Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại việt nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRỊNH THỊ THU HÒA

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VỀ ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH VAY QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRỊNH THỊ THU HÒA

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
VỀ ĐẤU THẦU TẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH VAY QUỐC TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:Quan hệ quốc tế
Mã số: 60310206

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Hoàng Phƣớc Hiệp

Hà Nội – 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các nội dung đề cập trong Luận văn là sản phẩm
của chính tác giả. Các thông tin và số liệu nêu trong Luận văn là trung
thực và được tổng hợp từ những nguồn thông tin chính thống, có độ tin
cậy cao. Đồng thời, kết quả nghiên cứu trong Luận văn này chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................2
2. Tình hình nghiên cứu..............................................................................................3
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................5
4. Nhiệm vụ - Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................5
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ..............................................................5
6. Kết cấu luận văn......................................................................................................6
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU THẦU VÀ GIẢI QUYẾT XUNG
ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP
ĐỊNH VAY QUỐC TẾ .....................................................................................................7
1.1. Tổng quan lý luận về đấu thầu ..............................................................................7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức đấu thầu ......................................................7
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận về đấu thầu ......................................16
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu ...................................................................18
1.1.4. Khung pháp lý về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam .............................................18
1.2. Tổng quan lý luận về giải quyết xung đột pháp luật đấu thầu tại Việt Nam
trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế................................................21
1.2.1. Khái niệm xung đột pháp luật về đấu thầu......................................................21

1.2.2. Khái niệm Hiệp định vay và việc thực hiện Hiệp định vay ở Việt Nam.........21
1.2.3. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu ................................25
1.2.4. Nguyên tắc Pacta Sunt Servanda và vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về
đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế .............29
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU
THẦU CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH
VAY QUỐC TẾ ..........................................................................................................35
2.1. Thực tiễn quy định của pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các
Hiệp định vay quốc tế mà Việt Nam là thành viên ...................................................35
2.1.1. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định vay liên quan đến mua sắm theo Hiệp
định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) ..........................................35


2.1.2. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và khối
Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) ..............................................................................37
2.1.3. Quy định về đấu thầu tại Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên
minh châu Âu EU (EVFTA)......................................................................................38
2.2. Thực tiễn việc thực hiện các Hiệp định vay quốc tế liên quan đến vấn đề đấu
thầu tại Việt Nam .........................................................................................................38
2.3. Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá
trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế ................................................................41
2.3.1. Giải quyết xung đột về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay
có liên quan đến các cam kết quốc tế tại Hiệp định quốc tế .....................................41
2.3.2.Giải quyết xung đột pháp luật về đấuk thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp
định vay từ nguồn vốn của tổ chức cho vay quốc tế. ................................................46
2.4. Hài hòa các quy định pháp luật về đấu thầu của Việt Nam với các quy định
pháp luật về đấu thầu trong Hiệp định vay quốc tế mà Việt Nam là thành viên ..59
CHƢƠNG 3. KHUYếN NGHị GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP
LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH VAY
QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM............................................................................................64

3.1.Thuận lợi và khó khăn đối với việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu
trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay mà Việt Nam là thành viên .............64
3.1.1. Những thuận lợi...............................................................................................64
3.1.2. Những khó khăn và hạn chế ............................................................................65
3.2. Các giải pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực
hiện các hiệp định vay ở Việt Nam .............................................................................65
3.2.1. Giải pháp chung ..............................................................................................65
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể về thể chế ...................................................................67
3.2.3. Nhóm giải pháp cụ thể về mô hình tổ chức quản lý .......................................71
3.2.4. Nhóm giải pháp cụ thể về thi hành..................................................................74
KẾT LUẬN....................................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................84


DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10
11
12

13

Ký hiệu viết tắt
ADB (Asian Development Bank)
APEC (Asia-Pacific Economic Co
operation)
FDI (Foreign Direct Investment)
FII (Foreign Indirect Investment)
EFTA (EU Free Trade Agreement)
FTA (Free Trade Agreement)
G8

