Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Quá trình phát triển kinh tế xã hội của liên bang nga dưới cải cách của tổng thống v putin (2000 2008)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (743.93 KB, 52 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành đến cô giáo – Ths. Đặng
Thị Hồng Liên, người đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành khóa
luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn thể các thầy cô giáo trong khoa
Sử - Địa, trong Tổ Lịch sử thế giới và phương pháp dạy học lịch sử trường Đại
Học Tây Bắc, các cán bộ phòng thư viện của trường Đại Học Tây Bắc cũng như
gia đình và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Đề tài hoàn thành chắc chắn sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót, rất mong
nhận được ý kiến, phê bình, đóng góp của quý thầy cô và bạn đọc để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Tác giả
Quàng Thị Thiên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu vấn đề. ............................................................................ 4
4. Phạm vi nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 4
5. Các phương pháp nghiên cứu vấn đề ................................................................ 4
6. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 5
NỘI DUNG........................................................................................................... 6
Chƣơng 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN BANG NGA TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA
V.PUTIN ............................................................................................................... 6
1. Thực trạng kinh tế - xã hội của liên bang Nga trước khi Tổng thống
V.Putin lên cầm quyền ......................................................................................... 6
1.1. Thực trạng kinh tế của Liên bang Nga trước khi Tổng thống V.Putin lên


cầm quyền.............................................................................................................. 6
1.2. Tình hình chính trị - xã hội ............................................................................ 9
2. Tình hình quốc tế, khu vực tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội Liên
bang Nga.............................................................................................................. 11
2.1. Xu thế toàn cầu hóa trong quan hệ quốc tế .................................................. 11
2.2. Sự thay đổi của tình hình chính trị và kinh tế những năm đầu thế kỷ
XXI ...................................................................................................................... 12
3. V.Putin lên nắm chính quyền, giữ chức Tổng thống và thực hiện đường lối
phát triển kinh tế - xã hội .................................................................................... 14
3.1. V.Putin lên nắm chính quyền và giữ chức Tổng thống. .............................. 14
3.2. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Tổng thống V.Putin và quá trình
thực hiện .............................................................................................................. 15


Chƣơng 2: QÚA TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA LIÊN
BANG NGA DƢỚI

THỜI KỲ CỦA TỔNG THỐNG V.PUTIN GIAI

ĐOẠN (2000 - 2008) ......................................................................................... 22
1. Mục tiêu, biện pháp và thành tựu của đường lối phát triển kinh tế - xã hội
trong nhiệm kỳ thứ nhất (2000 - 2004) của V.Putin ........................................... 22
1.1. Mục tiêu, biện pháp của đường lối phát triển kinh tế xã hội trong nhiệm kỳ
thứ nhất (2000 - 2004) của V.Putin ..................................................................... 22
1.2. Thành tựu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Liên bang Nga dưới thời
Tổng thống V.Putin trong nhiệm kỳ thứ nhất ( 2000 - 2004) ............................... 25
2. Mục tiêu, biện pháp và thành tựu của đường lối phát triển kinh tế - xã hội
trong nhiệm kỳ thứ hai ( 2004 - 2008 ) của V.Putin ........................................... 30
2.1. Mục tiêu, biện pháp của đường lối phát triển kinh tế trong nhiệm kỳ thứ 2
(2004 - 2008) của V.Putin ................................................................................... 30

2.2. Thành tựu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Liên bang Nga dưới
thời Tổng thống V.Putin trong nhiệm kỳ thứ hai ( 2004 - 2008) ........................ 32
Chƣơng 3: NHỮNG THÁCH THỨC, TRIỂN VỌNG CỦA QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN BANG NGA VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ................................................................ 38
1. Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của Liên bang Nga .............................. 38
2. Những thách thức của quá trình phát triển phát triển kinh tế- xã hội Nga ......... 40
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. ............................................................... 41
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 47


BẢNG CHỮ CÁI TÓM TẮT
NXB

: Nhà xuất bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

TBCN

: Tƣ bản chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thế kỉ XX, loài người chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng, những
biến đổi to lớn của tình hình thế giới, thậm chí có những đảo lộn bất ngờ, trong

đó có sự khủng hoảng rồi tan rã của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
(25/12/1991). Mặc dù Liên bang Nga được kế thừa 70% tiềm lực kinh tế, quân
sự trong các tổ chức quốc tế của Liên Xô, nhưng cùng với những khó khăn trong
giai đoạn chuyển đổi ở thập niên 90, tình trạng khủng hoảng về kinh tế, chính
trị, xã hội đã kéo nước Nga tụt hậu so với Liên Xô trước đây cũng như những
nước Tư bản chủ nghĩa mới phát triển. Bước sang thế kỷ XXI, trong quan hệ
quốc tế xu thế chủ đạo là quá trình toàn cầu hóa, xu thế tăng cường liên kết và
cạnh tranh về nhiều mặt kinh tế, chính trị, quân sự giữa các quốc gia và khu vực.
Việc khôi phục lại vị trí của nước Nga trên trường quốc tế có tầm quan trọng
không chỉ đối với nước Nga mà còn với cục diện thế giới. Sau gần một thập kỷ
thử nghiệm và tiến hành đường lối cải cách thị trường dưới sự cầm quyền của
tổng thống Boris Yeltsin (1992 - 1999) Liên bang Nga bước vào thời kỳ khó
khăn chồng chất, với những khủng hoảng toàn diện về kinh tế - chính trị, Nga
đứng bên bờ vực thẳm. Trong thời điểm lịch sử vô cùng quan trọng đó, đã xuất
hiện một con người mà hầu như thế giới không được biết đến trước khi nắm
quyền Tổng thống nước Nga, đã không những làm thay đổi nước Nga bằng sự
khôn khéo, thông minh, quyết đoán của mình mà còn tạo ra sự cân bằng tưởng
như không tìm được trên trường quốc tế, đó là V.Putin. Qúa trình phát triển kinh
tế- xã hội dưới cải cách của tổng thống V.Putin đã có những bước chuyển biến
mạnh mẽ, với những thành công của cải cách đã làm cho nền kinh tế được phục
hồi và tốc độ tăng trưởng khá cao. Nga đã vươn lên đứng thứ tư thế giới sau Mỹ,
Trung Quốc và Nhật Bản. Chính vì vậy, Nga đã từng bước giải quyết được nợ
nước ngoài. Tình hình văn hóa - xã hội cũng được giải quyết và phát triển. Với
những kết quả của cuộc cải cách đó cũng đã góp phần làm cho nền chính trị từng
bước đi vào ổn định. Điều đó đã khẳng định nước Nga có thể giành lại vị thế
cường quốc thế giới như Liên bang Xô Viết trước kia. Và chính điều đấy đã tác
1


