Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

sự quá tải của bệnh viện tuyến trên ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.37 KB, 15 trang )

I. Tên đề tài: Sự quá tải của bệnh viện tuyến trên ở Việt Nam hiện nay.
II. Lí do nghiên cứu
Trong sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, xã hội của Việt Nam hiện
nay, nhu cầu dịch vụ xã hội ngày càng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực sức khỏe,
khám và chữa bệnh. Trong khi đó, chỉ có một vài bệnh viện tuyến trên tập trung ở
những thành phố lớn mới có khả năng để giải quyết phần lớn nhu cầu này. Chính
vấn đề đó, đã dẫn đến sự quá tải ở những bệnh viện tuyến trên của Việt Nam hiện
nay.
Có lẽ, đã đến lúc chúng ta nên đi tìm đâu là nguyên nhân dẫn đến sự quá tải
này, đó không còn là vấn đề riêng của ngành y tế mà đó là câu hỏi đặt ra với cả
xã hội, để từ đó tìm hướng giải quyết, lên những phương án có tính bền vững
lâu dài, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu khám chữa bệnh của mọi tầng lớp
trong xã hội.
Chúng ta có thể thấy rõ những bất cập mà ngành y tế đang đối mặt, đó là:
- Sự mất cân đối trong nhu cầu khám chữa bệnh giữa bệnh viện tuyến trung
ương và ở các địa phương của những người dân ở các tỉnh.
- Các bệnh viện không có khả năng giải quyết nhu cầu tăng đột biến khi xảy ra
các dịch bệnh như sởi, sốt rét...
Xuất phát từ những vấn đề đã nêu trên, đã gợi lên cho người viết ý tưởng lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “ Sự quá tải của bệnh viện tuyến trên ở Việt Nam hiện nay”
với mong muốn sẽ góp phần lí giải nhiều vấn đề cả về nguyên nhân cũng như tìm
các phương án tối ưu để giải quyết những bất cập trong sự quá tải mà ngành y tế và
xã hội đang đối mặt.

III. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
III.1 Khái niệm
1.

Quá tải ở bệnh viện:
- Bệnh viện phải tổ chức tiếp nhận bệnh nhân, làm thủ tục từ 4 giờ sang.
- Tình cảnh bệnh nhân ngồi bệt, lê la dưới đất, tràn ra hết cả lối đi.


- Tình trạng 2-3 bệnh nhân nằm một giường bệnh
- Bệnh nhân phải nằm ở lan can để điều trị.
- vv


Tất cả những biểu hiện trên và còn nhiều biểu hiện khác là biểu hiện của sự
quá tải bẹnh viện.
2. Quá tải ở bệnh viện trung ương tuyến trên ở Việt Nam
Tình trạng quá tải đa số là ở các bệnh viện trung ương hay bệnh viện tuyến
trên ( bệnh viện tuyến cuối ).
III.2 Nguyên nhân dẫn đến tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên
Đặt câu hỏi:
1.Có phải do nhu cầu của người dân tăng trong khi chỉ tiêu giường bệnh
thấp và tăng không tương ứng với nhu cầu khám chữa bệnh?
2. Có phải do các bệnh viện tuyến dưới làm mất lòng tin của dân nên dân
phải vượt tuyến ?
3. Phải chăng do chính sách tự chủ tài chính và xã hội hóa dẫn tới các BV
tăng cường các hoạt động liên doanh liên kết trong đầu tư cung ứng dịch vụ
(chủ yếu là trang thiết bị y tế kỹ thuật cao) làm tăng tính đa dạng trong cung
ứng dịch vụ để hấp dẫn bệnh nhân ?
4. Chính sách giá viện phí và bảo hiểm y tế (BHYT) trong đó giá và cơ chế
chi trả không phù hợp, không khuyến khích người bệnh có BHYT sử dụng
dịch vụ ở các cơ sở y tế tuyến dưới có là nguyên nhân ?
5. Các đợt dịch bệnh làm số bệnh nhân tăng vọt có phải nguyên nhân ?
6. Có phải do chất lượng thuốc ở bệnh viện tuyến trên chất lượng hơn nên
người dân muốn vượt tuyến?
7. Xã hội phát triển, các căn bệnh nặng về gan, phổi ngày càng nhiều mà
các bệnh viện tuyến dưới không thể giải quyết nên người dân buộc phải lên
tuyến trên có là nguyên nhân ?
8. Phải chăng do lượng tai nạn giao thông tăng nên bệnh viện bị quá tải?

