Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần công dân với đạo đức môn giáo dục công dân lớp 10 ở trường THPT tam dương, tỉnh vĩnh phúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THỊ HÀ NINH

SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP T ự HỌC TRONG
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC”
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
Ở TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG,
TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học m ôn Giáo dục công dân
ở trường Trung học phổ thông

Người hướng dẫn khoa học:
ThS. Nguyễn Quang Thuận

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự giúp đỡ,
sự động viên, hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và chu đáo của thày giáo
ThS. Nguyễn Quang Thuận và những ý kiến đóng góp của các thầy cô
trong khoa Giáo dục Chính trị.
Tôi xin bày tỏ lòng biết om chân thành và sâu sắc tới các thầy giáo, cô
giáo trong khoa Giáo dục Chính trị, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình
của thầy giáo ThS. Nguyễn Quang Thuận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh
trường THPT Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn


thành khóa luận của mình.
Do điều kiện thời gian, năng lực còn hạn chế nên khóa luận không tránh
khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn để khóa luận của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, 5 tháng 5 năm 2016.
Sinh viên

Nguyễn Thị Hà Ninh


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
thầy giáo, ThS. Nguyễn Quang Thuận. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Không trùng lặp với bất cứ
công trình nghiên cứu nào.
Trong quá trình làm khóa luận, tôi đã kế thừa những thành tựu của
các nhà khoa học với sự trân trọng và biết ơn.

Hà Nội, 5 tháng 5 năm 2016.
Sinh viên

Nguyễn Thị Hà Ninh


DANH MỤC TỪ VIÉT TẮT

HS


: Học sinh

GV

: Giáo viên

GDCD

: Giáo dục công dân

GD&ĐT

: Giáo dục và Đào tạo

SGK

: Sách giáo khoa

THPT

: Trung học phổ thông


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1. Cơ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC s ử DỤNG PHƯƠNG PHÁP T ự
HỌC TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DẦN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN
GDCD LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY........................................... 5
1.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp tự học ttong dạy học phần
“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10................................................ 5

1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam
Dương, Vĩnh Phúc.........................................................................................13
Chương 2. QUY TRÌNH s ử DỤNG PHƯƠNG PHÁP T ự HỌC TRONG
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DẦN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GDCD LỚP 10 Ở
TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG, VĨNH PHÚC.............................................18
2.1. Quy trình thiết kế bài giảng..................................................................18
2.2. Quy trình thực hiện bài giảng..............................................................21
2.3. Quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của HS........................... 22
Chương 3. THựC NGHIỆM s ử DỤNG PHƯƠNG PHÁP T ự HỌC TRONG
DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DẦN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GDCD LỚP 10 Ở
TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG, VĨNH PHÚC............................................ 26
3.1. Kế hoạch thực nghiệm.......................................................................... 26
3.2. Nội dung thực nghiệm........................................................................... 28
3.3. Kết quả thực nghiệm............................................................................. 45
3.4. Kết luận thực nghiệm............................................................................ 48
KẾT LUẬN......................................................................................................51
DANH MỤC THAM KHẢO...........................................................................53


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng. Nó đòi hỏi mọi
người phải vận động để theo kịp sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy mà
tinh thần tự học có vai trò vô cùng quan trọng. Tự học được xem là một
phương pháp đã trở thành quen thuộc đối với mỗi chúng ta, là một truyền
thống của người Việt.
Tại điều 5, Luật Giáo dục 2005 quy định: “Phương pháp giáo dục phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho ngưòi học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học

tập, ý chí vươn lên”. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan
trọng trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực có đủ phẩm chất, năng lực, có tư
duy độc lập, năng động, sáng tạo để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tự học chính là con đường tích
cực để phát triển nội lực của mỗi cá nhân, là động lực chính của quá trình
giáo dục- đào tạo.
Thực hiện chỉ đạo trên, các trường THPT đã phát động phong trào sử
dụng phương pháp dạy học nhằm rèn luyện năng lực tự học cho học sinh. Từ
phương pháp lấy người dạy làm trung tâm chuyển sang phương pháp lấy
ngưòi học làm trung tâm, phương pháp dạy học sang phương pháp nghiên
cứu.Tuy nhiên, ttên thực tế, học sinh còn gặp khá nhiều khó khăn trong việc
tự học. Vấn đề áp dụng phương pháp tự học truyền thống đã và đang được sự
quan tâm của các cấp lãnh đạo, các giáo viên ở trường THPT Tam Dương,
Vĩnh Phúc. Neu sử dụng những phương pháp dạy học tích cực và các kỹ năng
vào hướng dẫn tự học thì sẽ phát huy được những ưu điểm và khắc phục được
những hạn chế vốn có của phương pháp này. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Sử
dụng phương pháp tự học trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”