Diễn giải
Ngân hàng Phát triển Châu Á
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái
Bình Dương
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Khối mậu dịch tự do Châu Âu
Hiệp định thương mại tự do
8 quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới,
gồm: Pháp, Đức, Italy, Nhật, Anh, Mỹ,
Canada và Nga
G4
4 cường quốc về thương mại của thế giới,
gồm: Hoa Kỳ, Châu Âu, Brazil và Ấn Độ
ICB (International Competition Hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế
Bidding)
IMF (International Monetary Quỹ tiền tệ thế giới
Fund)

JBIC (Japan Bank of International Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
Cooperation)
WB (World Bank)
Ngân hàng thế giới
WTO (World Trade Organization) Tổ chức Thương mại thế giới


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu được áp dụng rộng rãi ở Việt
Nam và đóng góp một phần không nhỏ vào những thành tựu phát triển kinh tế quốc
dân. Cùng với hoạt động đấu thầu trong nước, hoạt động đấu thầu quốc tế luôn đòi hỏi
được hoàn thiện nhằm phát huy tối đa vai trò của mình trong việc tiếp cận và sử dụng
nguồn vốn vay quốc tế phục vụ sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đây cũng là vấn đề trọng điểm được đặt ra trong các chương trình, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua.
Trước đây, trong cơ chế tập trung bao cấp, vấn đề đấu thầu chưa được coi là
một vấn đề độc lập cần được quy định dưới dạng Luật. Điều đó phần nào phủ nhận giá
trị và tầm quan trọng của đấu thầu và Luật này trên thực tế. Tuy nhiên, nền kinh tế thị
trường ra đời, thực tế sự phát triển kinh tế - xã hội đã làm Luật đấu thầu được nhìn
nhận, đánh giá lại. Luật đấu thầu đã được coi là một trong những yếu tố quan trọng
góp phần thiết thực vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư vào phát triển kinh
tế - xã hội. Nhà nước đã không ngừng thay đổi toàn diện cơ chế quản lý về đấu thầu để
thích ứng linh hoạt với điều kiện của nền kinh tế vận hành theo thị trường bảo đảm
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đấu thầu là phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan trong nền kinh tế thị
trường, đòi hỏi Nhà nước phải nắm bắt và vận dụng có hiệu quả trong quá trình quản
lý và điều hành nền kinh tế quốc dân. Trong cơ chế kinh tế thị trường, hoạt động đấu
thầu là một mắt xích quan trọng trong toàn bộ quá trình mua sắm của Chính phủ nói
chung và trong việc thực hiện các dự án đầu tư quốc tế nói riêng. Vì vậy, việc giải

quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc
tế là một trong những vấn đề nổi cộm của hoạt động đấu thầu tại Việt Nam nhằm thúc
đẩy sự phát, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hội nhập phát triển kinh tế của
đất nước.
Xuất phát từ ý nghĩa và giá trị to lớn đó mà vấn đề giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu quốc tế đã trở thành vấn đề quan trọng, là tấm gương phản chiếu ra
nước ngoài của Việt Nam trong việc bảo đảm vay vốn và sử dụng vốn vay từ các tổ
chức cho vay quốc tế một cách hiệu quả và thiết thực. Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh
2