9. Phải chăng chi phí đầu tư cho ngành y còn chưa đáp ứng được nhu cầu
của người dân ?
III.3 Các đề tài, bài báo đã nghiên cứu, tồn tại:
Bài “NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG QUÁ TẢI, DƯỚI TẢI CỦA HỆ THỐNG
BỆNH VIỆN CÁC TUYẾN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC”
của Viện chiến lược và chính sách y tế nghiên cứu vào ngày 12/07/2013
.Tổ chức cũng đã nghiên cứu vẫn đề cấp thiết này , đã nêu nguyên nhân,
phương pháp nghiên cứu , nêu tác động đến xã hội và đưa ra những kiến
nghị. Nhưng vẫn chưa tìm hiểu hết được các nguyên nhân dẫn đến tình trạng
quá tải, đưa ra được các giải pháp thực tế và triệt để nhưng một thời gian


tình trạng quá tải vẫn chưa thuyên giảm nhiều, giải quyết mang tính tạm
thời.
Tổ chức đã nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng kết hợp phương pháp
định lượng và định tính
Thời gian thực hiện từ năm 2008- 2009
Số liệu được tổng hợp, làm sạch và phân tích bằng phần mềm Stata 10.
III.4 Nghiên cứu sâu hơn vấn đề quá tải ở bệnh viện tuyến trên
Bài nghiên cứu trên đây sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các tổ
chức và cá nhân đã nghiên cứu đồng thời tiếp tục tìm hiểu thêm nhiều
nguyên nhân và giải pháp triệt để và thực tế hơn.
-

-

IV.

Vẫn sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng kết hợp
phương pháp định lượng và định tính. Đồng thời sử dụng phương pháp

phỏng vấn kết hợp chuyên gia
Đối tượng phỏng vấn: Người dân, bác sĩ, đại diện cơ quan thống kê, v v

Định vị và tổng quan các thông tin, nguồn dữ liệu phục vụ trong quá
trình nghiên cứu:
+ Các trang báo mạng, báo giấy
+ Các tài liệu tham khảo trong thư viện của các trường mà hầu hết là trong
thư viện của các trường đại học y dược.
+ Tìm số liệu ở Tổng cục thống kê trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và các số liệu ở các bệnh viện tuyến trên và các bệnh viện tư nhân
xung quanh khu vực nghiên cứu, tìm nhiều dạng bệnh viện như đa
khoa, chuyên khoa ,vv, cổng thông tin điện tử thuộc tỉnh mà ta nghiên
cứu. Tìm thông tin sơ cấp về lý do vượt tuyến, nhu cầu và nguyện vọng
của người dân thông qua phỏng vấn hoặc bảng hỏi.
Bảng hỏi thiết kế không quá dài, ngôn ngữ chính xác dễ hiểu kết hợp các
câu hỏi đóng như thang đo Likert, câu hỏi mở để biết tâm tư nguyện
vọng của họ.
Đánh giá các nguồn thông tin dữ liệu thứ cấp thu được và thông tin sơ cấp
thu được khi qua xử lý.
Mục tiêu của nghiên cứu
1. Đánh giá được tình trạng quá tải và dưới tải ở bệnh viện các tuyến.
2. Xác định các nguyên nhân gây quá tải, dưới tải ở bệnh viện các tuyến.


V.

3. Tìm hiểu và phân tích bài học kinh nghiệm từ các mô hình, giải pháp
hạn chế quá tải ở một số bệnh viện hiện nay.
4. Đề xuất các giải pháp ngắn hạn, dài hạn nhằm hạn chế từng bước tình
trạng quá tải và nâng cao hiệu quả hoạt động của bệnh viện các tuyến.

