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kỹ năng xin việc của sinh viên là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong môi trường đại học hiện nay. Do đó chủ đề này được nhiều tác giả quan tâm,
nghiên cứu.
2.1. Trên Thế giới
Trong cuốn “Chuẩn bị cho sự thành công về sự nghiệp” (Preparing For Career
Success) của J. Ryan và R. Ryan (1997) đã nhấn mạnh, khi người học chuyển từ thế
giới học đường sang thế giới việc làm, người học sẽ trở thành người lao động chính
thức. Đây là cuốn sách khá hấp dẫn với những chỉ dẫn rất thiết thực, cụ thể và phù hợp
với học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, cuốn sách mang đậm văn hóa Âu - Mỹ và phù hợp
hơn với đối tượng ở các nước phát triển. Để áp dụng vào thực tế tại Việt Nam, những
chỉ dẫn của cuốn sách có thể hữu ích với các học sinh, sinh viên khu vực thành thị.
Trong cuốn “Nghệ thuật săn việc” (The Art Of Hunting) của C. Levinson và
D.E. Perry (2011) đã nhấn mạnh mỗi người tìm việc phải trở thành một “du kích săn
việc”. Tác giả lý giải về lý do và từ đó trình bày phương pháp “tư duy du kích” bao
gồm thương hiệu cá nhân, chiến lược săn việc theo kiểu du kích, kế hoạch tìm hiểu
thông tin. Tác giả cũng giới thiệp các “vũ khí dành cho du kích săn việc” bao gồm

2


hướng dẫn viết hồ sơ và thư ngỏ, hiểu biết về nền kinh tế tuyển dụng. Cách tư vấn ấn
tượng, kèm theo những thông tin cập nhật và ví dụ cụ thể ở nhiều tình huống khác
nhau. “Nghệ thuật săn việc” là một trong những cuốn sách rất hữu ích cho các sinh

viên tốt nghiệp các ngành “thời thượng” (kinh tế, công nghệ thông tin,…) để họ có thể
đạt được những vị trí việc làm tốt nhất. Tuy nhiên, nghệ thuật săn việc này sẽ khó tiếp
thu và vận dụng hơn ở những đối tượng sinh viên khối ngành xã hội và đầu ra không
chỉ làm trong lĩnh vực tư nhân.
Cuốn sách “Tìm kiếm việc làm - hướng dẫn của bạn để thành công” (The Job
search - your guide to success) của B. Zarna (1997) nhận định “khi người học ở chặng
cuối của khóa học hoặc đào tạo sẽ có rất nhiều cảm xúc khác nhau về triển vọng bắt
đầu một sự nghiệp mới”. Tác giả cho biết để tìm được việc làm phù hợp, người học
phải rất nỗ lực. Nội dung chính của cuốn sách tập trung vào các chỉ dẫn giúp sinh viên
đánh giá kỹ năng, khám phá các lựa chọn, phát triển hồ sơ nghề nghiệp của bản thân
(tương tự như hồ sơ xin việc), cách tìm kiếm việc làm ở đâu và như thế nào, cách viết
đơn, điền mẫu hồ sơ, chuẩn bị cho buổi phỏng vấn, cách thành công trong buổi phỏng
vấn, hành động tiếp theo sau buổi phỏng vấn, duy trì việc làm trong những ngày khởi
đầu công việc dựa trên việc định vị và cải thiện bản thân, làm việc với những người có
tính cách khác, xử lý tình trạng căng thẳng, duy trì đạo đức, tìm hiểu về quyền lợi,
nâng cao khả năng nhận biết về những nguy cơ trong lao động. Tuy vậy, tài liệu này
cũng chỉ đưa ra những chỉ dẫn khá giản đơn và phù hợp với đối tượng thanh niên, sinh
viên ở các nước phát triển, có đầy đủ các điều kiện, nguồn lực tiếp cận dễ dàng mà
chưa đề cập tới thanh niên, sinh viên ở các nước đang phát triển chưa có đầy đủ các
điều kiện và nguồn lực để tiếp cận.
2.2. Ở trong nước
Tham khảo các tài liệu tại Việt Nam, chúng tôi thấy có rất nhiều sách hướng
dẫn, cẩm nang xoay quanh chủ đề về kỹ năng sống, về tìm việc thành công. Các tài
liệu này đều có điểm chung là hướng tới nhóm đối tượng thanh niên, sinh viên. Tuy
nhiên, các tài liệu này đôi khi chỉ đưa ra những lời khuyên, những hướng dẫn chung
chung mà không đi sâu vào hướng dẫn các kỹ năng xin việc một cách cụ thể. Cho rằng
tìm việc là một “bước khởi đầu gian nan”, cuốn “Cẩm nang xin việc” của Quốc Hùng
(2005) đã đưa ra những nhận định về thực trạng nguồn nhân lực, nhất là lực lượng sinh
viên mới ra trường của Việt Nam còn non kém. Ông đưa ra giải pháp hàng đầu đối với