động đến tình hình nước Nga hiện nay và mối quan hệ quốc tế đương đại trong

đó có quan hệ Nga - Việt.
Hơn nữa, quan hệ hợp tác Nga - Việt ngày càng được khôi phục và củng
cố sau một thời gian ngưng trễ bằng những cuộc viếng thăm, trao đổi và ký kết
các hiệp ước hợp tác giữa 2 bên đặc biệt là chuyến viếng thăm Việt Nam của
Tổng thống V.Putin (2001) và chuyến thăm Nga của tổng thống Nông Đức
Mạnh (2002). Trong thời gian gần đây, có chuyến viếng thăm Việt Nam của
Tổng thống V.Putin (2013). Cả 2 nước Việt Nam và Liên bang Nga đều xem là
đối tác truyền thống và tin cậy lẫn nhau. Vì thế, vấn đề tìm hiểu sâu sắc tình
hình kinh tế - xã hội của Liên bang Nga có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
Việt Nam trong quá trình giao lưu và hợp tác.
Như vậy, để tìm hiểu và nghiên cứu những nhân tố nào tác động đến tình
hình kinh tế - xã hội Nga trước khi Tổng thống V.Putin lên cầm quyền, nghiên
cứu những đường lối, mục tiêu, biện pháp cũng như những thành tựu của quá
trình phát triển kinh tế- xã hội dưới thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V.Putin
trong giai đoạn (2000 - 2008) với 2 nhiệm kỳ, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Qúa
trình phát triển kinh tế- xã hội của Liên bang Nga dƣới cải cách của Tổng
thống V.Putin (2000 - 2008)” làm đề tài khóa luận của mình với hy vọng được
góp một phần nhỏ vào nội dung kiến thức lịch sử thế giới hiện đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc thực hiện công cuộc cải cách kinh tế - xã hội của V.Putin đã thu được
nhiều thành tựu nổi bật. Nước Nga không những vượt qua thời kỳ hậu khủng
hoảng kinh tế mà còn thành công trong việc thúc đẩy tăng trưởng, tăng lương
cho người lao động, đồng thời đảm bảo được trật tự xã hội của đất nước. Điều
này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước
với những quan điểm, đánh giá trên nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến
những công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
+ Cuốn “Kinh tế - xã hội Liên bang Nga thời kỳ hậu XôViết” của
TS.Nguyễn Thị Huyền Sâm do NXB chính trị quốc gia, xuất bản năm 2009.
Nội dung của cuốn sách đã khắc họa một giai đoạn lịch sử đặc biệt của Liên
2



bang Nga thời kỳ từ năm 1992 (sau khi Liên bang XôViết tan rã) đến hết nhiệm
kỳ thứ nhất của Tổng thống V.Putin (năm 2004) thông qua tập trung nghiên cứu
đánh giá quá trình phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với vai trò của Tổng thống
B.Yeltsin và V.Putin; phân tích những nguyên nhân trì trệ hoặc phục hồi nền
kinh tế - xã hội của Liên bang Nga. Nhưng sách chưa làm rõ quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của Liên bang Nga trong giai đoạn (2000-2008)
+ Nguyễn Đình Hương chủ biên (2005), “Chuyển đổi kinh tế Liên bang
Nga lý luận, thực tiễn và bài học kinh nghiệm”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
Tác giả trình bày quy luật, các giai đoạn của nền kinh tế chuyển đổi ở Liên bang
Nga như tư nhân hoá, thị trường và việc giải quyết các vấn đề xã hội… Ngoài ra
cuốn sách cũng nêu triển vọng của nền kinh tế Liên bang Nga và rút ra những
bài học kinh nghiệm.
+ Cuốn “Nước Nga thời Putin” do Ngô Sinh chủ biên của NXB Văn hoá
thông tin, năm 2008. Cuốn sách là sự tổng hợp, đánh giá về bức tranh toàn cảnh
tình hình kinh tế, chính trị - xã hội của Liên bang Nga dưới sự cầm quyền của
Tổng thống V.Putin từng bước hồi phục lại vị thế cường quốc thế giới.
+ Cuốn “V.Putin sự lựa chọn của nước Nga” do Hồng Thanh Quang chủ
biên, của NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, năm 2001. Trên cơ sở tập hợp tư
liệu báo chí Nga, tác giả đã trình bày những diễn biến chính trên chính trường
Nga dưới thời Tổng thống B.Yeltsin, làm bối cảnh cho sự xuất hiện của V.Putin
với cương vị là Thủ tướng Nga rồi nắm quyền Tổng thống vào năm 2000. Từ
đó, tác giả đưa ra những đánh giá về vai trò của V.Putin trong việc thực hiện
đường lối phục hồi nước Nga.
+ Cuốn “Nước Nga trên trường quốc tế : Hôm qua, hôm nay và ngày
mai”, do Hà Mỹ Hương chủ biên của NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, xuất bản
năm 2006. Nội dung chính của sách là khái quát những chặng đường phát triển
của Liên bang Nga trên trường quốc tế. Qua đó, tác giả đã nhận định đánh giá về
những triển vọng của Liên bang Nga được tác giả đề cập đến.

+ Tác giả Dương Minh Hào, Triệu Anh Ba (2008), “Bản lĩnh Putin” do
NXB Thanh niên, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích, đánh giá những chính sách
3


mạnh dạn, táo bạo của V.Putin trong việc phát triển nước Nga sau khi tái đắc cử
Tổng thống Liên bang Nga. Các tác giả đã khẳng định bản lĩnh của vị Tổng
thống thứ hai Liên bang Nga trong việc đưa nước Nga trở lại vị trí cường quốc
thế giới.
Những cuốn sách trên, nhìn chung đã phán ánh khá đa dạng tình hình Liên
bang Nga dưới các góc độ khác nhau trên từng lĩnh vực như : kinh tế, chính trị,
quân sự, đối ngoại… trong những khoảng thời gian ở thập niên 90 của thế kỷ
XX hay những năm đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu
nào trình bày khái quát đến cụ thể để đánh giá được đường lối phát triển kinh tế
- xã hội của Liên bang Nga cũng như những thành tựu của nó dưới sự lãnh đạo
của Tổng thống V.Putin trong suốt hai nhiệm kỳ cầm quyền (2000 - 2008).
3. Mục đích nghiên cứu vấn đề.
Nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế- xã hội của Liên bang Nga dưới sự
cầm quyền của Tổng thống V.Putin đồng thời qua đó tìm hiểu đường lối, biện
pháp, nội dung cũng như kết quả, nguyên nhân thành công của cải cách. Từ đó,
khái quát những triển vọng và thách thức mà Liên bang Nga gặp phải trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, nêu những bài học kinh nghiệm cho các công
cộc cải cách kinh tế- xã hội trong đó có Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu vấn đề
Về không gian: Khóa luận nghiên cứu quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Liên bang Nga thông qua việc nghiên cứu mục tiêu, đường lối, biện pháp, quá
trình thực hiện và những kết quả đạt được dưới thời Tổng thống V.Putin.
Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội
Liên bang Nga dưới thời kỳ cầm quyền của Tổng thống V.Putin trong giai
đoạn (2000 - 2008) với 2 nhiệm kỳ: nhiệm kỳ thứ nhất (2000 - 2004) và nhiệm

kỳ thứ 2 (2004 - 2008).
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu vấn đề
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra còn có các
phương pháp khác như: phương pháp so sánh, tổng hợp, đối chiếu..
4


6. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm 3 chương :
Chƣơng 1 : Những yếu tố tác động đến quá trình phát triển kinh tế-xã
hội Liên bang Nga trƣớc cải cách của V.Putin
Chƣơng 2: Qúa trình phát triển kinh tế - xã hội của Liên bang Nga
dƣới thời kỳ Tổng thống V.Putin giai đoạn (2000 - 2008)
Chƣơng 3: Những triển vọng, thách thức của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội Liên bang Nga và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN BANG NGA TRƢỚC CẢI CÁCH CỦA V.PUTIN
1. Thực trạng kinh tế - xã hội của liên bang Nga trƣớc khi Tổng thống
V.Putin lên cầm quyền
1.1. Thực trạng kinh tế của Liên bang Nga trước khi Tổng thống
V.Putin lên cầm quyền
Vấn đề quan trọng tác động đến quá trình phát triển kinh tế Liên bang Nga
là trước năm 1991 Liên bang Nga với tư cách là trụ cột của Liên bang XôViết,

trong suốt hơn 7 thập kỷ đã xây dựng, duy trì mô hình quản lý kinh tế - xã hội
điển hình nhất của nền kinh tế kế hoạch tập trung và việc thực hiện xã hội hóa tư
liệu sản xuất một cách duy ý chí trong thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội Xôviết thực chất là việc thủ tiêu sở hữu riêng, xác lập sở hữu chung không
thuộc về ai thông qua các biện pháp quốc hữu hóa. Đó là nguyên nhân quan
trọng nhất đưa nền kinh tế Liên bang Nga lâm vào khủng hoảng. Đến lúc này
chính thể kinh tế thống nhất đã bị phá vỡ. Điều này, làm cho kinh tế Liên bang
Nga rơi vào tình trạng sản xuất đình trệ, thiếu hụt triền miên tư liệu sản xuất và
các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu trong nước như lương thực, thực phẩm,
hàng tiêu dùng. Vì vậy, yêu cầu được đặt ra là xóa bỏ mô hình quản lý kinh tế xã hội theo kiểu kế hoạch hóa tập trung đã tồn tại quá lâu, không còn phù hợp
với xu thế chung của thời đại và thay vào đó nền kinh tế thị trường là yêu cầu
khách quan và cấp thiết. Trong những thập niên 90 của thế kỷ XX là thời kỳ
Tổng thống B.Yeltsin cầm quyền, ông nhận thức rõ tình hình kinh tế - xã hội
Liên bang Nga đang phá sản, “đang trong ngõ cụt của cuộc khủng hoảng chế
độ”. [9;Tr 26]. Trong thời kỳ này nền kinh tế Liên bang Nga ngày càng suy sụp
và khủng hoảng triền miên. Vì thực tế vấn đề đặt ra cho Liên bang Nga lúc này
là không thể tiếp tục quay lại với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung của
thời kỳ Liên Xô cho nên Tổng thống B.Yeltsin đã thực hiện đường lối cải cách
6


thị trường, chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường. Không thể phủ định rằng trong những hoàn cảnh nhất định, mô hình
kinh tế này đã có những ưu điểm và tạo nên những thế mạnh, đưa đến những
thành tựu kinh tế nhất định, song cho đến giai đoạn sau nó đã bộc lộ những hạn
chế, yếu kém. Mô hình đó đã kìm hãm, làm cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội
Liên bang Nga rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Tổng thống B.Yeltsin kiên quyết phá vỡ toàn bộ cơ sở của hình thái kinh tếxã hội xã hội chủ gnhĩa. Vì vậy, đường lối cải cách kinh tế của Liên bang Nga
dưới thời cầm quyền của Tổng thống B.Yeltsin có rất nhiều nội dung, song có
thể khái quát thành ba nội dung cơ bản là cải cách tài chính - tiền tệ, tự do hóa

thương mại và cải cách chế độ sở hữu.
Để đạt được những mục tiêu đề ra lúc đầu cũng như thực hiện đường lối cải
cách thị trường, Tổng thống B.Yeltsin đã tin tưởng giao phó trọng trách xây
dựng đường lối cải cách kinh tế- xã hội cho E.Gaiđar _ người lựa chọn chuyển
đổi mô hình kinh tế - xã hội bằng “liệu pháp sốc”. “Liệu pháp sốc” là chương
trình do Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ soạn thảo và đã được IMF, WB đưa
vào nhóm chính sách mang tên “Chính sách đồng thuận Washingtơn”. Nội dung
chủ yếu của “liệu pháp sốc” là tự do hóa giá cả, thương mại, tư nhân hóa và thắt
chặt tài chính. [9;Tr 29]. Việc thực hiện “liệu pháp sốc” đã không đem lại kết
quả như mong muốn của các nhà cải cách, thậm chí làm cho nền kinh tế Liên
bang Nga suy thoái trầm trọng hơn. Trước sức ép ngày càng tăng từ dân chúng
và Quốc hội Tổng thống B.Yeltsin đã buộc phải đưa V.Chernomưrđin lên thay.
Đồng thời, vẫn tiếp tục sử dụng ý tưởng của E.Gaiđar nhưng việc làm này làm cho
tình trạng kinh tế - xã hội không có gì tiến triển. Sau một thời gian thử nghiệm,
Liên bang Nga đã từ bỏ “liệu pháp sốc” để chuyển sang biện pháp cải cách ôn hòa
hơn, lấy trọng tâm chính là giải quyết khủng hoảng để đẩy mạnh sản xuất, trợ giúp
cho nhiều nghành công nghiệp, kiểm soát chặt chẽ nền tài chính, chú trọng hơn tới
vấn đề bảo hiểm xã hội đối với các tầng lớp nhân dân chịu tác động mạnh của thời
kỳ chuyển đổi. Nét nổi bật trong đường lối, cải cách của V.Chernomưrđin là tiếp
tục tiến hành tư nhân hóa, cải cách thương mại, kinh tế đối ngoại như trước, song
7


không buông lỏng vai trò quản lý của Nhà nước. Nhưng kết quả của đường lối,
biện pháp này lại không mang lại kết quả gì.
Để tìm một liều thuốc hữu hiệu hơn, B.Yeltsin lại thay đổi chính phủ, đưa
S.Kirienko lên thay V.Chenomưrđin. Chính phủ S.Kirienko đã thực hiện biện
pháp mạnh tập trung vào các biện pháp tài chính, tiền tệ theo hướng giảm cầu
trong khi chính phủ tiền nhiệm lại chú trọng kích thích cung bằng thúc đẩy sản
xuất. Nhưng với biện pháp này không được sự ủng hộ cả Quốc hội và các nhà tài

phiệt, ngày 17/08/1998 Chính phủ buộc tuyên bố phá giá đồng Rúp và hoãn trả
nợ nước ngoài trong thời gian 90 ngày. Sự kiện này “như giọt nước làm tràn cốc
nước”, đẩy khủng hoảng kinh tế - xã hội Liên bang Nga lên tới đỉnh điểm.
Những biện pháp cải cách này đã chấm dứt sau 5 tháng thực hiện. Một thời gian
sau, Tổng thống đã đưa E.Primacov lên thay S.Kirienko. Ông chủ trương xây
dựng một nền kinh tế mang tính “định hướng xã hội” với ưu tiên là thanh toán
tình trạng nợ lương kéo dài và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Mặc dù công nhận những thành công nhất định của chính phủ E.Primacov
nhưng với những toan tính chính trị riêng, Tổng thống B.Yeltsin đã cách chức
E.Primacov và đưa S.Stepashin lên nắm quyền Thủ tướng vào giai đoạn sau.
Nhưng tình hình kinh tế Nga vẫn không có những biến chuyển đi lên. Đến
cuối cùng, Tổng thống đã chọn cũng chọn được nhân tài, đó là V.Putin.
V.Putin đã lên nắm quyền thủ tướng và đảm nhận trọng trách đưa nền kinh tế
liên bang Nga thoát khỏi khủng hoảng vào tháng 8/1999. V.Putin chủ trương
vẫn tiếp tục các biện pháp cải cách, xây dựng nền kinh tế thị trường không
phải bằng con đường tự do hóa mà tăng cường điều tiết của Nhà nước, chú
trọng giải quyết các vấn đề xã hội.
Như vậy, sau 8 năm cải cách của Tổng thống B.Yeltsin, Liên bang Nga
rơi vào tình cảnh khó khăn, bế tắc về mọi mặt, khủng hoảng kinh tế - chính trị xã hội triền miên. Nhìn tổng thể, bức tranh kinh tế Liên Bang Nga thời kỳ cầm
quyền của Tổng thống B.Yeltsin (1992 - 1999) thiên về mảng xám với hàng loạt
các chỉ số: Lạm phát cao, tăng trưởng liên tục ở mức âm, các nghành kinh tế
công nghiệp, nông nghiệp... giảm sút nghiêm trọng. Bắt đầu từ chính sách tự do
8