Phương pháp nghiên cứu
Vẫn là nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng kết hợp phương pháp định
lượng và định tính, các chỉ số về TLSD giường, số bệnh nhân/bác
sỹ/ngày, tỉ lệ bệnh nhân vượt tuyến, tỉ lệ bệnh nhân khám chữa bệnh
(KCB), mặt bệnh không hợp lý ở tuyến trên là những chỉ số định lượng
chính được sử dụng để đánh giá và phân tích tình trạng quá tải và một số
nguyên nhân liên quan . Các thông tin định tính liên quan tới tác động của
một số chính sách hiện hành cũng được phân tích để phát hiện một số
nguyên nhân liên quan.
Đồng thời kết hợp phương pháp phỏng vấn và chuyên gia, phỏng vấn
trực tiếp đa số người dân, bệnh nhân đến khám tại các bệnh viện, bệnh
nhân ở phòng khám, bệnh án nội trú được rút ngẫu nhiên để tìm hiểu về lý
do sử dụng dịch vụ y tế và nguyên nhân vượt tuyến và đánh giá của cán
bộ chuyên môn về sự hợp lý trong tìm kiếm dịch vụ y tế của bệnh nhân.
Phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm với các nhà quản lý y tế địa phương bao
gồm các lãnh đạo sở Y tế và các phòng ban có liên quan, Lãnh đạo cơ sở
khám chữa bệnh các tuyến và các nhân viên y tế làm việc trực tiếp tại các
khoa đông bệnh nhân, xin lời khuyên của các chuyên gia trong ngành y tế
về các giải pháp đẫ thực hiện nhưng chưa đạt hiệu quả cao.
Phương pháp phân tích – tổng hợp để tổng hợp phân tích các dữ liệu
liên quan thu thập được trong quá trình nghiên cứu. Thời gian thực hiện
từ năm 2014- 2016.. Dự định nghiên cứu điều tra thực tế tại 3 miền trên
toàn quốc với ương, 10 BV tuyến tỉnh bao gồm cả BV đa khoa và
chuyên khoa, 12 27 BV bao gồm 5 BV tuyến trung BV tuyến huyện ở 6
tỉnh/thành phố. Nghiên cứu sử dụng các số liệu sẵn có cấp quốc gia về
tình hình sử dụng giường bệnh trong các cơ sở y tế và sử dụng dịch vụ y
tế của người dân từ nguồn số liệu báo cáo kiểm tra bệnh viện và điều tra
mức sống dân cư hàng năm. Tiêu chí đánh giá quá tải bệnh viện dựa vào
chỉ số tỉ lệ sử dụng giường và số lượng bệnh nhân mà 1 bác sỹ khám/ngày
trong đó tỉ lệ sử dụng (TLSD) giường > 85% được coi là quá tải và < 65%



là dưới tải.
Số liệu được tổng hợp, làm sạch và phân tích bằng phần mềm eviews
8.
VI. Ý nghĩa lí luận của đề tài:
Đề tài được nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ thực trạng về vấn đề đã
nêu trên dưới một góc nhìn khoa học, khách quan nhất có thể trên cơ sở là
sự tiếp thu những ý kiến của những người đứng đầu ngành y tế, cũng như
những ý kiến của dư luận để rồi tổng hợp nên 1cái nhìn trực để phân tích
cái gốc rễ của sự quá tải đó và hướng giải quyết.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi “ đâu là
nguyên nhân và giải pháp cho hướng đi của sự mất cân đối của bệnh viện
tuyến trên?”.
Đồng thời , những giải pháp đưa ra có thể góp ý cho ngành y tế cũng như
xã hội có thêm hướng giải quyết vấn đề trên. Đây còn là luận cứ khoa học
cho những ai tham khảo và có ý định viết những đề tài nghiên cứu khoa
học sau đó về vấn đề này ở Việt Nam .
VI.
Kết cấu nội dung
A. Nội dung nghiên cứu:
1.Nhu cầu của khám bệnh của người dân
+Cần những lương y giỏi, nhiệt tình.
+ Chữa bệnh bằng một tâm lý thoải mái ở nơi mà mình tin tưởng.
+ Muốn sử dụng thẻ bảo hiểm y tế một cách tiện lợi và hiệu quả
+ Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh
+ Tâm lý người bệnh thích bệnh viện công lập, không nghèo vẫn thích chỗ
rẻ hơn.…vv…
2.Thiếu bệnh viện

Sau khi báo chí đưa tin tình trạng quá tải bệnh viện với những hình ảnh sinh động
của thân nhân và bệnh nhân chen chúc trong các bệnh viện đã gây một làn sóng
phản hồi rộng lớn của dư luận, đa số đều cho rằng số lượng bệnh viện không đủ do
phân phối tỏ ra bất cập đối với giường bệnh trên mỗi đầu người.