1


môn Guío dục công dân lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, tỉnh Vĩnh
Phúc hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử hình thành và phát triển của nền giáo dục, tự học là vấn đề
được rất nhiều nhà giáo dục quan tâm, nghiên cứu từ lâu cả về mặt lý luận và
thực tiễn, nhằm phát huy được học tập tích cực của người học.vấn đề tự học
tự đào tạo của ngưòi học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt sâu sắc
từ nhiều năm qua.
Trên thế giới, ngay từ thời cổ đại đã cónhiều tác giả nghiên cứu về

những vấn đề liên quan đến việc tự học. Montaigne là một trong những nhà
văn có ảnh hưởng nhất của thời kỳ Phục Hưng Pháp, ông đã từng khuyên
rằng: “Tốt hơn là ông thầy để cho học trò tự học, tự đi lên phía trước, nhận
xét bước đi của họ, đồng thời giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức
học của trò ”.N.A. Rubakin là nhà bác học, nhà văn học có tài người
Nga,trong cuốn sách “Tự học thể nào ” của ông đã tổng kết toàn bộ kinh
nghiệm quý báu từ cuộc đời lao động sách vở cần mẫn của ông. Ở tác phẩm
này, ông nêu lên cơ sở khoa học của việc tự học.
Gần đây, các nước phương Tây nổi lên cuộc cách mạng tìm phương pháp
giáo dục mới dựa trên cơ sở tiếp cận “Lấy người học làm trung tâm” để làm
sao phát huy hết năng lực của người học. Tiêu biểu là J.Deway- nhà triết
học, tâm lý học và nhà cải cách giáo dục người Mỹ, ông cho rằng: Học sinh là
mặt trời, xung quanh nó quy tụ mọi phương diện giáo dục.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học, nhà giáo đã dành nhiều thời gian nghiên
cứu vấn đề tự học của học sinh, sinh viên như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt,
Hà Thị Đức, Nguyễn Nghĩa Dân, Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Thị Mai Phương,
Dương Thị Thúy Nga... Một số sách và luận văn cũng đề cập đến vấn đề tự
học ở nhiều khía cạnh khác nhau, tiêu biểu là: PGS. TS Nguyễn Ngọc Bảo

2


trong cuốn sách “Phát triển tính tích cực, tính tự học của học sinh trong quá
trình dạy học”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Cao Đức Sáu “Hướng dẫn
phương pháp tự học nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Kinh tể chính trị
Mác - Lênin ở trường cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
Từ nhiều góc độ, các tác giả đã nghiên cứu, phân tích thực trạng của hoạt
động tự học và chỉ ra vai trò, tàm quan trọng của việc tiến hành hoạt động tự
học đối với người học. Tác giả đã tham khảo, kế thừa những giá trị của các
công trình nghiên cứu trên và lấy đó làm cơ sở để đi sâu nghiên cứu đề tài của

mình. Từ đó, tác giả tiến hành phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của
việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần “Công dân với đạo đức”
môn GDCD ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc.
3. Mục đích,nhiệm vụ của khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích của khóa luận nhằm tăng cường hiệu quả sử dụngphương
pháp tự học trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở
trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc góp phần phát huy tính tích cực học tập
của HS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên khóa luận thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nêu được cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễncủa việc sử dụng
phương pháp tự học và phân tích, sự cần thiết phải tổ chức hoạt động tự học
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 cho HS.
Thứ hai, Xây dựng quy trình sử dụng phương pháp tự học trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10.
Thứ ba, thực nghiệm để từ đó thấy được hiệu quả của việc sử dụng
phương pháp tự học trong dạy học phàn “Công dân với đạo đức” môn GDCD
lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc.
3


4. Đổi tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần “Công
dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc
nhằm nâng cao tính chủ động tích cực trong học tập cho HS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận giới hạn nghiên cứu việc sử dụng phương pháp tự học trong

dạy học phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD của HS lớp 10 trong học
kì II, năm học 2015-2016 ở trường THPT Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp nghiên cứu lý thuyết được sử dụng ở
chương 1, phương pháp nghiên cứu thực tiễn được sử dụng ở chương 2 và
chương 3.
6. Ý nghĩa của khóa luận
Với kết quả nghiên cứu đạt được, khóa luận tiếp tục khẳng định tính khả
thi đúng đắn của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học môn GDCD.
Đồng thời xác định quy trình và điều kiện cho việc sử dụng phương pháp tự
học trong dạy học phàn “Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường
THPT Tam Dương, Vĩnh Phúc.
7. Kết cấu của khóa luân
Ngoài phàn mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận
gồm 3 chương 9 tiết.

4


Chương 1
C ơ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC s ử DỤNG PHƯƠNG PHÁP T ự HỌC
TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GDCD
LỚP 10 Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
1.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học
phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD lóp 10
1.1.1. Khái niệm về phương pháp
Trong mọi lĩnh vực cuộc sống của con người, vấn đề phương pháp bao
giờ cũng được đặt ra để xem xét, qua chọn lựa để sử dụng, nhằm thực hiện