3


sinh viên là phải định hướng nghề nghiệp ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường và sau
khi đã lựa chọn được nghề nghiệp cho mình. Đặc biệt, tác giả cũng dành nhiều trang
sách đưa ra cho sinh viên những lời khuyên hữu ích để tham gia phỏng vấn tuyển dụng
thành công. Có thể nói cuốn “Cẩm nang xin việc” của tác giả Quốc Hùng (2005) đã đề
cập được nhiều khía cạnh quan trọng trong tiến trình tìm việc và đã cố gắng đưa ra
những chỉ dẫn thiết thực cho thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng khi đi tìm
việc. Tuy nhiên, không phải dễ để áp dụng được những lời khuyên đó khi bản thân
sinh viên chưa được trang bị kiến thức xin việc và môi trường thuận lợi để bộc lộ bản
thân, thực hành kỹ năng và trải nghiệm thực tế. Cuốn sách “Quyết định đúng đắng khi
tìm việc” của Bích Phụng (2009) là những lời khuyên dành cho thế hệ trẻ nói chung
mà cốt yếu là hai lời khuyên: sinh mệnh ngắn ngủi - công việc vui vẻ - hãy mau quyết
định” và “hi vọng đến từ cuộc sống - thu hoạch bắt nguồn từ công việc”. Tác giả
khuyên thế hệ trẻ cần phải làm một cuộc biến đổi, đưa ra quyết định, biến đổi, lựa
chọn và không nên dao động bởi quyết định đó. Tiếp đó, tác giả cho rằng thế hệ trẻ
cần thực hiện giá trị của bản thân và thành công tùy thuộc vào lựa chọn đúng, để quyết
định được đúng đắn cũng cần phải sống hài hòa với người khác và biết đối phó với
tình hình phức tạp. Để tìm việc làm thích hợp hơn, cần thực hiện các bước sau: Xác
định đam mê cá nhân; trưng cầu, sàng lọc ý kiến; tìm kiếm việc làm; đối phó với
những nhân tố không vui vẻ trong khi đi tìm việc làm (ví dụ: bị từ chối) và thể hiện sự
quan tâm thân thiện.
Cuốn sách “Cẩm nang việc làm cho lao động trẻ” của Hạnh Nguyên (2003) lại
dành nhiều trang để đưa ra nhận định về lực lượng lao động trẻ hiện nay, như: Thiếu
cả những kỹ năng nghề nghiệp, trình độ chuyên môn và kỹ năng định hướng nghề
nghiệp, nắm bắt thông tin về thị trường lao động. Cuốn sách dẫn ra các thông tin từ Tổ
chức Lao động Quốc tế về những tiêu chuẩn mà người sử dụng lao động ngày càng
chú ý nhiều hơn khi tuyển dụng và đưa ra các phân tích về đặc trưng của thị trường lao
động đối với lao động trẻ: Cung lớn hơn cầu, chất lượng cung còn thấp, mất cân đối về

cơ cấu đào tạo và cơ cấu lao động theo đòi hỏi của thị trường, tình trạng “thừa thầy
thiếu thợ”, các chính sách về thị trường lao động chưa bao phủ hết đối tượng thanh
niên. Tiếp đó, tác giả cũng đưa ra những thông tin hữu ích giúp thanh niên lựa chọn
ngành nghề để học, biết cách đánh giá lựa chọn nghề thích hợp để xác định học nghề
nào sẽ dễ tìm việc làm, dự báo được các nghề cần đến trong tương lai, đánh giá giữa

4


“cái bạn thích, cái bạn hợp, cái thị trường cần”. Như vậy, cuốn sách đã đề cập đến vấn
đề việc làm và kỹ năng xin việc ở một khía cạnh khái quát nhất. Tuy nhiên, cuốn sách
còn chưa làm rõ được những yếu tố cần thiết mà sinh viên cần phải có khi đi xin việc.
Bên cạnh đó, cuốn sách “Cẩm nang việc làm và lập nghiệp” của tác giả Nguyễn
Thị Lê Hương và Đặng Thị Huyền (2011) cho thấy việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với mỗi người vì tạo ra thu nhập để đảm bảo các nhu cầu vật chất, tinh thần
và là điều kiện để con người tham gia các hoạt động xã hội, quan hệ xã hội, qua đó
khẳng định vai trò, giá trị xã hội của mình. Đối với thế hệ trẻ những người đang mong
muốn tìm việc làm, tài liệu đưa ra các đề xuất về những kỹ năng làm việc và các
hướng dẫn cần thiết, như: (1) kỹ năng làm việc - vốn sinh ra mọi người đều chưa có và
do đó phải được đào tạo, tự rèn luyện trong quá trình học tập, làm việc và giao tiếp xã
hội; (2) kỹ năng tiếp cận việc làm - tìm kiếm cơ hội từ các nguồn thông tin tuyển dụng
chính thức và không chính thức; (3) kỹ năng chuẩn bị hồ sơ xin việc; (4) kỹ năng tham
gia phỏng vấn tuyển dụng thành công; (5) kỹ năng đánh giá trước khi nhận việc; (6)
hướng dẫn bạn trẻ tự tạo việc làm (tự khởi nghiệp); (7) tham gia lao động xuất khẩu.
Những công trình nghiên cứu trên đã phần nào cung cấp khung lý thuyết và một
số chỉ dẫn về kỹ năng xin việc nói chung. Tuy nhiên, các công trình đều tập trung trên
bình diện rộng mà không nghiên cứu cụ thể về đối tượng sinh viên năm cuối các khối
ngành xã hội và trong các cơ sở giáo dục có nhiều đạc thù như Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội. Do đó, nghiên cứu của nhóm tác giả không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu
nào trước đây.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu khung lý thuyết và thực trạng kỹ năng xin việc của sinh
viên năm cuối đại học hệ chính quy, nhóm tác giả đề xuất xây dựng các giải pháp và
khuyến nghị với Nhà trường, sinh viên và các bên có liên quan phát triển kỹ năng xin
việc của sinh viên năm cuối hệ chính quy.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về việc phát triển kỹ năng xin việc của
sinh viên và sự cần thiết phát triển kỹ năng xin việc cho đối tượng này.
Hai là, khảo sát và đánh giá được thực trạng kỹ năng xin việc của sinh viên
năm cuối hệ chính quy tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.