Người bệnh phải nằm điều trị ngoài hành lang ở bệnh viện Chợ Rẫy
Dư luận trong dân chúng thì lại đặt vấn đề với những dự án mà nhà nước hỗ trợ
hay chấp thuận hướng về lợi nhuận trước mắt cho kinh tế mà không quan tâm đúng
mức tới lợi ích của người dân. Một sự thật được báo chí lên tiếng trong nhiều ngày
qua là thành phố đã không phê duyệt cho dự án xây dựng bệnh viện trong khi luôn
khuyến khích cho các dự án chung cư cao cấp và nhà cao tầng.
Quỹ đất của thành phố Hà Nội và Sài Gòn được dành riêng cho những sân golf to
lớn, các khu nghỉ dưỡng cao cấp. Các kế hoạch phát triển nhà ở cho giới giàu có đã
và đang chia nhau tất cả các lợi nhuận mà lẽ ra trong đó người dân phải có một
phần.
Tuy nhiên còn một lý do khác nữa khiến các giới chức trách nhiệm phải xem xét
lại, đó là bên cạnh bệnh viện quá tải còn rất nhiều bệnh viện không có bệnh nhân
đang hiện hữu tại các vùng ven thành phố và một ít bệnh viện trong nội ô. Con số
những bệnh viện có quá ít bệnh nhân này không hề nhỏ, nó chiếm hơn 40% số
bệnh viện hiện có đang là câu hỏi hóc búa cho giới chức y tế thành phố.
Bệnh viện quận Gò Vấp, Bệnh viện huyện Nhà Bè đang là điển hình cho tình trạng
thiếu bệnh nhân hiện nay.


Bệnh viện Gò Vấp đang bị khiếu nại làm mù mắt bệnh nhân
vì đưa bác sĩ từ bên ngoài vào mổ mắt cho dân
Đó là trường hợp cụ Nhân, 85 tuổi, ngụ tại P.10. Q.Gò Vấp, TP. HCM. Bà Nguyễn
Thị Liễu, con gái cụ cho biết, đầu tháng 12.2011, cụ Nhân đến Bệnh viện (BV) Gò
Vấp khám do mắt bên phải bị mờ. Tại đây, BS chẩn đoán mắt cụ bị đục thủy tinh

thể và chỉ định mổ phaco. BS mổ được giới thiệu là của BV Mắt TP.HCM. Cụ
Nhân có thẻ bảo hiểm y tế nhưng phải đóng thêm 1,8 triệu đồng. Thế nhưng sau
khi mổ, mắt cụ Nhân bị mù hoàn toàn. Gia đình đưa cụ đến BV Gò Vấp tái khám
nhiều lần rồi sau đó phải lên BV Mắt TP.HCM điều trị tiếp nhưng BS xác định mắt
cụ không thể phục hồi được nữa. “Trước đây con mắt còn lại của bố tôi tuy có mờ
nhưng vẫn còn nhìn thấy, nhưng mổ xong ông cụ bị mù hẳn, lại đau nhức thường
xuyên nữa, thật là khổ!” - bà Liễu xót xa. Tương tự, cụ Hy, 79 tuổi, ngụ P.6, Q.Gò
Vấp cũng bị mù mắt bên phải sau khi mổ tại BV Gò Vấp. Cụ cho biết: “Gần tết
vừa rồi tui tới BV Gò Vấp khám, nghe ở đây nói có BS ở BV Mắt TP.HCM về mổ
nên rất yên tâm. Ai dè sau khi mổ xong, mắt tui bị mờ luôn”.
Theo người nhà cụ Nhân và cụ Hy, BS mổ mắt cho các cụ tên là H.T.S, được BV
Gò Vấp giới thiệu là người của BV Mắt TP.HCM có chuyên môn cao nên ai cũng
tin tưởng.
Trao đổi với Thanh Niên, BS Phí Duy Tiến - Phó giám đốc BV Mắt TP.HCM cho
biết, việc chuyển giao kỹ thuật mổ phaco từ BV Mắt đến các BV quận huyện trong
TP là nhiệm vụ chỉ đạo tuyến. Riêng BV Gò Vấp thì từ vài tháng nay BV Mắt