những ý tưởng, những mục tiêu đã định. Việc lựa chọn phương pháp đúng
đắn rất quan trọng, nó sẽ là tiền đề tư tưởng thật vững chắc giúp con người
có những hành động đúng đắn. Do đó, phương pháp là một trong những yếu
tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động nhận thức và cải tạo
thế giới.
Các nhà kinh điển đã có những quan điểm khác nhau về phương pháp.
Ph.Bêcơn cho rằng phương pháp như “sợi chỉ dẫn đường”; Phương pháp như
“ngọn đèn soi đường cho khách lữ hành trong đêm tối”. R.Đề-các tơ khi đề
cập đến phương pháp ông nhấn mạnh: “thiếu phương pháp thì người tài cũng
có lỗi, có phương pháp thì người tầm thường cũng làm được việc phi
thường”. Hêghen coi phương pháp như “linh hồn của đối tượng”. Thuật ngữ
phương pháp xuất phát từ thuật ngữ Hy Lạp “Methdos” có nghĩa là con
đường, cách thức, biện pháp, phương tiện làm việc... để đạt mục đích. Trong
lĩnh vực GD&ĐT, phương pháp được đề cập là phương pháp dạy học. Với
góc độ của khoa học sư phạm, nó thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và truyền đạt
tri thức cho người học.
Phương pháp là một phạm trù gắn với hoạt động thực tiễn của con ngưòi.
Nó không phải là một nguyên tắc có sẵn, bất biến mà nó phụ thuộc vào đối

5


tượng và nhiệm vụ đặt ra, chủ thể phải nghiên cứu đối tượng và mục đích càn
đạt tói một cách khách quan. Trên cơ sở đó, chủ thể mới xác định được
phương tiện, công cụ và biện pháp gì cho thích họp để đạt hiệu quả cao.
Như vậy, phương pháp là toàn bộ những cách thức với thực chất là một
hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của đối
tượng, khách thể đã nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người,
nhằm tác động vào đối tượng để thực hiện mục đích đã định.
1.1.2. Phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học là một hệ thống những hành động có mục đích của
GV nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của HS, đảm bảo HS lĩnh
hội nội dung học vấn. Hay nói cách khác, phương pháp dạy học là những cách
thức hoạt động tương tác, được điều chỉnh của GV và HS hướng vào giải
quyết các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy
học.
Trong sách: “Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường
trung học phổ thông” tác giả Đinh Văn Đức đã khẳng định: “Phương pháp
dạy học được hiểu là cách thức hoạt động, phối họp thống nhất của GV và HS
nhằm thực hiện tối ưu mục đích và nhiệm vụ dạy học”. [8;13]
Phương pháp dạy học là một khái niệm phức họp, được thể hiện ở nhiều
quan niệm khác nhau, nhưng tất cả các quan niệm đó đều thể hiện rằng:
Phương pháp dạy học luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy học.
Phương pháp dạy học là một trong những thành tố cơ bản của quá trình
dạy học, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành mục tiêu, nội dung, cũng
như đảm bảo hiệu quả chất lượng dạy học.
Phương pháp dạy học cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất
của quá trình dạy học. Phương pháp có ý nghĩa là con đường để đạt mục đích,
theo đó, phương pháp dạy học là con đường để đạt mục đích dạy học.

6


Phương pháp dạy học là một khái niệm phức họp, được thể hiện ở nhiều
quan niệm khác nhau, nhưng tất cả các quan niệm đều thể hiện rằng: Phương
pháp dạy học luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy học, phương pháp
dạy học luôn gắn liền với mục đích và nội dung dạy học, phương pháp dạy
học phục vụ cho từng môn học, bài học, tiết học. Ở mỗi bài cụ thể, GV căn cứ
vào nội dung tri thức, đối tượng người học để sử dụng phương pháp, phương
tiện dạy học cho phù họp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về phương pháp dạy học

đều phải dựa trên một số đặc trung cơ bản sau:
- Phương pháp dạy học là sự thống nhất giữa hai phương pháp là:
phương pháp dạy và phương pháp học.
- Phương pháp dạy học thực hiện sự thống nhất các chức năng là: đào tạo
và giáo dục.
- Phương pháp dạy học được xem xét cả trên cả hai mặt: mặt khách quan
và mặt chủ quan.
- Phương pháp dạy học là sự thống nhất của logic nội dung dạy học và
logic tâm lý nhận thức.
- Phương pháp dạy học là sự thống nhất của cách thức hành động và
phương tiện dạy học.
Từ đặc trưng của phương pháp dạy học, chúng ta thấy rằng, phương
pháp dạy học là một phạm trù tư duy khoa học, một nghệ thuật sư phạm có tổ
chức, có định hướng, có sự phù hợp giữa nội dung và hình thức. Mỗi bài dạy
cụ thể, tùy từng nội dung tri thức phải có phương pháp dạy học, phương tiện
dạy học và các thao tác thích hợp.
Như vậy, phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức tác động của
GV trong quá trình dạy học nhằm vào người học và quá trình học tập để gây
ảnh hưởng thuận lợi cho việc học theo mục đích hay nguyên tắc đã định.
Phương pháp dạy học bao gồm sự thống nhất chặt chẽ cả phương pháp dạy và
phương pháp học.
7