hóa giá cả của E.Gaiđar làm cho giá cả thị trường leo thang đột ngột và lạm phát
ở mức cao thậm chí nguy cơ thành siêu lạm phát. Cùng với lạm phát cao, nền
kinh tế Liên bang Nga còn suy thoái kéo dài, GDP luôn tăng trưởng âm. Cuộc
khủng hoảng tài chính – tiền tệ, đã buộc Chính phủ phải thả nổi đồng Rúp
(17/8/1998) và điều đó đẩy nền kinh tế Liên bang Nga rơi vào suy thoái, GDP

tụt xuống và cho đến năm 1999 mới được phục hồi trở lại. Với nền kinh tế ảm
đạm như vậy, các lĩnh vực kinh tế của Liên bang Nga cũng sa sút nghiêm trọng.
Trong công nghiệp, sản xuất đình trệ, năng suất lao động có xu hướng giảm dần
đó là việc sử dụng không hết công suất của các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp.
Theo Niên giám thống kê Nga, sản lượng của một số ngành công nghiệp then
chốt trong thời gian 1990 - 1997 đều giảm. Nông nghiệp Liên bang Nga cũng
suy thoái nặng nề trong những năm cải cách, trong những thập niên 90 của thế
kỷ XX Liên bang Nga luôn phải đối mặt với tình trạng thiếu thiếu hụt lương
thực, thực phẩm và buộc phải ưu tiên các chiến lược nhập khẩu lương thực, thực
phẩm. Hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng của Liên bang Nga trong những
thập niên 90 của TK XX chưa thực sự hiệu quả. Quan hệ tiền tệ bình thường mất
đi và việc thanh toán bằng hiện vật bắt đầu thay thế thanh toán bằng tiền mặt
giữa các doanh nghiệp. Kết quả phản ánh thực trạng Liên bang Nga trong những
năm 1992 - 1999 được thể hiện trong bảng xếp hạng các nền kinh tế trên thế
giới, theo đánh giá của WB, GDP của Liên bang Nga trong thập niên 90 của thế
kỷ XX liên tục giảm theo đó GDP bình quân theo đầu người của Liên bang Nga
cũng giảm. Thực trạng đó của nền kinh tế xã hội Nga là thách thức rất lớn đối
với giới lãnh đạo Nga trong việc ổn định nền kinh tế trong nước cũng như việc
tìm kiếm vị trí cường quốc của mình trên trường quốc tế.
1.2. Tình hình chính trị - xã hội
Ở thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình chính trị nổi bật của Liên bang
Nga là sự đối đầu giữa các phe nhóm, đảng phái với những lợi ích và mối quan
tâm khác nhau nhưng nổi bật nhất hàng đầu vẫn là sự tranh chấp quyền lực giữa
Tổng thống, Chính phủ và Quốc hội. Đầu năm 1993 song song với việc nền kinh
tế - xã hội đang trong cuộc vật lộn, chao đảo với “cơn lốc giá cả” thì chính
9


trường Nga cũng đang tranh đấu giữa Tổng thống B.Yeltsin và chủ tịch XôViết
R.Khasbulatov để thiết lập chế độ Cộng hòa Tổng thống hay chế độ cộng hòa

Nghị viện. Mâu thuẫn dường như đã được giải quyết thì xảy ra mâu thuẫn giữa
Tổng thống và Quốc hội mới về đường lối phát triển kinh tế - xã hội, chính sách
đối nội, đối ngoại. Đến năm 1999, xung đột này lên đến đỉnh điểm khi Đuma
Quốc gia chiếm đa số là lực lượng cánh tả đưa ra dự thảo bản luận tội 5 điểm đòi
phế truất Tổng thống. Trong thời kỳ đó, Chính phủ Liên bang Nga lại liên tục
thay đổi trong những năm 1990. Trong 2 nhiệm kỳ, Tổng thống đã 6 lần thay đổi
nội các. Tính riêng từ tháng 3/1998 đến tháng 8/1999 có 4 Thủ tướng đã bị thay
thế, sự xáo trộn nhân sự liên tục này làm cho ý tưởng, đường lối, biện pháp cải
cách của từng Chính phủ bị gián đoạn dẫn đến tình trạng đôi khi đường lối, biện
pháp phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ sau lại mâu thuẫn với đường lối,
biện pháp của Chính phủ tiền nhiệm ngoài ra còn có sự đối đầu giữa các cấp
quyền lực Trung ương và địa phương. Chính thiếu sự đồng bộ trong việc hoạch
định và thực hiền đường lối, chính sách biện pháp làm cho tình hình kinh tế - xã
hội rơi vào khủng hoảng triền miên.
Tình hình xã hội cũng bị ảnh hưởng với sự thay đổi về cơ cấu giai cấp, đời
sống của các tầng lớp nhân dân khó khăn, sự xuống cấp của giáo dục và khoa
học, sự phát triển của chủ nghĩa ly khai. Cùng với cải cách về kinh tế, các quan
hệ sở hữu và quyền lực đã thay đổi và tác động sâu sắc đến cơ cấu xã hội Liên
bang Nga. Đây là sự thay đổi thành phần, vị trí của các nhóm xã hội. Trên cơ sở
đó, các nhà nghiên cứu xã hội học, lịch sử ở Liên bang Nga đã chia xã hội thành
4 tầng lớp : Tầng lớp trên, tầng lớp trung lưu, tầng lớp bình dân (cơ bản), tầng
lớp dưới.
Cùng với sự thay đổi về cơ cấu xã hội còn có sự xuất hiện hàng loạt các
vấn đề xã hội như: Quan hệ ngầm trong lĩnh vực xã hội hết sức đa dạng; tệ nạn
tham nhũng trở thành một hiện tương phổ biến; tội phạm là vấn đề nhức nhối
trong xã hội Liên bang Nga, đây là thời kỳ xuất hiện nhiều tổ chức Mafia Nga.
Song song với khủng hoảng về kinh tế, sự thay đổi chính sách giáo dục,
hệ thống giáo dục trải qua thời kỳ phức tạp của bước quá độ từ nền giáo dục
10