5


Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kỹ năng xin việc của sinh viên
năm cuối tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Qua đó, khuyến nghị với Nhà trường, các
Khoa chuyên môn và các bộ phận liên quan về việc phát triển kỹ năng xin việc cho sinh
viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế Nhà trường. Từ đó góp phần nâng cao thương hiệu
của Nhà trường trong đào tạo và quản lý, mang lại cơ hội nghề nghiệp cho người học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kỹ năng xin việc và phát triển kỹ năng xin việc của
sinh viên năm cuối hệ chính quy Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Từ 2012 - 2016
+ Về không gian: Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Sinh viên bậc đại học hệ chính quy tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã có kỹ
năng xin việc nhưng vẫn ở mức độ thấp.
Để phát triển kỹ năng xin việc cho sinh viên bậc đại học hệ chính quy của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, sinh viên cần tự trang bị và được trang bị kiến thức và

cơ hội rèn luyện kỹ năng xin việc. Để làm được điều đó cần sự chủ động của mỗi sinh
viên trong quá trình học tập và rèn luyện, sự chủ động của Nhà trường trong đổi mới
các phương pháp giảng dạy và thiết kế các chương trình đào tạo.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát tham dự
Nhóm tác giả hầu hết là các sinh viên năm cuối hệ chính quy, đang học tập tại
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Trong quá trình học tập và tìm hiểu, nhóm tác giả đã
quan sát các bạn sinh viên năm cuối về vấn đề phát triển kỹ năng xin việc. Bên cạnh
đó, bản thân một số thành viên trong nhóm tác giả đã từng xin việc làm nên có những
hiểu biết về nhiều khía cạnh của vấn đề này.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp này nhằm tìm hiểu sâu hơn về thực trạng kỹ năng xin việc của
sinh viên năm cuối hệ chính quy tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Từ 15 tháng 09
đến 30 tháng 09, nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát 300 sinh viên chiếm % số lượng
sinh viên năm cuối. Kết quả khảo sát là cơ sở quan trọng để nhóm nghiên cứu đánh giá

6


về thực trạng kỹ năng xin việc và đưa ra các giải pháp, khuyến nghị để phát triển kỹ
năng xin việc.
Phương pháp phân tích - thống kê
Để kết quả nghiên cứu đảm bảo tính khách quan, khoa học, chính xác, có độ tin
cậy cao chúng tôi sử dụng các phương pháp phân tích - thống kê để xử lý và kiểm tra
các số liệu thu thập. Từ đó, nhóm nghiên cứu có những đánh giá khách quan nhất về
vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn
Nhóm tác giả tiến hành phỏng vấn nhà tuyển dụng thông qua hệ thống câu hỏi
được xây dựng sẵn, hệ thống câu hỏi xoay quanh về các kỹ năng mà sinh viên còn hạn
chế khi đi xin việc. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu sẽ hỏi ý kiến nhà tuyển dụng về kỹ

năng làm việc của sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội khi làm việc ở doanh
nghiệp họ như thế nào? Đồng thời, lấy ý kiến bên doanh nghiệp về các hoạt động liên
quan đến quá trình xin việc của sinh viên mới ra trường, để từ đó đánh giá và hoàn
thiện các giải pháp, khuyến nghị.
Phương pháp khảo sát mô hình thực nghiệm
Trong phương pháp này, nhóm tác giả đã khảo sát sinh viên và giảng viên khóa
đào tạo: “Kỹ năng xin việc - Nghệ thuật chinh phục nhà tuyển dụng” do Trung tâm
Đào tạo Nghề và Nghiệp vụ Văn phòng phối hợp với Khoa Tổ chức và Quản lý nhân
lực, Câu lạc bộ Nhà quản trị nhân lực tổ chức trong thời gian từ 25/4 - 04/6/2016 với
hơn 46 học viên. Phương pháp này đã giúp nhóm nghiên cứu đánh giá được phần nào
thực trạng kỹ năng xin việc của sinh viên. Từ đó đưa ra các giải pháp và khuyến nghị
để phát triển kỹ năng xin việc cho sinh viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói chung
và sinh viên năm cuối hệ chính quy nói riêng.
8. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về kỹ năng xin việc của sinh viên Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần:
Về mặt lý luận: Đề tài làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kỹ năng xin việc và
tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng xin việc cho sinh viên nói chung và sinh
viên năm cuối hệ chính quy Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nói riêng. Khung lý thuyết
mà đề tài nghiên cứu là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu có liên quan
tiếp theo.

7


Về mặt thực tiễn:
- Đề tài làm rõ thực trạng về kỹ năng xin việc của sinh viên năm cuối hệ chính
quy tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội. Qua đó, giúp sinh viên nhận thức rõ ràng về
ngành học, kỹ năng xin việc để sinh viên có thể trau dồi, học tập, rèn luyện các kỹ
năng ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.

- Đề tài đã đưa ra một số giải pháp và khuyến nghị để phát triển kỹ năng xin
việc. Nếu được ứng dụng sẽ giúp cho Nhà trường có góc nhìn đa chiều hơn về tầm
quan trọng của kỹ năng xin việc đối sinh viên. Từ đó, thiết kế các chương trình đào tạo
phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

8


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
KỸ NĂNG XIN VIỆC CỦA SINH VIÊN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cá nhân, là cơ sở để mỗi
cá nhân thực hiện tốt công việc và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Tuy nhiên,
hiện nay có nhiều quan điểm tiếp cận khác nhau về kỹ năng như:
Quan điểm thứ nhất coi kỹ năng là sự vận dụng các kỹ thuật hành động cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu của hoạt động. Tác giả B.Ph. Lomov đã
khẳng định “Kỹ năng không chỉ bao gồm các hành động vận động mà cả những hành
động trí tuệ. Hành động có kỹ năng nghĩa là những hành động với trí tuệ, độc lập kế
hoạch quá trình làm việc, tìm thấy trong mỗi trường hợp cụ thể các phương pháp
hành động hợp lý” [25, 343]
Các tác giả N.D Levitov, P.A. Rudic cho rằng: “Kỹ năng là kỹ thuật của từng
thao tác, tức là cũng quan tâm tới mặt kỹ thuật của hành động, tới cách thức chủ thể
thực hiện hành động đó như thế nào” [24, 18]
Như vậy, theo quan điểm này, các tác giả cho rằng kỹ năng là mặt kỹ thuật của
hành động, là sự kết hợp của nhiều thao tác theo một trật tự phù hợp với mục đích và
yêu cầu của hoạt động. Nói cách khác, theo các tác giả này kỹ năng được coi là sự
vận dụng các kỹ thuật của hành động.
Quan điểm thứ hai: xem xét tới kết quả của hành động khi thực hiện kỹ năng.