thực tế, việc giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình
thực hiện vay vốn quốc tế chưa được thực hiện một cách thống nhất và còn nhiều bất
cập, chồng chéo nhau cần được giải đáp. Vì vậy, tôi chọn vấn đề giải quyết xung đột
pháp luật về đấu thầu trong quá trình thực hiện các Hiệp định vay quốc tế làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn đóng góp ý kiến trong quá trình tìm kiếm
giải pháp để giải quyết những xung đột này.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu và tài liệu khác nhau về vấn đề
này nhưng vẫn chưa có công trình nào xử lý đầy đủ vấn đề Giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế. Liên
quan đến vấn đề đấu thầu, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu như sau:
1. Tác giả Hoàng Lê Mai Phương lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đấu
thầu tư vấn tại các dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo” (năm 2012) làm đề tài
nghiên cứu luận văn Thạc sỹ kinh tế. Với cách tiếp cận những vấn đề cơ bản về đấu
thầu tại các dự án ODA như khái niệm, vai trò và nguyên tắc của đấu thầu tư vấn tại
các dự án ODA, các loại gói thầu tư vấn, quy trình đấu thầu tư vấn, các nhân tố ảnh
hưởng… cũng như tìm hiểu về thực trạng để đánh giá công tác đấu thầu tư vấn tại các
dự án ODA thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giúp cho
việc thực hiện các gói thầu dịch vụ tư vấn được hoàn thiện hơn, chịu ảnh hưởng ít nhất

của các điều kiện khách quan cũng như chủ quan, từ đó nâng cao hiệu quả của quá
trình lựa chọn nhà thầu.
2. Tác giả Nguyễn Đình Linh với công trình “Hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước về hoạt động đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội” (năm 2011)
đã đưa ra những cơ sở lý luận cũng như thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước đối
với hoạt động đấu thầu tại một cơ quan quản lý nhà nước cụ thể. Từ đó có những nhận
định và đánh giá, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước
về đấu thầu tại UBND huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội.
3. Tác giả Nguyễn Văn Ngọc đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện công tác đấu thầu
tại Công ty Cổ phần tư vấn thiết kế giao thông vận tải 4 giai đoạn 2006-2020” làm đề
tài cho luận văn Thạc sỹ năm 2012. Tác giả đã hệ thống hóa những lý luận cơ bản về
công tác đấu thầu tư vấn: các nội dung, quy trình, thủ tục đấu thầu theo quy định của
nhà nước, các tiêu chí đánh giá và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến công tác đấu
3


thầu tư vấn, đồng thời phân tích thực trạng công tác đấu thầu được thực hiện tại Công
ty Cổ phần tư vấn thiết kế giao thông vận tải 4, qua đó đánh giá để đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao khả năng trúng thầu tại công ty.
4. Tác giả Nguyễn Tuấn Anh với công trình “Công tác đấu thầu quốc tế các gói
thầu tư vấn sử dụng vốn ODA ngành xây dựng đường bộ tại Tổng cục đường bộ Việt
Nam” (năm 2011) đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác đấu
thầu các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA cụ thể tại ngành xây dựng. Có thể thấy rằng,
cũng giống như luận văn của tác giả Hoàng Lê Mai Phương, cả 02 đề tài đề tập trung
phân tích công tác đấu thầu tại các gói thầu tư vấn sử dụng vốn ODA với nhà tài trợ là
Worldbank.
5. Tác giả Nguyễn Thị Thúy Huyền với đề tài “Thực trạng đấu thầu quốc tế tại
Việt Nam, sự ảnh hưởng của các văn bản pháp quy đến hoạt động đấu thầu quốc tế
trong giai đoạn hội nhập” (năm 2006) đã nêu rõ ảnh hưởng của các văn bản pháp quy
về đấu thầu đối với công tác đấu thầu tại Việt Nam nhằm nêu rõ những kết quả đạt