không cử BS nào về đây để mổ phaco, đặc biệt ở BV Mắt không có BS nào tên là
H.T.S như phản ánh. BS Tiến cho biết thêm: “Theo tôi biết, BS H.T.S hiện đang
làm việc tại một BV ở tỉnh Bình Định do lãnh đạo BV Gò Vấp mời hợp tác mổ mắt
cho người bệnh”. Hiện nay, gia đình các bệnh nhân đang gửi đơn khiếu nại đến các
cơ quan thẩm quyền đề nghị làm rõ sự việc trên.
Như Thanh Niên đã thông tin, ngày 20.2.2012 UBND Q.Gò Vấp đã công bố quyết
định thanh tra tại BV Gò Vấp. Đặc biệt, việc thanh tra này cũng yêu cầu làm rõ nội
dung các đơn thư của nhiều cán bộ, nhân viên đang công tác tại đây phản ánh
những việc làm thiếu minh bạch, mất dân chủ, đe dọa người khiếu nại tố cáo của
giám đốc BV.

“Vấn đề căn bản là bệnh nhân thì đông quá mà bệnh viện ít quá nên

bắt buộc phải tăng số lương bệnh viện lên ở tất cả các cấp.”
GS Nguyễn Đình Dương
Câu hỏi đặt ra tại sao bệnh viện tuyến dưới không chữa trị cho bệnh nhân khiến
dẫn đến tình trạng quá tải cho các bệnh viện lớn của thành phố? Phải chăng do
thiếu trang thiết bị y tế khiến bác sĩ dù có giỏi cách mấy cũng phải bó tay? Giáo sư
Nguyễn Đình Dương, chuyên gia xét nghiệm DNA cho biết kinh nghiệm của ông
về câu hỏi này:
"Số lượng bác sĩ được đào tạo ra bây giờ không phải là ít, có điều chất lượng phải
nâng cao lên. Mà chất lượng nâng cao thì phải bồi dưỡng cho họ về kinh phí và
kinh tế họ phải đủ sống để làm việc.
Thật ra hiện nay ở các địa phương lớn như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã
có rất nhiều trang thiết bị tốt bởi bản thân tôi cũng là bệnh nhân vì tôi đã được đi
khám ở bệnh viện nên tôi thấy các trang thiết bị mấy năm gần đây khi nhập về là
khá tốt. Vấn đề căn bản là bệnh nhân thì đông quá mà bệnh viện ít quá nên bắt
buộc phải tăng số lương bệnh viện lên ở tất cả các cấp."
Bệnh viện tư tăng gấp 4 lần nhưng vẫn thiếu bệnh nhân
Đầu tư vốn lớn, xây dựng cơ sở khang trang nhưng nhiều bệnh viện tư đang chết
yểu hoặc có nguy cơ phá sản vì thiếu vắng bệnh nhân. Trong khi tại cơ sở y tế công
lập, người bệnh chen chúc nhau xếp hàng, nằm ghép 2-3 người một giường bệnh.
Ngày 14/3 tại Hà Nội, Bộ Y tế tổ chức hội nghị nhằm tìm biện pháp san sẻ bớt
bệnh nhân giữa bệnh viện Nhà nước và tư nhân với sự tham gia của gần 40 cơ sở
tư phía Bắc.
Theo báo cáo của Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế), trong 10 năm qua số
lượng bệnh viện tư nhân tăng hơn 4 lần, từ 40 lên 170 bệnh viện. Dù vậy, tỷ lệ


bệnh nhân đến khám tại các cơ sở này rất thấp, chiếm chưa đến 10% tổng số bệnh
nhân đến điều trị nội, ngoại trú hàng năm của cả nước. Công suất sử dụng giường
bệnh luôn ở mức dưới tải, chỉ khoảng 40-60%.
Ngược lại, nhiều bệnh viện công đang trong tình trạng quá tải trầm trọng, công suất

sử dụng giường bệnh luôn ở mức 90 - 110%. Bệnh nhân thường phải nằm ghép 3-4
người một giường, thậm chí có nơi 7-8 người.