Kỹ năng không chỉ là việc vận dụng các thao tác, mà quan trọng hơn là mang lại hiệu
quả nhất định cho hoạt động.
Tác giả Trần Hữu Luyến khi nghiên cứu về kỹ năng lời nói đã khẳng định: Kỹ
năng không chỉ là mặt kỹ thuật (phương thức) thực hiện hoạt động, hành động mà
hơn thế nó chính là mặt biểu hiện của năng lực, là một biểu hiện năng lực đặc biệt của
con người và gắn rất chặt với tư duy và các cấp độ khác nhau của ý thức. [22, 295]
Tác giả Phạm Thành Nghị cũng khẳng định: “Kỹ năng là khả năng vận dụng
kiến thức để giải quyết một nhiệm vụ cụ thể”. Đồng thời tác giả cũng nhấn mạnh: “kỹ
năng có chiều cạnh kỹ thuật và cũng có cả chiều cạnh động cơ”. Vì thế khi hình thành
kỹ năng cũng cần chú ý khai thác cả mặt động cơ cá nhân của hoạt động. [32, 82]

9


Quan điểm thứ 3 và cũng là quan điểm mới trong những năm gần đây, coi kỹ
năng là hành vi ứng xử của cá nhân trong đó có tác giả S.A.Morales và W.Sheartor,
J.N. Richard coi kỹ năng là hành động được thể hiện ra bên ngoài và chịu sự chi phối
của cách cảm nhận và suy nghĩ của cá nhân. Như thế, các tác giả theo quan điểm này
không chỉ coi kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động, hoạt động mà còn nhấn mạnh
kỹ năng là sự biểu hiện của thái độ, quan điểm, giá trị của cá nhân đối với hoạt động.
Tổng hợp các quan điểm khác nhau trong tiếp cận về kỹ năng, mặc dù có nhiều
quan điểm định nghĩa khác nhau, nhưng tựu chung lại các nhà nghiên cứu cho rằng,
kỹ năng được hiểu là kỹ thuật của hành động, là khả năng của một cá nhân, kỹ năng
là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm nhằm đạt đến mục đích chất lượng hoạt động tốt
hơn. Trên cơ sở những quan điểm chúng tôi thấy khái niệm kỹ năng bao hàm những
nội dung sau:
Thứ nhất, kỹ năng được thể hiện thông qua các thao tác, mặt kỹ thuật của hành
động, hoạt động. Không có kỹ năng chung chung trừu tượng tách rời khỏi hoạt động.
Thứ hai, kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm đã có vào từng trường
hợp cụ thể, phù hợp với mục đích và điều kiện của hoạt động.

Thứ ba, hành động có kỹ năng tức là hành động phải đem lại hiệu quả nhất
định, nói cách khác kỹ năng phải được thể hiện ở tính đúng đắn, mức độ thành thạo,
sáng tạo, linh hoạt...
Dựa trên những vấn đề tiếp cận nêu trên, thì theo nhóm nghiên cứu: “Kỹ năng
là năng lực vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của chủ thể vào hoạt động thực tiễn
nhằm đạt được mục tiêu trong các điều kiện nhất định”.
1.1.2. Khái niệm việc làm
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Việc làm (2013) quy định: “Việc làm là hoạt động
tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”.
Như vậy, theo Luật Việc làm, khái niệm việc làm bao gồm những nội dung
sau: Là hoạt động lao động của con người, hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra
thu nhập (là các khoản nhận được bằng tiền hoặc hiện vật từ việc làm, thường được
tính theo tháng, năm), hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm.
Theo Từ điển Tâm lý học khái niệm việc làm được hiểu là “công việc được
giao cho làm thường ngày và được trả công” [9, 11]
Theo tác giả Nguyễn Hữu Thụ, việc làm có một số đặc điểm chính:

10


Thứ nhất, việc làm là nguồn gốc tạo ra sinh kế, sự tồn tại và phát triển của con
người luôn gắn liền với việc làm. Không có hoặc thiếu việc làm con người sẽ không
thể tồn tại và phát triển bình thường.
Thứ hai, về mặt tâm lý học, mỗi việc làm có cấu trúc riêng, yêu cầu riêng đối
với người muốn làm việc đó. Nói cách khác, muốn làm việc nào đó, con người phải
có những đặc điểm về thể chất, phẩm chất và năng lực phù hợp, đáp ứng được yêu
cầu của việc làm.
Thứ ba, việc làm xuất hiện do đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nó không nhất thành bất biến, mà luôn vận động, phát triển cùng với sự vận động,
phát triển không ngừng của xã hội, những việc làm cũ, lỗi thời liên tục mất đi, những

việc làm phù hợp hơn với nhu cầu của con người xuất hiện ngày một nhiều. [19, 424]
Có nhiều khái niệm về việc làm được đưa ra, trong giới hạn của đề tài, theo
quan điểm của nhóm nghiên cứu: “Việc làm là hoạt động mang lại thu nhập cho người
lao động và không bị pháp luật ngăn cấm”.
1.1.3. Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La tinh là “student” có nghĩa là
những người làm việc và học tập tích cực, tìm hiểu và khai thác tri thức khoa học.
Có thể nói, sinh viên là một nhóm xã hội đặc thù, nhóm xã hội này vừa mang
những đặc điểm chung của tầng lớp thanh niên và những đặc điểm riêng của mình.
Cụ thể:
- Sinh viên là danh từ chung chỉ những người đang theo học ở các trường đại
học, cao đẳng.
- Sinh viên được xác định đa phần là những thanh niên độ tuổi từ 18 đến 24
tuổi. Lứa tuổi này về mặt sinh lý, thể chất có sự phát triển tương đối ổn định sau
những biến đổi ở lứa tuổi dậy thì. Đặc biệt trong hoạt động thần kinh cấp cao đã đạt
đến mức độ trưởng thành.
Như vậy, sinh viên - những người đang học tập tại các trường Đại học, cao
đẳng là những con người tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa
học vào việc giải quyết các vấn đề lý luận hay thực tiễn trong cuộc sống, qua đó cũng
hình thành và rèn luyện các phẩm chất, năng lực mới chuẩn bị cho nghề nghiệp tương
lai của mình.