nhất loạt sang giáo dục tự chọn, làm cho giáo dục giảm sút nghiêm trọng, hoạt
động nghiên cứu khoa học cũng giảm vì việc cắt giảm ngân sách cho nghiên cứu
khoa học. Đồng thời đó là sự xuất hiện của chủ nghĩa ly khai, đặc biệt là mâu
thuẫn dân tộc, tôn giáo ở khu vực Cápcadơ ở nước cộng hòa tự trị Chesnia và
Dagestan. Chiến tranh, xung đột, chủ nghĩ ly khai thực chất là hậu quả của
những nguyên nhân mang tính nội tại khách quan mang tính kinh tế, chính trị, xã
hội và những sai lầm nghiêm trọng trong chính sách dân tộc, tôn giáo của chính
quyền Liên bang. Có thể nói, từ thực trạng kinh tế - xã hội Liên bang Nga dưới
thời cầm quyền của Tổng thống B.Yeltsin (1992 - 1999), chúng ta thấy rằng
Liên bang Nga đang đứng trước cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Sự ảm
đạm của nền kinh tế là nguyên nhân làm nảy sinh các vấn đề xã hội gay gắt với
tình trạng tham nhũng, siêu lạm phát, tội phạm ma tuý hay cả vấn đề nóng bỏng
hơn là chủ nghĩa ly khai, khủng bố ở Chesnia.
2. Tình hình quốc tế, khu vực tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội
Liên bang Nga
2.1. Xu thế toàn cầu hóa trong quan hệ quốc tế
Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, quá trình quốc tế hoá đã đạt đến
một quy mô mới, to lớn hơn và ở một trình độ cao hơn đó chính là toàn cầu hoá.
Nói cách khác, toàn cầu hoá trở thành một sự thực cơ bản nhất trong đời sống
của thời đại tác động đến mọi mặt. Toàn cầu hóa như là xu thế khách quan
không thể cưỡng lại được của thời đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất,
của kinh tế và thị trường thế giới được xúc tiến bởi những bước tiến của cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đường lối phát triển của một quốc
gia trong không chỉ phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế, chính trị, xã hội mà còn chịu
sự tác động của bối cảnh quốc tế và khu vực. Liên bang Nga luôn khẳng định
rằng những thành tựu mà Nga đạt được phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố bên
ngoài. Như vậy, tham gia toàn cầu hoá là một đòi hỏi khách quan, vừa là nhu
cầu nội tại cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến một xu thế phát triển mạnh

mẽ của quá trình toàn cầu hóa, xu thế tăng cường liên kết các tổ chức quốc tế và
11


khu vực. Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các quốc gia trên tất cả các mặt.
Sự hoà nhập của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với cuộc cách
mạng thông tin tiên tiến đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển lên một bước
mới về chất, thúc đẩy nền sản xuất phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu của các quốc gia và khu vực.
Cũng trong thế kỷ XXI, cùng với quá trình toàn cầu hóa,còn có những yếu
tố: sự phát triển nhanh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới đã đưa nền
kinh tế thế giới chuyển dần sang nền kinh tế tri thức; xu thế hòa bình hợp tác và
phát triển trở thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh lạnh
kết thúc. Sự thay đổi đó của tình hình quốc tế có tác động to lớn đến con đường
phát triển các nước trên thế giới, trong đó có Liên bang Nga. Sự phát triển mạnh
mẽ của xu thế toàn cầu hoá đã dẫn đến sự hình thành các liên kết quốc tế, khu
vực trên thế giới trong đó có WTO là một tổ chức kinh tế đa phương nhằm thúc
đẩy tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới
đã và đang hình thành nhiều trung tâm kinh tế cạnh tranh nhau ngày càng khốc
liệt như Mỹ, EU, Nhật Bản,...Hơn thế nữa, các đối tác kinh tế của Liên bang
Nga từ truyền thống đến hiện tại như SNG, EU, ASEAN, APEC, ASEM... ngày
càng có những điều chỉnh lớn trong quan hệ kinh tế đối ngoại của mình trước
những tác động của xu thế toàn cầu hoá. Chính điều đó đặt ra những yêu cầu to
lớn cho Liên bang Nga trong việc điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của mình nhằm tìm kiếm lại vị thế cường quốc trên trường quốc tế sau gần
một thập kỷ bị lãng quên.
2.2. Sự thay đổi của tình hình chính trị và kinh tế những năm đầu
thế kỷ XXI
Trong thập niên 90 của thế kỉ XX, nhân loại đã chứng kiến sự kiện lịch
sử quan trọng đó là sự sụp đổ của Liên Xô, mặc dù Liên bang Nga được kế thừa

tiềm lực kinh tế, quân sự, vị trí trong các tổ chức quốc tế của Liên Xô, nhưng
cùng với những khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi ở thập niên 90, tình trạng
khủng hoảng toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội đã làm cho Liên bang Nga trở
nên yếu ớt. Trước những thay đổi lớn của tình hình thế giới, Liên bang Nga và
12


các nước lớn đều có sự điều chỉnh chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế xã hội và đến lượt nó tác động trở lại đối với sự phát triển của thế giới nói chung
và của các khu vực, các nước trên thế giới. Lo sợ sự lớn mạnh của Nga, Mỹ tăng
cường kiềm chế Nga về mọi mặt kinh tế, chính trị và quân sự, dẫn tới nguy cơ
một cuộc chạy đua vũ trang mới bằng việc quân sự hóa khoảng không vũ trụ..
Chính điều này nó đặt ra yêu cầu cho Nga phải có những điều chỉnh kịp thời
trong đường lối phát triển đất nước. Cùng sự trỗi dậy của EU và ngày càng mở
rộng ảnh hưởng của mình sang phía Đông đã ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của
Liên bang Nga. Với việc hàng loạt nước Đông Âu lần lượt gia nhập vào NATO
làm cho không gian địa - chính trị của Nga ngày càng hẹp lại.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, khu vực châu Á - Thái Bình Dương trở thành
tâm điểm chú ý của thế giới, biểu hiện là sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản,
sự phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ, Trung Quốc và sự năng động của khu vực
ASEAN đã làm cho cơ cấu quyền lực só sự thay đổi. Sau khi Liên Xô tan rã,
Liên bang Nga được cộng đồng thế giới công nhận là nước kế thừa tư cách của
Liên Xô trước đây trên trường quốc tế. Tuy nhiên, do những khó khăn ở trong
nước và chính sách đối ngoại “hướng về phương Tây” dưới thời Tổng thống
B.Yeltsin, vai trò, vị trí cường quốc của Nga trên thế giới nói chung, ở Châu Á Thái Bình Dương nói riêng đã giảm sút đáng kể. Để khắc phục tình trạng này,
trong những năm gần đây, Liên bang Nga áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có
sự chuyển hướng trong đối ngoại, lấy Châu Á - Thái Bình Dương làm một trong
những hướng ưu tiên. Nga đặc biệt quan tâm đến khu vực này với mong muốn
trở thành thành viên của Diễn đàn Đông Á, ngoài cơ chế đa phương như APEC,
ARF, hay ASEAN.
Một vấn đề nữa ngày càng trở nên nóng bỏng trong mối quan hệ quốc tế