Một phòng có 4 giường nhưng gần 10 bệnh nhân nằm điều trị là bức tranh thường
thấy tại nhiều cơ sở y tế công lập.
Ông Nguyễn Văn Đệ, Chủ tịch Hội hành nghề y tư nhân Thanh Hóa thừa nhận:
“Tình hình tại các bệnh viện tư đang rất gay nếu không giải quyết. Trong 170 cơ sở
thì có đến một nửa đã chết hoặc ngắc ngoải. Thanh Hóa có 7 bệnh viện tư nhưng
tới nay chỉ Hợp Lực là còn hoạt động tốt, còn lại đều trong tình trạng khó khăn, có
cơ sở sắp vỡ nợ nhưng chưa dám công bố”.
Theo ông, bệnh viện công quá tải đã rõ nhưng vấn đề cơ sở y tế công lập có thực
sự muốn giảm tải. Tình trạng này có thể được cải thiện nếu bệnh viện công chuyển
người bệnh sang viện tư. Dù vậy, không phải cơ sở nào cũng muốn chuyển bệnh
nhân đi vì liên quan đến quyền lợi, nguồn thu của họ.
Ông đề nghị Bộ Y tế nên có biện pháp hành chính để bệnh viện công san sẻ người
bệnh sang viện tư...
Về vấn đề này, ông Nguyễn Quốc Anh, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai thẳng thắn
thừa nhận không tin tưởng vào y tế tư nhân.


“Chúng tôi có thể chuyển bệnh nhân của mình sang bệnh viện công khác, thậm chí
chuyển về tuyến dưới nhưng không bao giờ chuyển sang bệnh viện tư - trừ một
bệnh viện trên địa bàn Hà Nội là nơi đã được đầu tư bài bản và hai bên có thỏa
thuận hợp tác. Thực tế, có chuyển cũng chỉ là người bệnh ngoại quốc”, ông Quốc
Anh nói.
Theo ông, bệnh viện muốn đông thì phải lấy được niềm tin của bệnh nhân. Ngay
tại Hà Nội, nhiều bệnh viện công cũng vắng người, ngược lại có nơi 3-4 người nằm
một giường bệnh nhân vẫn vào. Lý do là vì vào bệnh viện, sinh mạng là số một,
điều kiện ăn ở sinh hoạt cũng quan trọng nhưng chỉ là phụ. Không thể dùng mệnh
lệnh hành chính mà giải quyết được.

Một đại biểu tại Nghệ An thậm chí khẳng định phối hợp công-tư tại bệnh viện tỉnh
không bao giờ diễn ra vì vấn đề tăng thu nhập.
Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho rằng, tâm lý người bệnh thích bệnh
viện công lập, không nghèo vẫn thích chỗ rẻ hơn. Trong khi cơ sở y tế tư nhân,
đội ngũ thầy thuốc có tên tuổi không nhiều, đặc biệt tuyến tỉnh, muốn gây
được thương hiệu phải có thời gian; giá dịch vụ cao hơn.
Theo Bộ trưởng, công lập có nhiều lợi thế hơn, nhưng phải tự hoạch toán; giá
dịch vụ y tế mới tính 3/7 yếu tố nên cực kỳ khó khăn. Trước năm 2018, ngành
y tế sẽ tiến tới tính đúng đủ giá dịch vụ y tế. Một số bệnh viện trực thuộc Bộ sẽ
thí điểm khung giá mới này để tạo cạnh tranh bình đẳng, bệnh viện công không
điều chỉnh thái độ thì người bệnh sẽ chạy sang tư nhân.
Trước mắt, Bộ trưởng đề nghị các cơ sở nâng cao uy tín bằng cách đầu tư cơ sở vật
chất, trang thiết bị và tìm cách thu hút thầy thuốc giỏi. Bộ sẽ xem xét để các bệnh
viện công lập đầu ngành chuyển giao kỹ thuật cho cơ sở tư nhân.
Vậy vấn đề ở đây đó chính là sự tin tưởng của người bệnh đối với bệnh viện
mà họ đi khám bệnh. Họ rất quan tâm đến chất lượng khám, điều trị của những
bác sĩ tên tuổi mà họ tin tưởngđể có thể sớm hồi phục và không bị những di chứng
tai hại khác. Đặc biệt là giá khám, chữa bệnh quá cao khi đi khám ở những
bệnh viện tư nhân – điều mà bất kì người bệnh nào cũng rất lo ngại trong khi
đó giá khám bệnh ở bệnh viện công lại rẻ vì vậy mà mặc dù số lượng bệnh
viện tư nhân tăng lên đáng kể nhưng vẫn không thể thu hút bệnh nhân đến
khám chữa bệnh tại bệnh viện của mình
Khám trái tuyến có thể sẽ không được bảo hiểm thanh toán


Người bệnh đi khám trái tuyến sẽ chỉ được bảo hiểm y tế thanh toán tối đa 30% chi
phí, thậm chí có thể sẽ không được chi trả. Đây là nội dung đề xuất mới của Bộ Y
tế.
Cụ thể, mức hưởng bảo hiểm y tế đối với người khám, chữa bệnh trái tuyến, vượt
tuyến được đề xuất thay đổi theo hai phương án.