11


1.1.4. Khái niệm kỹ năng xin việc và phát triển kỹ năng xin việc của sinh viên
a. Kỹ năng xin việc
Theo tác giả Lê Phương Mai, Lê Thị Thêm và Nguyễn Thị Hoài Thu cho
rằng: “Kỹ năng xin việc là một tập hợp các kỹ năng mà người lao động có được
thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm thực tế được sử dụng để xử lý những vấn đề

gặp phải trong quá trình tìm việc. Trong đó, kỹ năng quan trọng nhất là kỹ năng tự
đánh giá bản thân, kỹ năng xác định công việc, kỹ năng tìm kiếm thông tin, kỹ năng
chuẩn bị hồ sơ, kỹ năng giao tiếp trong phỏng vấn và đàm phán” [28, 19].
Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu xin đưa ra khái niệm kỹ năng xin việc như
sau: “Kỹ năng xin việc hay gọi đầy đủ hơn là kỹ năng xin việc làm là người có nhu cầu
xin việc làm vận dụng các tri thức, kinh nghiệm của chủ thể vào trong những hoàn cảnh
xin việc cụ thể để giúp ứng viên chinh phục nhà tuyển dụng và thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu việc làm đã đề ra, tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật ngăn cấm”
Kiến thức ở đây đầu tiên phải kể đến những kiến thức về bản thân đó là hiểu
biết về những điểm mạnh, điểm yếu, sở thích, sở trường, năng lực của bản thân, từ
những hiểu biết về bản thân sinh viên định hướng được hoạt động cho cá nhân mình
để đạt kết quả cao nhất.
Nhóm kiến thức thứ hai phải kể đến là kiến thức kiến thức chung về ngành
học, kiến thức chuyên ngành những nội dung này sinh viên được đào tạo trong
chương trình học đại học. Qua quá trình tích lũy đủ số tín chỉ hay hoàn thành số học
phần theo chương trình học, sinh viên sẽ có được một hệ thống kiến thức chung và
kiến thức chuyên ngành, những kiến thức này giúp sinh viên vận dụng vào thực tế
làm việc.
Mỗi ngành học đều mang đến những kỹ năng nghề nghiệp riêng, phục vụ cho
nhu cầu của xã hội. Sự hiểu biết về ngành học bao gồm; các kiến thức về ngành học,
lĩnh vực công việc có thể làm sau khi ra trường, kỹ năng cần thiết để phục vụ cho
công việc, yêu cầu về thái độ với nghề nghiệp…
Trong 3 nhóm kiến thức cá nhân được đào tạo sẽ giúp cá nhân vận dụng vào
thực tế của quá trình tìm việc làm. Tuy nhiên, chỉ có kiến thức thôi chưa đủ. Cá nhân
cần vận dụng những kinh nghiệm, trải nghiệm của bản thân thông qua các hoạt động
cụ thể trong trường đại học, trong quá trình là sinh viên để thực hiện có hiệu quả quá
trình tìm việc làm của mình. Những kinh nghiệm, trải nghiệm ở đây có thể kể tới là

12



các hoạt động phong trào trong trường đại học, hoạt động tình nguyện, hoạt động từ
thiện, tham gia các câu lạc bộ - tổ - đội - nhóm, hoạt động làm thêm của sinh viên.
Theo chúng tôi, để thực hiện quá trình tìm việc làm đạt hiệu quả cá nhân cần vận dụng
kiến thức, kinh nghiệm vào các thao tác cụ thể của quá trình tìm việc như; các thao tác
cụ thể của kỹ năng lập kế hoạch nghề nghiệp (xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản
thân, xác định loại hình tổ chức có thể làm việc, xác định phạm vi, khoảng cách làm
việc…), các thao tác cụ thể của kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm (các kênh thông
tin tìm kiếm việc làm hiệu quả, cách thiết lập mối quan hệ cá nhân giúp ích cho quá
trình tìm việc làm…), các thao tác cụ thể của kỹ năng nộp hồ sơ xin việc (cách chuẩn
bị hồ sơ, đơn thư xin việc, cách trình bày văn bản…), các thao tác cụ thể của kỹ năng
phỏng vấn nhân sự (cách thức chuẩn bị cho buổi phỏng vấn về tâm lý, tác phong, trang
phục, diện mạo bề ngoài…).
b. Phát triển kỹ năng xin việc cho sinh viên
Phát triển kỹ năng xin việc là quá trình sinh viên tự thân học tập, rèn luyện hoặc
được đào tạo, trau đồi mức độ thành thục và chuyên sâu về các kỹ năng phục vụ cho
quá trình xin việc như: kỹ năng làm hồ sơ xin việc, kỹ năng phỏng vấn, kỹ năng trắc
nghiệm, thi tuyển, kỹ năng thể hiện bản thân, kỹ năng thử việc… để giúp ứng viên
chinh phục nhà tuyển dụng và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu việc làm đã đề ra.
Qua khái niệm trên có thể thấy:
Thứ nhất, việc phát triển kỹ năng xin việc được thực hiện bằng cách chủ thể tự
nâng cao (tự bản thân tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi) hoặc bản thân chủ thể được nâng
cao thông qua gia đình, nhà trường, xã hội.
Thứ hai, việc phát triển kỹ năng xin việc không chỉ được thực hiện bằng cách
nâng cao về lượng mà còn được thực hiện bằng cách nâng cao về chất (mức độ thành
thục, chuyên sâu của các kỹ năng).
Phát triển kỹ năng xin việc có thể được thực hiện qua một số con đường sau:
thông qua quá trình học tập, rèn luyện và trải nghiệm trong thực tế của chủ thể, thông
qua các hoạt động ngoại khóa, qua sách báo, thông qua các hội thảo khoa học, các
buổi nói chuyện chuyên đề về kỹ năng xin việc, thông qua kinh nghiệm thu được từ

các buổi thử phỏng vấn xin việc, hoặc cũng có thể thông qua các khóa học đào tạo về
kỹ năng xin việc.