1.1.3. Phương pháp tự học
* Khái niệm tự học:
Tự học luôn gắn liền với hoạt động học tập, là việc phổ biến, được nhiều
bậc hiền triết và các nhà giáo dục trên thế giới quan tâm. Nhà tâm lý học
N.Arubakin viết: “Tự tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học”. Theo tác giả
Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi người do nhận

thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến thức cho bản
thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, sự tiến bộ của xã hội”.
Giáo sưTiến sĩ Nguyễn Cảnh Toàn đã đưa ra quan điểm khá toàn diện về
tự học: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ
(quan sát, so sánh, phân tích, tổng họp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử
dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả
nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến
thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực
hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.
Tự học, tính tự giác trong học tập của HS là hoạt động thường xuyên,
liên tục của HS trong quá trình học tập. Nhưng để nâng cao chất lượng, hiệu
quả thật sự, một yêu cầu tất yếu đặt ra là hoạt động tự học cần phải được sắp
xếp và tổ chức một cách đúng đắn, khoa học, người giáo viên cần quan tâm tổ
chức hoạt động hoạt động tự học cho HS.
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu: Tự học là quá trình cá nhân
người học tự giác, tích cực, độc lập chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó
trong cuộc sổng bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích
nhất định.
Phương pháp tự học là sắp xếp, thiết kế các biện pháp tiến hành hoạt
động, là việc sử dụng đối tượng và các phương tiện hỗ trợ nhằm đạt được mục

8


tiêu đề ra. Hướng dẫn hoạt động là công việc có vai trò rất quan trọng, nó ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả của hoạt động.
Trong hoạt động dạy học, hướng dẫn, tổ chức hoạt động là một công việc
càn thiết ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả học tập, đó là cách thiết kế,
sắp xếp các biện pháp hoạt động phối hợp chung giữa GV và HS trong học

tập trên lớp và ở nhà, chính khóa và ngoại khóa theo quy chế học tập, dưới sự
chỉ đạo của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
học tập.
Đối với HS, phương pháp tự học là cách thức hoạt động tích cực, chủ
động, tự lực và sáng tạo nhằm thực hiện có chất lượng, hiệu quả mục đích và
nhiệm vụ học tập.
Đối với GV, vận dụng phương pháp tự học cho HS là quá trình thiết kế,
tự sắp xếp các biện pháp tổ chức giảng dạy nhằm tiến hành hướng dẫn, điều
khiển, chỉ đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp các biện pháp hoạt động tự học,
giúp HS phát huy tới mức cao nhất năng lực tự học của mình.
Như vậy, tự học liên quan trực tiếp với yêu cầu của GV, người học được
GV định hướng về nội dung, hướng dẫn về phương pháp và tổ chức quá trình
lĩnh hội tri thức.
Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau:
Hình thức thứ nhất: cá nhân này tự mày mò theo sở thích và hứng thú
độc lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Kết quả của quá trình
tự học đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới, đây là
hình thức thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học. Dạng tự học này được dựa
trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mói và một vốn
tri thức sâu rộng. Vói hình thức tự học này, người học không có thầy, không có
sách mà chỉ qua rèn luyện trong thực tiễn vẫn có thể tổ chức hiệu quả hoạt
động học tập của mình.

9


Hình thức thứ hai: Tự học có sách nhưng không có GV trực tiếp hướng
dẫn. Ở hình thức này, có thể xảy ra hai trường hợp: tự học có sách, không có
hướng dẫn của GV và trường họp thứ hai là có sách, được giáo viên hướng
dẫn từ xa.

Đối với trường hợp tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của GV,
người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó phát triển
về tư duy. Tự học với sách là mục tiêu mà mọi người học càn đạt để hướng
đến xây dựng xã hội học tập suốt đời.
Đối với trường họp tự học có sách và được GV hướng dẫn từ xa, dù giáo
viên ở xa nhưng vẫn có sự trao đổi thông tin giữa GV và HS bằng các phưomg
tiện thông tin dưới dạng phản ánh, giải đáp thắc mắc, làm bài kiểm tra...
Hình thức thứ ba: Tự học có sách, có GV hướng dẫn trực tiếp một số
tiết, còn chủ yếu là HS về nhà tự học, tự nghiên cứu. Trong quá trình học tập
trên lớp, giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, thiết kế, tổ chức và tạo
điều kiện thuận lợi nhất để học sinh tự chủ động, sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức.
Trong quá trình tự học, GV trực tiếp hướng dẫn, HS là chủ thể, phải chủ
động phát huy tính tự giác, tích cực để hoàn thành những yêu cầu, bài tập do
GV đưa ra và những hoạt động học tập khác của cá nhân.
* Vai trò và ý nghĩa của tự học:
Trong quá trình dạy học, GV giữ vai trò là người tổ chức, điều kiển,
hướng dẫn và chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh. Nhưng dù giáo viên có
kiến thức tốt, phương pháp giảng dạy hay đến đâu nhưng HS không chủ động
tiếp thu kiến thức, không đầu tư thời gian, không có kế hoạch và phương pháp
cho việc học tập... thì việc học tập khó có thể đạt kết quả cao. Hoạt động
“dạy” của GV dù quan trọng nhưng là yếu tố ngoại lực, là yếu tố hỗ trợ, tác
động, thúc đẩy và tạo điều kiện cho HS tiếp thu tri thức, tự phát triển và
trưởng thành. Năng lực tự học của HS dù còn ở giai đoạn đang phát triển vẫn