Phương án thứ nhất là quỹ bảo hiểm thanh toán theo tỷ lệ % cả với trường hợp điều
trị nội trú và ngoại trú..

Người có thẻ bảo hiểm y tế đi khám trái tuyến có thể sẽ không
được hưởng quyền lợi như hiện nay.
Phương án thứ 2 là quỹ bảo hiểm chỉ thanh toán theo tỷ lệ % với người điều trị nội
trú. Tỷ lệ tương ứng như phương án 1.
Mức hưởng này thấp hơn so với quy định hiện nay. Cụ thể, hiện nay khi đi
khám, chữa trái tuyến, người bệnh sẽ được chi trả ở các mức 30, 50 và 70% chi phí
tùy theo loại bệnh viện.
Nội dung sửa đổi nói trên được đưa ra trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật bảo hiểm y tế, đang được Bộ Y tế đưa ra lấy ý kiến.


Ngoài ra, cũng theo dự thảo, một điểm mới được đưa ra là bệnh nhân sẽ được bảo
hiểm thanh toán 100% chi phí đối với trường hợp số tiền mà họ đã cùng chi trả
trong năm lớn hơn 12 tháng lương cơ bản (trừ người khám, chữa vượt tuyến, trái
tuyến và sử dụng thuốc ngoài danh mục). Dự thảo này cũng đề xuất nâng mức
đóng bảo hiểm lên 6% lương cơ bản thay vì 4,5% như hiện nay.
Luật bảo hiểm y tế có hiệu lực từ ngày 1/7/2009. Theo đó, khi đi khám, chữa trái
tuyến người bệnh vẫn được bảo hiểm thanh toán. Đây là là một quy định mở nhằm
đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ, tuy nhiên lại là một trong những nguyên nhân
dẫn đến việc người dân vượt tuyến, gây dồn ứ lên bệnh viện tuyến trên.
Phát triển không đồng bộ
Lầm lẫn về y khoa không phải là chuyện mới trên thế giới nhưng tại Việt Nam, lầm
lẫn theo kiểu này lại xảy ra thường xuyên và chưa thấy một bác sĩ nào bị tịch thu
bằng hành nghề hay có biện pháp thích hợp từ cấp thẩm quyền. Hiện tượng này
khiến người dân có phản ứng tự vệ bằng cách không vào bệnh viện tuyến dưới khi
gặp các trường hợp nguy hiểm.
Vấn đề đào tạo chuyên gia vận hành các trang thiết bị y tế hiện đại cũng là khâu

ách tắc. Tháng 5 vừa qua Bộ Y tế đã triển khai Đề án 1816, đây là đề án cử cán bộ
chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới
để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, trong đó có việc huấn luyện vận hành
máy móc y khoa. Tuy nhiên chỉ trong vài tháng thì những bất cập đã lộ rõ vì các
bác sĩ giỏi được gửi xuống các bệnh viện cấp tỉnh không thể thực hiện công tác
giảng dạy và chia sẻ kinh nghiệm qua cách gọi thời thượng là “chuyển giao công
nghệ” PGS/BS Lê Chí Dũng thuộc bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TPHCM cho
biết:

“Đào tạo thì phải liên tục và lâu dài, phải tạo điều kiện cho bệnh viện
tỉnh họ có đầy đủ các phương tiện để làm việc. Tôi nghĩ việc đào tạo
phải đồng bộ trong mọi khâu thì mới thành công”
PGS/BS Lê Chí Dũng
BV tuyến cơ sở còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực y
tế nên đã dồn bệnh nhân lên tuyến trên. Chính sách chưa theo kịp thực tế (như
chính sách thu viện phí, đầu tư cho y tế. Lương cán bộ y tế còn thấp, áp lực công
việc, KCB nhiều, ý thức lao động giảm nên thời gian KCB lâu hơn cũng là nguyên
nhân dẫn đến quá tải BV.


Dân số và y tế, Việt Nam hiện có 90 triệu dân (tăng gấp 1,4 lần so với năm 1989),
đứng thứ 14 và mật độ dân số đứng thứ 7 trên thế giới, tạo áp lực quá tải dân số,
dẫn đến quá tải BV. Tuổi thọ dân số tăng, già hóa dân số, nhu cầu KCB tăng; Số
lượng nạo hút thai tăng, nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế tăng cao; Nhu cầu sinh con
theo ý muốn tăng, nhu cầu KCB tăng cũng là những nguyên nhân dẫn đến quá tải
BV.