13


1.2. Sự cần thiết của phát triển kỹ năng xin việc của sinh viên
1.2.1. Đối với sinh viên và gia đình
Mục đích của sinh viên khi đi học đó chính là tìm kiếm một công việc phù hợp
với đam mê, sở thích. Chính vì vậy, việc phát triển kỹ năng xin việc sẽ giúp cho các
bạn sinh viên hoàn thiện các kiến thức, kỹ năng, tự tin khẳng định mình trước nhà
tuyển dụng để có thể tìm kiếm được một công việc phù hợp với chuyên nghành được
đào tạo và đảm bảo cuộc sống cho bản thân.
Ngoài ra, việc phát triển kỹ năng xin việc giúp cho các bạn sinh viên dễ dàng
tìm kiếm một công việc phù hợp để tạo ra nguồn thu nhập giúp đỡ cho gia đình, giảm
bớt gánh nặng về kinh tế, cũng như làm cho gia đình cảm thấy tự hào khi con mình đã
tìm kiếm được một công việc phù hợp khi mới ra trường.
1.2.2. Đối với xã hội
Khi sinh viên được phát triển về kỹ năng xin việc sẽ thuận lợi hơn trong quá
trình tìm kiếm việc làm, từ đó sẽ làm giảm tỷ lệ người thất nghiệp (đặc biệt là người có
trình độ cao), góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, giúp toàn dụng lao động, khai thác
tối đa nguồn lao động có chất lượng cao, được đào tạo bài bản phục vụ sản xuất.
Ngoài ra, sẽ là điều kiện và cơ sở triển khai các chính sách xã hội khác như phát
triển văn hóa, y tế, giáo dục góp phần ổn định và phát triển xã hội, chống thất nghiệp,
khắc phục tình trạng thiếu việc làm, bảo đảm thu nhập, giảm thiểu các tệ nạn xã hội.
Cuối cùng, góp phần tái đầu tư cho xã hội. Khi sinh viên có được việc làm, có
thu nhập, thì sinh viên đó sẽ đóng góp một phần thu nhập của mình thông qua thuế,
phí, lệ phí... để phục vụ và duy trì các hoạt động của Nhà nước.
1.2.3. Đối với Nhà trường
Hiệu quả và mục đích cuối cùng của một cơ sở đào tạo là khi sinh viên của

mình ra trường đều có thể tìm kiếm được công việc phù hợp. Vì vậy khi sinh viên ra
trường có thể xin được việc chính là thước đo khẳng định uy tín, thương hiệu và vị trí
của cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc gia, là cơ sở để khẳng định vai trò và
tầm quan trọng của giáo dục đối với quốc gia, dân tộc.
Ngoài ra, sau khi sinh viên tốt nghiệp có thể thuận lợi, dễ dàng trong quá trình
tìm kiếm việc làm sẽ giúp Nhà trường đảm bảo được sự thành công trong mục tiêu đào
tạo, hoàn thành sứ mệnh mà nghành giáo dục được giao phó.

14


1.3. Quá trình phát triển kỹ năng xin việc
K.K. Platonov cho rằng có 5 giai đoạn hình thành kỹ năng như sau: [25, 21]
Giai đoạn
sơ đẳng

Giai đoạn có những
kỹ năng chung

Giai đoạn biết
cách làm

Giai đoạn
tay nghề

Giai đoạn
kỹ năng cao

- Giai đoạn 1: Giai đoạn sơ đẳng. Con người có ý thức được mục đích hành
động và tìm kiếm cách thức hành động dựa trên vốn hiểu biết và kỹ xảo đời thường,

hành động được thực hiện bằng cách thử và sai.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn biết cách làm nhưng không đầy đủ. Ở giai đoạn này,
con người có hiểu biết về cách thức thực hiện hành động, sử dụng các kỹ xảo đã có
nhưng không phải là kỹ xảo chuyên biệt dành cho hoạt động này.
- Giai đoạn 3: Giai đoạn có những kỹ năng chung nhưng mang tính chất riêng
lẻ. Con người có hàng loạt những kỹ năng phát triển cao nhưng còn mang tính chất
riêng lẻ, các kỹ năng này cần thiết cho các dạng hoạt động khác nhau.
- Giai đoạn 4: Giai đoạn kỹ năng phát triển cao, thể hiện ở việc con người biết
sử dụng sáng tạo vốn hiểu biết và kỹ xảo đã có, ý thức được không chỉ mục đích hành
động mà cả động cơ lựa chọn cách thức đạt mục đích.
- Giai đoạn 5: Giai đoạn tay nghề, ở giai đoạn này, con người biết sử dụng một
cách sáng tạo các kỹ năng khác nhau.
Theo tác giả Phạm Tất Dong, kỹ năng được hình thành qua 4 giai đoạn. Mỗi
giai đoạn có những đặc điểm và yêu cầu nhất định [6]
- Giai đoạn thứ nhất: Được gọi là giai đoạn hình thành kỹ năng sơ bộ. Con
người trước khi hành động phải nhận thức được hành động. Ở giai đoạn này, hoạt
động diễn ra theo kiểu thử và sai.
- Giai đoạn thứ hai: Con người có những tri thức về các phương tiện thực hiện
hoạt động và sử dụng kỹ xảo đã có. Đây là giai đoạn hoạt động với những kỹ năng
chưa thành thạo.
- Giai đoạn thứ ba: Con người có những kỹ năng chung, cần thiết cho mọi hoạt
động và sử dụng được những kỹ xảo đã có. Đây là điều kiện không thể thiếu để hình