10


là nội lực quyết định sự phát triển bản thân người học. Đó là quy luật phát
triển của sự vật.
Vì vậy có thể khẳng định, hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan

trọng trong quá trình học tập của ngưòi học, là con đường giúp cho người học
chiếm lĩnh tri thức, thành công trong học vấn. Ngưòi học quyết định chất
lường và hiệu quả của việc học mà không phải là ngưòi dạy.
Tự học là hoạt động có mục đích của con người, là điều cần thiết trong
quá trình tiếp nhận tri thức. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trò đặc
biệt quan họng, là một trong những yếu tố quyết định tạo nên trí tuệ của
Người. Người cho rằng tự học có vai trò đặc biệt quan trọng và không thể
thay thế: “Lấy tự học làm cốt”, cố t ở đây có thể hiểu là cốt yếu, là chủ chốt,
là bộ khung, là cái sườn, cái cốt lõi. Như vậy, tự học chính là yếu tố cốt lõi
của hoạt động học,là bộ khung, là nội lực quyết định chất lượng học tập. Các
yếu tố khác là ngoại lực. Học mà thiếu tự học thì chỉ là một cơ thể thiếu
xương cốt “lấy tự học làm cốt”. Ngưòi đã miệt mài học tập cả cuộc đòi, nói
đúng hơn là không ngừng tự học.[ll; 312]
Chủ tịch Hồ Chí Minh có một phương pháp tự học rất đáng chú ý và là
kinh nghiệm quý cho chúng ta hiện nay. Chỉ nói riêng việc học ngoại ngữ
và học viết báo của Ngưòi là đủ rõ. Ra đi tìm đường cứu nước, vừa bước chân
xuống tàu, Người đã tranh thủ học tiếng Pháp ở mọi lúc, mọi nơi có thể, mỗi
ngày học mấy từ thật chắc, ngày nào cũng nhưngày nào, để đến khi sang
Pháp, và sau đó, viết báo, viết truyện ngắn bằng tiếng Pháp.
Người chỉ rõ: Tự học là học một cách tự động. Chính Người đã định
nghĩa: “Tự động là không phải dựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay xở,
tự mình biết thực hành công tác theo nhiều hình thức mói mẻ, phong phú”. Tự
học tập tức là học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc nhở,
không chờ ai giao nhiệm vụ. Tự học chính là tự quản lý việc học tập, tự mình

11


chủ động vạch kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ thời gian để
học và tự mình kiểm tra, đánh giá việc học của mình.[10; 44]

Tổng Bí thư Đỗ Mười đã có phát biểu khi bàn về vai trò của tự học: “Tự
học, tự đào tạo là con đường phát triển suốt cuộc đời của mỗi người, trong
điểu kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó cũng là truyền
thống quý báu của ngưòi Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất lượng và hiệu
quả giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng tạo của ngưòi học
khi biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Qui mô của giáo dục
được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học” (Trích thư gửi Hội thảo
Khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo ngày 6/1/1998).
Ở bậc Trung học phổ thông, HS phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và
khó so với Trung học cơ sở, đặc biệt là với HS lớp mới chuyển cấp (HS lớp
10). Vì vậy, ngoài thòi gian học trên lớp HS phải tự học, tự nghiên cứu để mở
rộng và đào sâu tri thức. Hoạt động tự học đã giúp rất nhiều cho HS trong quá
trình học tập.
Thứ nhất, tự học giúp HS nắm vững tri thức, nâng cao năng lực nhận
thức, kỹ năng kỹ xảo. Hoạt động tự học tạo điều kiện cho học sinh hiểu sâu,
mở rộng tri thức, củng cố, ghi nhớ, vận dụng tri thức vào việc giải quyết các
nhiệm vụ học tập, các vấn đề cuộc sống.
Thứ hai, tự học giúp HS có được hứng thú, thói quen và phương pháp
học tập thường xuyên để làm phong phú, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của
mình, giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa
học và công nghệ trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập tạo cho họ có nếp
sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí phấn đấu, đức tính kiên trì, lòng
say mê nghiên cứu khoa học.

12


Thứ tư, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học càn thiết sẽ khơi
dậy được ở HS tiềm năng sẵn có, tạo nên động lực nội sinh trong quá trình

học tập, vượt lên trên mọi khỏ khăn, trở ngại.
Thứ năm, tự học tiết kiệm được thời gian, giảm sức ép của việc giảng
dạy, tăng cường động cơ học tập... Tự học góp phàn quan trọng nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo. Nói như vậy không có ý nghĩa là hạ thấp vai trò
của giáo viên, mà dưới sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo của người GV, HS sẽ
biết cách tự học, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức của nhân loại.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước, thế hệ trẻ cần năng động,
sáng tạo có đủ tri thức, năng lực, có khả năng thích ứng với đời sống xã hội.
Muốn vậy, thế hệ trẻ phải có khả năng tự học, tự nghiên cứu, không ngừng
nâng cao, hoàn thiện vốn hiểu biết về văn hóa, khoa học kĩ thuật và hiện đại
hóa vốn tri thức của mình để trở thành người công dân, người lao động với
đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp tự học trong dạy học
phần “Công dân vói đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam
Dương, Vĩnh Phúc
1.2.1.