Nhân lực y tế còn thiếu, hiện trung bình cả nước mới có 7,4 bác sĩ/10.000 dân
(còn thiếu nhiều so với mục tiêu 10 bác sĩ/10.000 dân của Bộ Y tế - năm 2020);
nhu cầu đào tạo, chất lượng đào tạo và loại hình đào tạo không đáp ứng được thực

tế nên đã ảnh hưởng đến công tác KCB.

Nhiều loại dịch bệnh mới như: SARS, Cúm A/H5N1, H1N1, H7N9; một số dịch
bệnh khác như tay-chân-miệng, sốt xuất huyết; bệnh không lây nhiễm như cao
huyết áp, tim mạch, ung thư, đái tháo đường… có xu hướng gia tăng, nhu cầu KCB
và phòng chống dịch tăng, dẫn đến quá tải BV.

Chống quá tải BV
không chỉ riêng ngành
Y tế mà còn là của toàn


xã hội
Chính sách đãi ngộ
TSBS Trần Quang Bính, Trưởng khoa nhiệt đới Bệnh viện Chợ Rẫy cho rằng nếu
xây thêm bệnh viện tại thành phố cũng sẽ góp phần chống lại tình trạng quá tải, tuy
nhiên chế độ cho các bác sĩ phải phù hợp nếu không thì sắm trâu mà không mua
cày sẽ nảy sinh vấn nạn khác, ông nói:
"Số lượng giường thiếu trong những năm gần đây thật sự nó cũng không phải là
thiếu lắm. Tính trên số đầu người dân thì cũng tạm được nhưng cái phân bổ của
mình không đều. Các bác sĩ được đào tạo ra trường phần lớn với chế độ, chính
sách hiện tại này thì hầu như người ta không ai về địa phương làm việc mà tập
trung ở thành phố hay bệnh viện lớn hoặc ở các bệnh viện tư người ta làm vì mức
thù lao tương xứng hơn.
Ngoại trừ những người như tụi tôi mỗi người đã làm vài chục năm trong bệnh viện
công của nhà nước. Mình nghĩ thôi cũng không cần thiết phải đi ra ngoài nữa, chứ
còn các em trẻ bây giờ nó sẽ ra những hệ thống tư nó làm vì thù lao và chính sách
đãi ngộ nó sẽ lớn hơn.
Tôi nghĩ với mức độ đào tạo như bây giờ thì trong vòng vài năm cũng có thể được
vì song song với việc xây một bệnh viện thì cũng vài năm mới xong thì trong vài

ba năm đó với mức độ đào tạo bây giờ thì tôi nghĩ sẽ đủ."
Các bác sĩ giỏi khi vừa ra trường thường được các bệnh viện tư nhân chào
đón với những đãi ngộ cao gấp nhiều lần các bệnh viện công. Một cử nhân tốt
nghiệp 4 năm đại học sẽ có đồng lương cào bằng với một bác sĩ phải vật lộn 8
năm dưới mái trương Y khoa là lý do khiến bác sĩ tại các bệnh viện công ngày
càng xuống cấp.
Xuống cấp cả khả năng và y đức bởi đồng lương khinh thường kiến thức và sự tận
tâm làm việc của họ. BS Phạm Thành Đức, giám đốc Bệnh viện Quốc Tế cho biết:

“Lợi ích về kinh tế là một trong những điều khuyến khích người ta.
Ngoài ra còn được học hỏi và phát triển nghề nghiệp nữa.”
BS Phạm Thành Đức
"Bây giờ bác sĩ có hai thành phần làm trong bệnh viện tư, một là các bác sĩ đã nghỉ
hưu, hai là bác sĩ trẻ mới ra trường. Mới ra trường mấy em đã học hết chương


trình, đã có tiến sĩ rồi thì vô làm một thời gian gọi là thử việc rồi một thời gian sau
mới chính thức được thu nhận.
Tức nhiên là nó có những khoản đãi ngộ hơn là ở bệnh viện công. Lợi ích về kinh
tế là một trong những điều khuyến khích người ta. Ngoài ra còn được học hỏi và
phát triển nghề nghiệp nữa."



×