15


thành kỹ năng chuyên môn. Trên cơ sở những kỹ năng chung, con người sẽ sử dụng
một cách sáng tạo những tri thức và kỹ xảo cần thiết trong quá trình hoạt động. Đây
là giai đoạn kỹ năng phát triển cao.
- Giai đoạn thứ tư: Con người sử dụng sáng tạo những kỹ năng khác nhau. Đây

là giai đoạn cao nhất của sự phát triển kỹ năng, ở trình độ này, con người dễ dàng
thực hiện công việc.
Dựa trên các phân tích trên, chúng tôi cho rằng, có 4 giai đoạn hình thành và
phát triển kỹ năng như sau:
- Giai đoạn 1: Hình thành các tri thức, hiểu biết cần thiết về việc sử dụng kỹ
năng (mục đích, yêu cầu, điều kiện hoạt động, các nguyên tắc sử dụng kỹ năng trong
hoạt động).
- Giai đoạn 2: Hoạt động thực tiễn để nắm được các thao tác của kỹ năng, từ
đó nhận diện được kỹ năng cũng như cách thức tiến hành kỹ năng (nắm được bức
tranh toàn cảnh về kỹ năng và cách thức thực hiện kỹ năng đó). Sự vận dụng mới chỉ
là bắt chước, làm quen, góc độ hiểu chứ chưa thành thục.
- Giai đoạn 3: Thực hành tri thức về kỹ năng trong tình huống ổn định.
- Giai đoạn 4: Vận dụng kỹ năng vào các tình huống khác nhau của hoạt động
(bao gồm cả luyện tập và thử nghiệm).
Đối với hoạt động tìm việc làm, quá trình hình thành các kỹ năng tìm việc làm
bắt đầu từ việc nhận thức về nghề nghiệp, những thuận lợi và khó khăn của nghề, yêu
cầu của nghề, nhu cầu xã hội của nghề. Sau đó là cấp độ thực hiện thao tác hành
động, phải thực hiện được kỹ năng trong thực tiễn và sau đó mới vận dụng các kỹ
năng vào các điều kiện khác nhau trong quá trình tìm việc làm.
1.4. Các cấp độ của kỹ năng xin việc
Kỹ năng được hình thành và bộc lộ ở nhiều cấp độ khác nhau. Việc phân chia
các cấp độ cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Một số tác giả phân chia kỹ năng
thành 2 mức độ như: A.V Petrovxki, V.A Crutexki, N.D.Levitop, B.V.Blaiev,
V.A.Archinomov, P.A.Ridic và G.Thodorson. Theo cách chia này mức độ kỹ năng
được đánh giá qua các tiêu chí là tính đầy đủ, tính thành thục của các thao tác, thể
hiện ở số lượng và chất lượng của kỹ năng. Việc chia kỹ năng thành hai mức độ như
vậy là khá khái quát và việc đánh giá kỹ năng sẽ gặp khó khăn. [24,24]
Một số tác giả chia mức độ kỹ năng theo các giai đoạn phát triển của nó. K.K

16



Platonov chia kỹ năng thành 5 mức độ tương ứng với 5 giai đoạn phát triển là: kỹ
năng ban đầu; hoạt động còn thiếu sự sáng tạo; các kỹ năng chung chuyên biệt; kỹ
năng phát triển ở mức cao; sự thành thạo. [24, 21]
Theo tác giả Nguyễn Thiện Thắng thì kỹ năng gồm có 4 mức độ:
- Bắt chước: Quan sát, lặp lại hành động mẫu.
- Thao tác: Ở mức độ cao hơn, chủ thể thực hiện hành động theo sự hướng dẫn
bằng lời, chứ không còn thực hiện bằng hành động mẫu.
- Hành động chuẩn xác: Mức độ thực hiện mà không cần quan sát mẫu hoặc
nghe lời người khác hướng dẫn nữa. Nó đòi hỏi sự nỗ lực của chủ thể hành động.
- Hành động tự nhiên: Mức độ thuần thục cao, thao tác mà không cần có sự cố
gắng nhiều về thể lực cũng như trí lực.
Từ những quan niệm trên đây chúng tôi chia kỹ năng xin việc thành ba cấp độ
như sau:
- Kỹ năng ở mức độ thấp: Là sự có mặt đầy đủ biểu hiện của kỹ năng gồm:
Nhận thức đầy đủ mục đích, yêu cầu của kỹ năng, có đầy đủ các thao tác cần thiết của
kỹ năng. Tuy nhiên, cá nhân chưa vận dụng thành thục kỹ năng vào điều kiện thực tế,
hành động còn đơn giản, có nhiều sai xót, hiệu quả thấp. Ở cấp độ này, sinh viên
dừng lại ở việc biết và hiểu về kỹ năng xin việc: nhớ được kiến thức và bắt chước kỹ
năng, biểu hiện hành động cụ thể là họ có thể xác định, mô tả, phân loại, giải thích,
nhận biết, bắt chước làm theo.
- Kỹ năng ở mức độ trung bình: Là sự phù hợp kỹ năng với mục đích và điều
kiện để thực hiện hành động. Cá nhân nắm được phương thức hành động, quá trình
vận dụng còn kém linh hoạt, hành động đạt hiệu quả tuy nhiên chưa ổn định và hiệu
quả không cao. Họ biết sử dụng tri thức vào thực tiễn, biết thiết lập, tạo dựng, mô
phỏng, dự đoán, chuẩn bị, lập kế hoạch và thực hiện nhưng hiệu quả không cao, thiếu
sang tạo và không ổn định.
- Kỹ năng ở mức độ cao: Là sự ổn định, bền vững và sáng tạo của kỹ năng trong
các điều kiện của hoạt động. Cá nhân nắm vững tri thức về phương thức hành động

linh hoạt, mềm dẻo trong các tình huống khác nhau. Cá nhân kỹ xảo hóa hành động, cá
nhân làm chủ hoạt động của mình biến những điều lĩnh hội được trở thành sở trường
của mình. Họ có khả năng vận dụng sáng tạo tri thức, đúc rút kinh nghiệm, có khả
năng phân tích, tổng hợp , đánh giá vấn đề. Qua đó họ biết lựa chọn phương thức hành