Khái quát về hoạt động dạy-học môn GDCD ở trường THPT Tam

Dương, Vĩnh Phúc
* Vài nét về trường THPT Tam Dương
Đặc điểm tình hình nhà trường: là đơn vị có bề dày lịch sử gần 50 năm
xây dựng và phát triển, trường được thành lập từ năm 1966, trên cơ sở nhà
trường được đặt tại thị trấn Họp Hòa, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhà
trường là đơn vị thi đua, đạt nhiều danh hiệu, bằng khen, giấy khen.
Tình hình giáo dục ở địa phương: đây là đơn vị lá cờ đầu của tỉnh trong cả
thành tích học tập và các hoạt động ngoại khóa. HS chăm ngoan, lễ phép, có
tinh thần học tập, học hỏi, có sức sáng tạo. Công tác phát triển đội ngũ, nâng

13



cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ nhà giáo luôn được
trường THPT Tam Dương xác định là nhiệm vụ hàng đàu để nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện bền vững, lâu dài. Đen nay, trình độ của cán bộ, giáo
viên, nhân viên nhà trường 100% đạt chuẩn và trên chuẩn. Nhà trường quan
tâm tới những giáo viên mới ra trường, phân công GV có thâm niên, có năng
lực giúp đỡ về chuyên môn, về phương pháp, nhờ đó GV trẻ nhanh chóng
trưởng thành.
Cơ sở vật chất: cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ, có phòng đọc
điện tử cho GV sử dụng làm tài liệu, tham khảo tài liệu và nhập liệu điện tử.
Có đầy đủ phòng học cho các lớp, có phòng máy tính để học sinh thực hành
tin học. Nhà trường có sân trường rộng, đảm bảo cho các hoạt động vui chơi
của HS và các hoạt động tập thể, đồng thời có nhà tập đa năng sử dụng trong
các hoạt động thể dục thể thao trong nhà và biểu diễn văn nghệ.
Đội ngũ GV: Nhà trường có hơn 100 GV cùng viên chức trong trường, các
thầy cô cùng đội ngũ viên chức trong Trường hăng say vói công việc, hòa
đồng và luôn nhiệt tình giúp đỡ đoàn giáo sinh thực tập. Tinh thần đoàn kết
trong công việc và trong các hoạt động tập thể cao, hăng hái nhiệt tình tham
gia các sân chơi dành cho GV.
Hiện nay, Nhà trường có 31 lớp chia làm 3 khối, khối 10, khối 11 và khối
12. Kết quả học tập của HS: năm học 2014 - 2015, chất lượng giáo dục đạt kết
quả cao. Thi tốt nghiệp THPT đạt 99.76%; học sinh đỗ ĐH, CĐ đạt 68,5%
ừong đó HS đạt điểm từ 24 trở lên có 34 em.
GV tích cực giảng dạy và giáo dục theo đúng chương trình giáo dục, kế
hoạch dạy học; soạn bài, chuẩn bị thí nghiệm; kiểm tra, đánh giá theo quy
định; vào sổ điểm, ghi học bạ đầy đủ; lên lớp đúng giờ; không tuỳ tiện bỏ
giờ, bỏ buổi dạy; quản lý HS trong các hoạt động do nhà trường tổ chức; coi
thi, chấm thi: thi học kỳ, thi lên lớp, thi tuyển vào lớp đầu cấp, thi tốt


14


nghiệp... Tham gia các họat động sinh hoạt chuyên môn: họp hội đồng giáo
dục, họp tổ chuyên môn, dự giờ, rút kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy HS.
* Hoạt động dạy học môn GDCD ở trường THPT Tam Dương
Trường THPT Tam Dương cũng như tất cả các trường THPT khác trên
phạm vi cả nước, việc dạy học môn GDCD đều theo chương trình chuẩn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thực tế việc giảng dạy hiện nay đối vói môn học này còn nhiều bất cập.
Một mặt, một số GV hoặc chưa thấy hết tàm quan trọng của môn học; hoặc
ngại đổi mới phương pháp dạy học nên đã biến phần lớn các giờ dạy chỉ đơn
thuần mang tính lý luận, xa rời thực tế, trở nên khô khan, nhàm chán; hoặc
không phù hợp với tình hình hiện nay cũng như thực tiễn. Mặt khác, với một
tư tưởng đã ăn sâu vào tiềm thức của các em môn GDCD chỉ là môn phụ nên
tự học môn GDCD vói các em là xa lạ và mới mẻ.
Trường THPT Tam Dương cũng như các trường THPT khác hiện nay đều
có mối quan tâm hàng đầu là vấn đề chuyên môn của các môn học liên quan
trực tiếp định hướng thi tốt nghiệp, cao đẳng, đại học như môn: Toán, Lý,
Hóa, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh. Còn các môn cơ sở, mang tính định
hướng chính trị, giáo dục phẩm chất và năng lực khác như môn GDCD
thường ít được coi trọng, hoặc chỉ mang tính chất bổ trợ mà thôi, việc tổ chức
ngoại khóa cho môn này còn rất ít. GV chủ yếu sử dụng phương pháp dạy học
truyền thống, dẫn đến chất lượng dạy của môn GDCD còn chưa cao, từ đó
gây tâm lý coi nhẹ bộ môn của HS, dẫn đến hiệu quả học tập chưa cao.
1.2.2.