đó chính là vấn đề an ninh năng lượng, nhiều nước và nhiều khu vực phải có
những điều chỉnh lớn nhằm đối phó với vấn đề này. Vấn đề an ninh năng lượng
đã buộc các cường quốc phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình, đi tìm
kiếm những nguồn cung cấp năng lượng ổn định để phát triển. Liên bang Nga có
lợi thế là một cường quốc về năng lượng đứng thứ hai thế giới, chỉ đứng sau A 13


rập Xê - ut, Nga đã thu được nhiều lợi ích trong lĩnh vực năng lượng thông qua
việc xuất khẩu năng lượng để hồi phục nền kinh tế Liên bang Nga.
Trên lĩnh vực kinh tế, bước sang những năm đầu thế kỷ XXI, sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế thế giới mà hạt nhân là Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn
Độ và Liên bang Nga, Braxin, Iran đã phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai xu thế:
Nhất siêu và đa cường. Trước hết, dựa vào tiềm lực kinh tế là một trong những nhà
xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất thế giới, Mỹ đã trở thành động lực của nền kinh
tế thế giới. Hệ thống tài chính của Mỹ có ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế thế giới.
Giờ đây, Mỹ đang nỗ lực nhằm khôi phục vị trí thủ lĩnh của mình trong trật tự thế
giới đơn cực, duy trì vị trí siêu cường về chính trị, quân sự và kinh tế.
Tuy nhiên, nền kinh tế thế giới đang có sự chuyển dịch theo hướng hình
thành cấu trúc thế giới đa trung tâm. Cùng với Mỹ, các trung tâm thế giới mới đang
hình thành, bao gồm: EU, Trung Quốc, Ấn Độ, ngoài ra là Liên bang Nga, Braxin,
Iran, những trung tâm này đang tác động mạnh mẽ với vai trò thống trị của Mỹ
trong nền kinh tế, chính trị thế giới, đồng thời cũng đang cạnh tranh với nhau kịch
kiệt để củng cố vị thế của mình trên trường quốc tế. Theo hướng xuất khẩu trữ
lượng thiên nhiên và nhập khẩu hàng hóa thành phẩm, sự phát triển của Liên bang
Nga liên quan chặt chẽ với EU, Trung Quốc, Nhật Bản. Đặc biệt là những ưu tiên
trong lĩnh vực hợp tác công nghệ quốc phòng và năng lượng nguyên tử với Trung
Quốc và Ấn Độ. Bởi vậy, bước sang thế kỷ XXI, Liên bang Nga phải chú ý đến
chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường liên kết kinh tế với các trung
tâm đã hình thành, đồng thời phải xây dựng cho mình những liên kết mới để vừa
tăng trưởng vừa tạo ra một trung tâm kinh tế mà Nga đóng vai trò là hạt nhân.

Như vậy, những biến động về chính trị và kinh tế thế giới trong những
năm đầu thế kỷ XXI đã tác động sâu sắc tới Liên bang Nga, đòi hỏi Nga cần có
điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hợp lý.
3. V.Putin lên nắm chính quyền, giữ chức Tổng thống và thực hiện đƣờng
lối phát triển kinh tế - xã hội
3.1. V.Putin lên nắm chính quyền và giữ chức Tổng thống.
Trong giai đoạn (1992 - 1999) là giai đoạn cầm quyền của Tổng thống
B.Yeltsin, với những cải cách không phù hợp nên làm cho nền kinh tế ngày càng
lún sâu vào thời kỳ sóng gió, khó khăn nhất của Liên bang Nga, đặc điểm nổi
14


bật của giai đoạn này là trì trệ, khủng hoảng kéo dài đến mức hỗn loạn vừa
mang đặc trưng của giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi kinh tế từ kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường vừa mang những đặc trưng riêng của
Liên bang Nga. Đến ngày 31/12/1999 Tổng thống B.Yeltsin bất ngờ từ chức.
Thủ tướng V.Putin đã trở thành Quyền Tổng thống và chính thức trở thành Tổng
thống với 53% phiếu bầu (26/3/2000). Kết quả này cho thấy nhân dân Nga đặt
rất nhiều kỳ vọng vào ông.
Theo nhận xét của B.Yeltsin thì V.Putin là một con người “bình tĩnh, tự
tin”, “phản ứng cực kỳ nhanh nhạy” và “hoàn toàn thích ứng với mọi việc” [15;
Tr172 - 173]. V.Putin đã được B.Yeltsin tin tưởng bổ nhiệm làm Thủ tướng
tháng 8/1999 và kế nhiệm Quyền Tổng thống theo Hiến pháp Liên bang Nga. Đối
với nhân vật Putin, con đường chính trị, con đường đối với việc đảm nhận chức vụ
Tổng thống của V.Putin không mấy phức tạp. Từ một trung tá KGB (1975 - 1989),
V.Putin trở thành trợ lý các vấn đề quốc tế cho Hiệu trưởng trường Đại học Tổng
hợp Quốc gia Lêningrad (1989), trợ lý Thị trưởng Lêningrad (1990 - 1994), sau đó
làm Phó Thị trưởng Sain Petersbusg (1994 - 1996) và được bổ nhiệm làm Phó
Chánh văn phòng Tổng thống Liên bang Nga (1997 - 1998).
Từ đó, V.Putin được B.Yeltsin chú ý đến và thế là con đường chính trị đã

rộng mở đối với Putin. Ông B.Yeltsin đã bổ nhiệm V.Putin giữ chức Giám đốc
cơ quan Phản gián Liên bang Nga (8/1998), Thư ký hội đồng An ninh Liên bang
Nga (3/1999) rồi Thủ tướng Liên bang Nga. Tổng thống V.Putin với công cuộc
thực hiện cải cách của mình, đã chèo lái con thuyền nước Nga vượt qua bao sóng
gió thăng trầm, đã làm thay đổi hình ảnh của một nước Nga “ảm đạm” trong
thập niên 90 của thế kỷ XX bằng một hình ảnh về nước Nga mới với sự hồi sinh
và trỗi dậy trong thế kỷ XXI.
3.2. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Tổng thống V.Putin và
quá trình thực hiện
* Thứ nhất, về kinh tế. Đường lối cải cách của V.Putin trước hết vẫn
khẳng định tiếp tục công cuộc cải cách kinh tế thị trường mà người tiền nhiệm
B.Yeltsin đã tiến hành, nhưng bước đi và phương pháp tiến hành thận trọng hơn,
15


tăng cường vâi trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, duy trì sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Trong đó ổn định
kinh tế là nhiệm vụ chủ chốt, là việc trọng tâm hàng đầu của đất nước. Vì vậy,
việc tìm tòi mô hình chiến lược phát triển kinh tế phù hợp với Liên bang Nga
trong giai đoạn mới đã trở thành nội dung quan chính trong các cuộc tranh luận.
Đến tháng 4/2000, một chương trình phát triển kinh tế của Chính phủ chính thức
được trình Tổng thống V.Putin với tên gọi “chương trình Gref”. Chương trình
này do một nhóm các nhà khoa học kinh tế Nga soạn thảo. Điểm mấu chốt của
chương trình này là đồng bộ cải cách thể chế và cấu trúc, bao gồm cả chính trị,
trong điều kiện duy trì ổn định kinh tế vĩ mô. Nhưng nội dung quan trọng nhất
cuả chương trình Gref vạch ra là “cải cách thuế và giảm bớt gánh nặng thuế; cải
tổ hệ thống ngân sách quốc gia một cách sâu sắc và triệt để nhằm đảm bảo sử
dụng có hiệu quả tài sản quốc gia một cách sâu sắc và triệt để nhằm đảm bảo sử
dụng có hiệu quả tài sản quốc gia, tăng cường hiệu quả điều tiết kinh tế của Nhà
nước, hoàn thiện cải cách chế độ sở hữu, cải cách ngân hàng, tài chính. Nhận