17


động phù hợp và sáng tạo theo tình huống.
1.5. Tiêu chí đánh giá kỹ năng xin việc của sinh viên
Trong khi việc làm ngày càng trở nên khó khăn đối với mỗi người lao động, để
có được việc làm thì mỗi người lao động phải tích cực và chủ động trong quá trình
tìm việc làm, gia tăng cơ hội có được việc làm cho bản thân. Sinh viên khi mới rời
ghế nhà trường kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội, kỹ năng, vốn xã hội chưa
nhiều. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng tới cơ hội việc làm của sinh viên. Để có được
việc làm như mong muốn phụ thuộc rất nhiều vào các kỹ năng và cách thức tìm việc
làm. Theo chúng tôi kỹ năng xin việc của sinh viên thể hiện qua:
Về mặt nhận thức: Kỹ năng tìm việc làm của sinh viên thể hiện qua mặt nhận
thức chính là quá trình lĩnh hội, tiếp thu những kiến thức, kinh nghiệm về mặt chuyên
môn và rèn luyện về mặt kỹ năng phục vụ cho quá trình tìm việc làm.
Về mặt thái độ: Trên cơ sở nhận thức về kỹ năng tìm việc làm, mặt thái độ tạo
ra động cơ tích cực cho cá nhân trong quá trình rèn luyện và chiếm lĩnh kỹ năng cho
bản thân. Mặt thái độ thể hiện khát vọng và sự quyết tâm, tính tích cực, tự giác, năng
động, sáng tạo của cá nhân, thái độ tốt gắn liền với sự biểu hiện cảm xúc tích cực của
cá nhân trong quá trình rèn luyện kỹ năng. Với sinh viên được thể hiện qua khát vọng
và quyết tâm của chủ thể trong việc thay đổi nhận thức và hành vi để tích lũy kiến
thức về chuyên môn phục vụ cho quá trình tìm việc. Thái độ tích cực, chủ động trong
việc tích cực tích lũy các kiến thức về kỹ năng tìm kiếm việc làm thông qua các
chương trình đào tạo chính thức hoặc không chính thức từ trường đại học hoặc các
chương trình do các tổ chức bên ngoài.

Về mặt hành động: Những mặt biểu hiện của hành động trong quá trình rèn
luyện kỹ năng tìm việc làm là tần số thực hiện các hoạt động trau dồi kiến thức, kỹ
năng, kinh nghiệm. Hành động là biểu hiện rõ nét nhất của mức độ đáp ứng các yêu
cầu của quá trình tìm kiếm việc làm trước những yêu cầu của nhà tuyển dụng và của
thị trường lao động nói chung.
1.5.1. Kỹ năng hoạch định nghề nghiệp
Kỹ năng hoạch định nghề nghiệp là kỹ năng giúp sinh viên tự đánh giá bản
thân về thể chất, phẩm chất, năng lực, chuyên môn và các điều kiện khác để lựa chọn
công việc phù hợp; giúp cho người lao động có thể tiến hành các hoạt động cụ thể
một cách hiệu quả để giành được vị trí công việc đó (bao gồm cả việc lường trước

18


những rủi ro, thách thức có thể gặp phải và những thuận lợi, những nguồn lực có thể
phát huy).
Kỹ năng ở mức cao: Sinh viên nắm vững được tri thức về phương thức hành động
linh động, mềm dẻo trong các tình huống khác nhau, cách thức lập kế hoạch chi tiết, đầy
đủ, biết kỹ xảo hóa hành động, làm chủ hoạt động của mình và biến những điểm mạnh,
điểm yếu, sở thích, năng lực, tính cách, khí chất trở thành sở trường của mình.
Sinh viên thực hiện được đầy đủ các hành động như:
+ Xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, xác định công việc phù
hợp với sở thích, tính cách, năng lực, điều kiện sức khỏe, chuyên môn nghiệp vụ của
bản thân.
+ Xác định rõ ngành nghề, nhóm ngành nghề phù hợp với ngành học của mình.
+ Xác định địa điểm, loại hình tổ chức mong muốn làm việc.
+ Thiết lập các mối quan hệ (vốn xã hội) để tạo nguồn thông tin việc làm cho
cá nhân khi ra trường.
+ Hiện thực hóa mục tiêu nghề nghiệp.
Kỹ năng ở mức trung bình: Thực hiện được một số hành động của kỹ năng lập

kế hoạch nghề nghiệp.
Kỹ năng thực hiện ở mức thấp: Sinh viên chưa thực hiện được các hoạt động cụ
thể của kỹ năng lập kế hoạch nghề nghiệp.
1.5.2. Kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm
Kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm là kỹ năng giúp sinh viên nhận thức về ý
nghĩa, tầm quan trọng của kỹ năng tìm kiếm thông tin việc làm, giúp tiết kiệm được
thời gian, công sức, chi phí trong quá trình tìm việc; nhận thức về các nguồn thông tin
tuyển dụng như: thông tin tuyển dụng qua báo đài, qua tivi, qua trung tâm giới thiệu
việc làm, internet, qua bạn bè người thân..); nhận thức về các cơ sở tuyển dụng phù
hợp với chuyên ngành đào tạo đang theo học.
Kỹ năng thực hiện ở mức cao: Sinh viên không những nắm bắt được các kênh
thông tin tìm kiếm việc làm cơ bản đang được nhiều ứng viên quan tâm mà còn vận
dụng sáng tạo các nguồn thông tin việc làm từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó
việc nắm vững các kênh thông tin tìm việc làm giúp sinh viên nắm vững về tri thức,
phương thức hành động linh hoạt trong các tình huống khác nhau. Sinh viên làm chủ
các hoạt động của mình và biến những điều cá nhân lĩnh hội được thành sở trường

19


×