Thực trạng sử dụng phương pháp tự học trong dạy học phần

“Công dân với đạo đức” môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Tam Dương,

Vĩnh Phúc
* Tác giả tiến hành điều tra nhận thức của HS trường THPT Tam Dương
về tầm quan trọng của môn GDCD lớp 10. Việc điều tra được tiến hành trên
146 HS lớp 10 năm học 2015 - 2016 thuộc các lớp 10A5,10A7,10A8, 10A9.
15


Bảng 1.1. Nhận thức về tầm quan trọng của môn GDCD
STT

Mức đô• nhân
• thức về tầm

Sổ lượng HS

Tỉ lệ (%)

quan trọng của môn GDCD
1

Rất quan trọng

76

52,1

2

Quan trọng


31

21,2

3

Bình thường

27

18,5

4

Không quan trọng

12

8,2

Nhìn vào bảng số liệu, ta có thể dễ dàng nhận thấy phần lớn HS đã có
nhận thức đúng đắn được tầm quan trọng của môn học. Tuy nhiên vẫn còn
một số HS chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn học. Đó cũng là
nguyên nhân gây ảnh hưởng tới chất lượng dạy học môn GDCD.
* Thực tế dạy học đã chứng minh rằng khi HS có hứng thú với môn học
thì thái độ học tập rất nghiêm túc và kết quả học tập thu được rất cao. Vì khi
đó HS tập trung, dồn hết trí lực của mình để tìm hiểu, khám phá tri thức. Tác
giả tiến hành khảo sát về vấn đề này qua bảng số liệu điều tra về hứng thú tự
học môn GDCD, cụ thể là ở học phần “Công dân với đạo đức” lớp 10.
Bảng 1.2. Bảng thể hiện mức độ hứng thú tự học phần “Công dân với đạo

đức” trong môn GDCD lóp 10
Mức độ hứng thú tự
STT
hoc
• môn GDCD

Tỉ lệ(% )
Sổ lượng HS

1

Rất hứng thú

26

17,8

2

Hứng thú

37

25,3

3

Bình thường

81


55,5

4

Không hứng thú

2

1,4

16


Nhìn vào bảng số liệu, ta có thể nhận thấy hứng thú tự học môn GDCD
còn chưa cao, chưa có tính tích cực, chưa tự giác trong việc tự học.
Theo kết quả điều ưa về việc sử dụng phương pháp tự học của GV vào
dạy học cho HS còn chưa cao, cụ thể là teong phàn “Công dân với đạo đức”
môn GDCD lớp 10. GV chủ yếu chỉ yêu cầu HS về học bài cũ và đọc trước
bài mới, việc lập kế hoạch thiết kế bài giảng có sử dụng phương pháp tự học
còn hạn chế.
Thông qua việc điều ưa tìm hiểu về thực ưạng tự học môn GDCD ở
trường THPT Tam Dương, chúng ta có thể nhận thấy được thực tế rằng: phần
lớn HS đã nhận thức được tầm quan ưọng của môn GDCD. Nhưng mức độ
hứng thú tự học môn này còn chưa cao do một phàn các em chưa có phương
pháp tự học phù hợp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là GV cần phải có biện pháp
hướng dẫn cho HS và có phương pháp tự học phù họp để đạt được hiệu quả
cao, đặc biệt là với môn GDCD.

17



Chương 2
QUY TRÌNH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP T ự HỌC TRONG DẠY HỌC
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GDCD LỚP 10 Ở
TRƯỜNG THPT TAM DƯƠNG, VĨNH PHÚC
2.1. Quy trình thiết kế bài giảng
2.1.1. Xác đinh
m
m muc tiêu bài hoc
m
Mục tiêu bài học là cái đích hướng tới về kiến thức, kĩ năng và thái độ
mà học sinh cần đạt được sau bài giảng. Đó là cơ sở để giáo viên lựa chọn
phương pháp, phương tiện và thiết kế các biện pháp phù hợp cho hoạt động
dạy học. Trong việc sử dụng phương pháp tự học ương dạy học phần “Công
dân với đạo đức” môn GDCD, GV cần phải hiểu rõ các tiến trình sau:
Thứ nhất, GV liên hệ với mục tiêu và nhiệm vụ của phần kiến thức, của
bộ môn, của nhà trường để xây dựng mục tiêu cho bài học.
Căn cứ vào nhiệm vụ và mục tiêu của phần kiến thức, của bộ môn, của
nhà trường về tri thức, kĩ năng, thái độ cần phải đạt được ở HS, GV xác
định mục tiêu cho bài học và hướng hoạt động dạy học vào thực hiện mục
tiêu trên.
Thứ hai, GV nghiên cứu nội dung bài học sẽ giúp GV xác định đúng nội
những kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài mà HS cần nắm được với các mức
độ kiến thức phải biến, cần biết và có thể biết. Từ đó hướng dẫn HS cách tự
học để đạt được hiểu quả tốt nhất, chủ động tiếp thu kiến thức của bài học.
Thứ ba, GV nghiên cứu đối tượng của quá trình dạy học. Khi hiểu rõ đối
tượng dạy học của mình giữa lớp nhận thức chậm và lớp nhận thức nhanh GV
sẽ xác định được khả năng, trình độ và năng lực nhận thức của các em. Trên
cơ sở đó, xây dựng mục tiêu bài học phù hợp với khả năng tự học của HS và

kích thích năng lực của HS.