thấy tính hợp lý của chương trình này, Tổng thống đã ủy quyền thành lập nhóm
công tác soạn thảo chiến lược phát triển dài hạn nền kinh tế của Liên bang Nga.
Sau đó, Tổng thống đã giao nhiệm vụ cho Chính phủ xây dựng chiến lược phát
triển kinh tế của nhà nước đến năm 2010 với giai đoạn 2000 - 2010 với 3 giai
đoạn cụ thể. Với nội dung “chương trình Gref”, Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2000 - 2010 của Chính phủ cũng như các thông điệp Liên bang đều
khẳng định tiếp tục công cuộc cải cách kinh tế thị trường mà cựu Tổng thống
B.Yeltsin đã tiến hành nhưng khác là tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà
nước. Đó là đường lối chú trọng hiệu quả kinh tế - xã hội, cho phép Liên bang
Nga có thể tham gia tích cực vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các nội dung
cải cách kinh tế bao gồm:
Cải cách thuế: Được V.Putin ưu tiên lên hàng đầu, cải cách thuế tốt được
coi là chìa khóa tạo nên điều kiện giúp nền kinh tế Nga phát triển ổn định vì
trong những thập niên 90 cuả thế kỷ XX, cải cách thuế đã được tiến hành nhưng
nội dung chỉ tập trung vào sửa đổi các luật thuế để giải quyết một số vấn đề nhỏ,
16


phù hợp với tình hình trước mắt và về căn bản cơ sở của hệ thống thuế không
thay đổi nhiều. Điều này làm tồn tại nhiều loại thuế chồng chéo với biểu thuế
cao, cản trở các hoạt động kinh doanh của Nga, cùng với kẽ hở pháp luật trong
hoạt động kinh doanh tạo điều kiện cho nền kinh tế ngầm có điều kiện phát
triển. Ngày 23/5/2000, Tổng thống V.Putin gửi thư đến Đuma Quốc gia kêu gọi
nhanh chóng đẩy mạnh cải cách chế đô thuế. Thực hiện quá trình cải cách hệ
thống thuế ở Liên bang Nga giai đoạn 2000 - 2008 đang hướng hình thành một
hệ thống mới ở Liên bang Nga với những đặc điểm nổi bật: Thứ nhất, cải cách
thuế tạo nên hệ thống thuế đơn giản hơn; Thứ hai, cải cách thuế đã làm cho hệ
thống thuế mới bình đẳng hơn; Thứ ba, cải cách thuế đã tạo nên một hệ thống
thuế ổn định hơn. Cải cách hệ thống thuế ở liên bang Nga giai đoạn 2000 - 2004
thực sự mang tính đột phá và tạo hiệu quả kinh tế rõ rệt với một hệ thống thuế

hiệu quả đã dần hình thành giúp cho việc thu thuế trở nên dễ dàng hơn.
Cải cách hệ thống ngân hàng: Sau hàng loạt cải cách của Tổng thống
B.Yeltsin, hệ thống ngân hàng vẫn nhỏ hẹp và kém phát triển. Đến thời kỳ cầm
quyền của V.Putin đã và đang hết sức cố gắng đẩy nhanh tiến trình cải cách
ngân hàng, phát triển hệ thống ngân hàng hai cấp, cải cách mạng lưới các ngân
hàng thương mại theo hướng tăng cường tích tụ và tập trung tư bản, hình thành
những ngân hàng hạt nhân có tiềm lực tài chính lành mạnh, giảm bớt số lượng
ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Nội dung quan trọng của cải cách hệ thống
ngân hàng của Chính phủ Liên bang Nga là hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt
động của hệ thống ngân hàng, tín dụng theo hướng bình đẳng và minh bạch tiến
tới tiêu chuẩn nguyên tắc và thông lệ quốc tế. Một số điều luật ngân hàng được
sửa đổi và bổ sung, trong đó tiêu biểu nhất là Luật Ngân hàng năm 1995 được
sửa đổi. Trên cơ sở các điều luật mới, hệ thống ngân hàng được tổ chức lại mà
trước hết là Ngân hàng Trung ương Nga (CBR).
Về cải cách chế độ sở hữu: Nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh, bình đẳng
và hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp, đưa kinh tế Liên bang Nga hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, Tổng thống V.Putin và Chính phủ đã tiếp tục cải
cách và hoàn thiện chế độ sở hữu với hai nội dung: Tư nhân hóa các lĩnh vực,
17


còn lại trừ một số lĩnh vực then chốt, các hoạt động khai thác, sử dụng uran hay
các lĩnh vực có bí mật quốc gia; tăng cường khả năng hoạt động hiệu quả của
các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực then chốt.
Chính sách kinh tế đối ngoại: Tổng thống V.Putin đề ra 2 mục tiêu cơ bản
của việc cải cách kinh tế đối ngoại năm 2000 đó là: Thích ứng nền kinh tế Liên
bang Nga với hệ thống các quan hệ kinh tế quốc tế; sử dụng quan hệ với các
quốc gia bên ngoài và các tổ chức kinh tế quốc tế để tạo điều kiện đẩy nhanh
quá trình cải cách kinh tế trong nước. Để đạt được các mục tiêu này, Chính phủ
đã tập trung vào 2 nội dung. Thứ nhất, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài. Đây

là nội dung cơ bản trong chính sách kinh tế đối ngoại của chính phủ nhằm tranh
thủ các nguồn lực bên ngoài. Để thu hút đầu tư nước ngoài, Chính phủ Liên
bang Nga đã tiến hành cải cách tạo môi trường pháp lý cho quá trình đầu tư, đặc
biệt Đuma Quốc gia thông qua một số điều luật được sủa đổi và bổ sung như
luật đất đai, luật thuế, luật doanh nghiệp. Ngoài ra chính phủ đã chủ động mở
rộng mức thuế suất nhập khẩu đối với doanh nghiệp ở các vùng của đất nước, hạ
thấp lãi suất tín dụng, ổn định giá cả,.. làm thị trường Nga trở nên hấp dẫn hơn
đối với các nhà đầu tư năng lượng. Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
các nước lớn, Tổng thống V.Putin tiếp tục chỉ đạo Chính phủ của Thủ tướng
M.Kasyanov nỗ lực cải cách trong nước để hội nhập kinh tế quốc tế hướng tới
vịêc gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việc hội nhập kinh tế,
thương mại toàn cầu của kinh tế Liên bang Nga là một yêu cầu tất yếu, là cơ hội
để thúc đẩy sự phát triển kinh tế Liên bang Nga phù hợp với xu thế toàn cầu hóa
kinh tế của đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
* Thứ 2, quá trình giải quyết các vấn đề xã hội. Tổng thống V.Putin đã đặt cải
cách trong nước lên vị trí hàng đầu và đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu xã hội. Do
hàng loạt các vấn đề xã hội, hậu quả của đường lối phát triển kinh tế - xã hội mà
vị Tổng thống tiền nhiệm để lại, nên V.Putin nhận thức rõ thực tế xã hội Liên
bang Nga, từ đó yêu cầu Chính phủ tập trung và có các chính sách an sinh xã hội
và an ninh phù hợp:

18


Cải cách chế độ tiền lương, y tế và nhà ở. Cải cách này được Tổng thống
và chính phủ coi là “chính sách xã hội thực tiễn”, vì là “biện pháp kích thích
phát triển, giải phóng tiềm năng con người, làm con người trở nên có trách
nhiệm đối với mình, đối với hạnh phúc của người thân”. Do những hệ quả để lại
của những năm 90 của thế kỷ XX, chính phủ Liên bang Nga trong thời gian từ
2000 - 2004, cùng với cải cách kinh tế - xã hội đã tập trung vào cải cách hệ

thống tiền lương với 3 lần điều chỉnh lớn vào các năm 2000, 2001, 2003. Theo
đó, tăng mức lương của người lao động và người nghỉ hưu cho phù hợp với thực
tế theo nguyên tắc đảm bảo điều kiện kinh tế ở một mức độ phù hợp nhất đinh
cho các đối tượng này. Cải cách hệ thống tiền lương diễn ra thuận lợi bởi dự
tăng trưởng và kết quả khả quan của nền kinh tế. Vì vậy, tình trạng nợ lương của
Chính phủ đối với người lao động đã được chấm dứt, mức lương có thể đảm bảo
mức sống trung bình của người lao động. Bên cạnh chính sách cải cách tiền
lương, xuất phát từ thực tế chỉ số sức khoẻ của nhân dân đang giảm sút mạnh do
chính sách y tế chưa mấy hiệu quả ở thập niên 90, sau khi lên nắm quyền điều
hành đất nước, Tổng thống V.Putin xem đây là ưu tiên trong chính sách xã hội.
Trong kế hoạch phát triển xã hội, một định hướng ưu tiên là phải đảm bảo
cho mọi người dân được khám chữa bệnh miễn phí, được hưởng dịch vụ sử
dụng kỹ thuật cao trên nguyên tắc bảo hiểm y tế bắt buộc. Bên cạnh đó khuyến
khích loại hình bảo hiểm tự nguỵên. Vấn đề nhà ở xuất hiện cùng với những
thay đổi chính sách xã hội của Chính phủ mà xu hướng trợ cấp giảm dần song
việc xây dựng, kinh doanh nhà ở công cộng vẫn thuộc độc quyền của một số xí
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, cho nên đã “không tạo ra cho các công dân cơ
hội lựa chọn trên thị trường và cơ hội nhà ở cần thiết”. Đầu năm 2004, Chính
phủ đã triển khai kế hoạch giải quyết vấn đề nhà ở đang đặt ra gay gắt trong đại
đa số nhân dân Nga. Nội dung cụ thể là: Xây dựng cơ chế tài chính cho phép cải
thiện điều kiện nhà ở của những người thu nhập trung bình không chỉ bằng
lương hàng tháng và tiền gửi tiết kiệm mà cả bằng thu nhập tương lai; xây dựng
quỹ tín dụng cho người thu nhập trung bình, thấp vay để mua nhà và hoàn trả
bằng phương thức trả góp; để giảm thời gian và thành xây dựng, Chính phủ đưa
19


ra những quy định hành chính rõ ràng; đảm bảo tính pháp lý quyền sở hữu cho
người mua nhà ở; nguyên tắc cơ bản của kế hoạch này là đảm bảo thực hiện
đúng đối tượng những người thu nhập trung bình và thấp có nhu cầu nhà ở.

Chính sách giáo dục: Nhà nước tạo điều kiện để mọi công dân đều có khả
năng đến trường học; đảm bảo chất lượng giáo dục, đào tạo lại tất cả các cấp học
thuộc các loại hình đào tạo do Nhà nước hoặc tư nhân tổ chức; nâng cao hiệu
quả kinh tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Chính sách giáo dục tư tưởng: Được sự ủng hộ của Đuma Quốc gia, theo
đề nghị của Tổng thống V.Putin thì các cơ quan thuộc Chính phủ đã tiến hành
xây dựng chương trình “Giaó dục chủ nghĩa yêu nước cho công dân Liên bang
Nga giai đoạn 2001 - 2005”. Đây là chương trình mang quy chế quốc gia, đối
tượng là mọi tầng lớp xã hội và mọi lứa tuổi công dân Liên bang Nga, chính
thức được Chính phủ phê chuẩn ngày 16/2/2001. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ của
chương trình vạch ra là: Xây dựng cơ chế đảm bảo thiết lập và hoạt động có hiệu
quả hệ thống giáo dục tinh thần yêu nước tại các chủ thể Liên bang; xây dựng
tình cảm và ý thức yêu nước của công dân; giáo dục nhân cách nguời công dân
yêu Tổ quốc, có khả năng tham gia vào việc bảo vệ lợi ích của quốc gia; xây
dựng đồng bộ công tác đảm bảo các tiêu chuẩn pháp lý và tổ chức phương pháp
cho hoạt động của hệ thống giáo dục tinh thần yêu nước. Theo kế hoạch chương
trình được thực hiện trong 5 năm (2001 - 2005) với 2 giai đoạn. Biện pháp để
thực hiện giáo dục tinh thần yêu nước đã được áp dụng là: Tuyên truyền chủ
nghĩa yêu nước trên các phương diện thông tin đại chúng, phối hợp hoạt động
của các hiệp hội và tổ chức xã hội. Đến đầu năm 2004, chương trình này đã
được thực hiện hơn một nửa chặng đường và thực sự có ý nghĩa thiết thực đói
với việc giáo dục, ý thức, tinh thần yêu nước của các công dân Liên bang Nga.
Chính sách khoa học: Ở thập niên 90 của thế kỷ XX, hiện tượng chảy máu
chất xám là hiện tượng nổi bật trong sự phát triển khoa học ở Liên bang Nga. Để
khắc phục hậu quả này, Chính phủ đã tăng đầu tư ngân sách cho khao học, thúc
đẩy hợp tác khoa học với nước ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học và giáo
dục đồng thời chú trọng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ các ngành khoa học trẻ.
20



Chính sách đối với chủ nghĩa ly khai Chesnia: Vấn đề này trở thành điểm
nóng xã hội. Trong thời gian 2001 - 2002, Liên bang Nga đã tập trung lực lượng
quân đội tiếp tục tấn công lực lượng khủng bố ly khai và kết thúc cuộc chiến ở
Chesnia, buộc chính quyền Chesnia phải chấp nhận những giải pháp chính trị
của chính quyền Liên bang.
Bên cạnh đó, chính quyền liên bang nga rất chú trọng đến việc khôi phục,
phát triển kinh tế - xã hội ở Chesnia. Thông điệp Liên bang năm 2002, Tổng
thống V.Putin cho rằng “Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn hiện nay là đưa
Chesnia trở lại không gian chính trị - pháp luật của Liên bang Nga, đó là việc
xây sựng lại ở Chesnia những cơ quan pháp luật và những cơ cấu sức mạnh có
năng lực hoạt động và trong tương lai sẽ tiến hành ở đó cuộc bầu cử tự do, thiết
lập một hệ thống chính quyền hoàn chỉnh của nước cộng hoà và một đời sống
kinh tế của nhân dân Chesnia” [9; Tr 183]. Đến đầu năm 2004, công cuộc khôi
phục Chesnia có những tiến triển tốt đẹp. Các hoạt động kinh tế đã trở lại bình
thường với hệ thống ống dẫn dầu, công nghiệp hóa khai thác được khôi phục.
Tuy nhiên, các lực lượng ly khai, hồi giáo cực đoan vẫn chưa bị tiêu diệt tận gốc
nên những họat động khủng bố vẫn còn tiếp diễn. Trước tình hình đó, ban lãnh
đạo Liên bang vẫn nhất quán sử dụng biện pháp cứng rắn nhằm tiêu diệt chủ
nghĩa ly khai, chủ nghĩa khủng bố trên toàn lãnh thổ Liên bang Nga. Tóm lại,
trong giai đoạn 2000 - 2008, Tổng thống V.Putin và chính phủ Liên bang
Nga sử dụng cả biện pháp cứng rắn lẫn biện pháp hòa giải, vừa dùng quân
sự vừa dùng giải pháp chính trị để giải quyết tình hình bất ổn định bởi chủ
nghĩa ly khai, chủ nghĩa khủng bố ở Chesnia.

21


×