18


2.1.2. Xác định phương pháp, phương tiện dạy học

về phương pháp dạy học, dựa vào mục tiêu, nội dung bài học, đặc điểm
và điều kiện của người học, GV xác định phương pháp dạy học cho phù hợp.
Trong đó, mục tiêu, nội dung bài học quyết định sự lựa chọn phương pháp
dạy học. Vói nội dung tri thức phần “Công dân với đạo đức” môn GDCD, GV
sử dụng phương pháp tự học trong dạy học trong dạy học sẽ tạo điều kiện cho
HS có sự chủ động tìm hiểu và lĩnh hội tri thức.

về phương tiện dạy học, đây là cầu nối để người dạy truyền tri thức đến
cho ngưòi học. Các phương tiện dạy học như: trang ảnh, băng hình, máy
chiếu, máy tính.. .có khả năng làm khơi dậy khả năng tự học, dẫn truyền, tăng
sức mạnh tác động của người dạy đến người học, người học tiếp cận đối
tượng tri thức một cách nhanh nhất.

về tài liệu, tài liệu chủ yếu là SGK, sách bài tập, sách tình huống GDCD,
ngoài ra còn tư liệu tham khảo trên mạng, báo chí, truyện đọc...
2.1.3. Các bước thiết kế bài giảng
Để thiết kế bài học theo phương pháp tự học cho HS, tác giả tiến hành
theo quy trình gồm 3 giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1: Trước khi giảng bài mới một tuần GV giới thiệu sách
giáo khoa, tài liệu liên quan đến bài học, giao những nội dung cho HS tự đọc,
tự nghiên cứu, tự giải quyết theo cách của mình. Nội dung chuẩn bị có thể
chung cho cả lớp, cho từng nhóm, từng cá nhân, nhưng cơ bản là giao cho
từng nhóm nhỏ HS vói những đơn vị kiến thức phù hợp. Cụ thể, GV phải:

- Thiết kế nội dung bài học cho HS tự học, nội dung đó bao gồm lý
thuyết và bài tập.
- Cung cấp các nguồn tài liệu cần thiết cho bài tập, yêu cầu, hướng dẫn
HS tự đọc, tự nghiên cứu, tự làm bài tập.
Cuối cùng GV phải nêu rõ yêu cầu của mình đối với HS, HS phải làm gì,
làm theo nhóm hay làm cá nhân, có thể nhờ đến GV hoặc bạn bè giúp đỡ hay
không.. .và khi nào phải hoàn thành bài tập.

19


* Giai đoạn 2: Giai đoạn lên lớp
Giờ lên lớp: Được tiến hành theo các hoạt động vói từng việc cụ thể cho
mỗi hoạt động như sau:
Thứ nhất: Giói thiệu nội dung bài học.
Thứ hai: Xác định mục tiêu, nhiệm vụ học tập.
Việc thực hiện các nhiệm vụ học tập được tiến hành theo phương pháp tự
học trong giờ thảo luận bao gồm các hoạt động sau:
- Hoạt động 1: Thảo luận nhóm/cả lớp
Một là: GV tổ chức lớp thành các nhóm học tập có nhóm trưởng và có
thể có cả thư ký nên luân phiên nhau) điều khiển thảo luận.
Hai là: Thảo luận nhóm. Yêu cầu cá nhân tranh luận, thảo luận.
Ba là: Nhóm trưởng thống nhất ý kiến để chuẩn bị trinh bày trước lớp.
- Hoạt động 2: Báo cáo kết quả và tranh luận giữa các nhóm/cả lớp
Một là: Các nhóm trưởng làn lượt lên trình bày kết quả làm việc của nhóm.
Hai là: Ý kiến tranh luận của các cá nhân xung quanh các báo cáo.
- Hoạt động 3: GV tổng kết, rút ra kết luận.
Một là: GV nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động của nhóm, nhận xét và
giải đáp những ý kiến thắc mắc của cá nhân, phân xử những ý kiến đối lập. GV
phải chuẩn bị kiến thức sẵn sàng để đánh giá và giải đáp những ý kiến của HS.

Qua đó GV cũng kiểm tra được việc HS lĩnh hội được bao nhiêu kiến thức.
Hai là: GV tổng kết, kết luận những vấn đề chủ yếu, trọng tâm của bài học.
- Hoạt động 4: GV giới thiệu nội dung học tập tiếp theo.
Cuối giờ lên lớp GV dành thời gian khoảng 5 phút để củng cố bài học
bằng cách đưa ra một số câu hỏi đánh giá việc thực hiện nội dung học tập trên
(có thể tiến hànhđánh giá ngay sau mỗi nội dung học tập vào cuối hoạt động
3). Sau đó GV giới thiệu bài học mới của tiết sau và giới thiệu, yêu cầu,
hướng dẫn HS đọc SGK, tài liệu có liên quan.

20


×