được, những bất cập, hạn chế cơ bản của công tác này. Trên cơ sở nhận định những
điểm chung và điểm riêng, điểm tiến bộ cũng như hạn chế của các văn bản pháp quy
về đấu thầu tại Việt Nam. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường ảnh hưởng của
các văn bản pháp quy nói trên, đồng thời góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư,
chuôngs thất thoát vốn nhà nước.
6. Tác giả Hoàng Thu Nga với đề tài “Công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty cổ
phần xây lắp Bưu điện: Thực trạng và giải pháp” (năm 2008). Tại đề tài này, tác giả
đã đi sâu vào phân tích các hình thức đấu thầu cũng như quy trình tại Công ty cổ phần
xây lắp Bưu điện để từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị phù hợp.
7. Cục Quản lý Đấu thầu với đề tài nghiên cứu khoa học “Hoàn thiện quy
trình kiểm tra về công tác đấu thầu” (2013). Đây là đề tài được Cục Quản lý Đấu thầu
thực hiện trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực tế việc triển khai quy trình kiểm tra về
công tác đấu thầu tại một số Bộ, ngành, địa phương để tiếp thu ý kiến của các bên có
liên quan, tổ chức hội nghị lấy ý kiến, tổng hợp thông tin để từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện quy trình kiểm tra nói chung để tạo.
Qua các công trình nghiên cứu trên đây có thể thấy những đề tài đã nghiên cứu
tập trung chủ yếu về thực trạng và chỉ ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao
chất lượng tổ chức đấu thầu đối với các gói thầu do đơn vị mình thực hiện. Một số đề
4


tài khác nghiên cứu việc tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng trúng thầu tại đơn
vị khi tham gia đấu thầu với vai trò là nhà thầu hay đưa ra thực trạng và các giải pháp
nhằm nâng cao công tác quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu tại đơn vị mình. Tuy
nhiên, chưa có hoặc có rất ít đề tài nghiên cứu sâu về giải quyết xung đột pháp luật đấu
thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung liên quan tới lý luận và thực tiễn
vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu ở Việt Nam trong quá trình thực hiện
các Hiệp định vay quốc tế. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động đấu thầu quốc tế

tại Việt Nam và đánh giá, so sánh các quy định về vấn đề này của pháp luật Việt Nam
và quy định của một số quốc gia, tổ chức quốc tế, tác giả đưa ra những đề xuất cụ thể
nhằm hoàn thiện hệ thống đấu thầu quốc tế tại Việt Nam qua đó khắc phục những
xung đột pháp luật trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế.
4. Nhiệm vụ - phƣơng pháp nghiên cứu
a) Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quy định và giải quyết xung đột pháp
luật về đấu thầu của Việt Nam so với các các quy định tại các Hiệp định quốc tế và tổ
chức cho vay quốc tế, đề tài đưa ra một cách khái quát nhất về lý luận và thực tiễn để
làm rõ những điểm hợp lý và bất hợp lý, những thiếu sót, bất cập của pháp luật đấu
thầu hiện hành ở Việt Nam. Kết hợp với việc tổng hợp kinh nghiệm thực tế, đề tài đưa
ra những kiến nghị và giải pháp khắc phục vấn đề xung đột pháp luật đấu thầu quốc tế
và hoàn thiện pháp luật đấu thầu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
b) Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này là phương
pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh, phương pháp case study, phương pháp
nghiên cứu liên đa ngành và các phương pháp nghiên cứu xã hội khác. Các phương
pháp này được tiến hành với sự vận dụng triệt để phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Với kết quả nghiên cứu đạt được của đề tài đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn cũng như cung cấp các luận cứ khoa học về vấn đề Giải quyết xung
đột pháp luật về đấu thầu tại Việt Nam trong quá trình thực hiện các hiệp định vay
5


quốc tế. Đề tài cho thấy một cách nhìn tổng thể các chính sách về đấu thầu tại các
Hiệp định thương mại và tổ chức cho vay quốc tế có ảnh hưởng đến chính các quy
định chung về đấu thầu tại Việt Nam, góp phần xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu quốc tế.

6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần phụ lục, Luận văn được chia thành
ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu thầu và giải quyết xung đột pháp luật
về đấu thầu trong quá trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế
Chương 2: Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu trong quá
trình thực hiện các hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam
Chương 3: Khuyến nghị giải pháp giải quyết xung đột pháp luật về đấu thầu
trong quá trình thực hiện hiệp định vay quốc tế ở Việt Nam

6


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU THẦU VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC HIỆP
ĐỊNH VAY QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan lý luận về đấu thầu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức đấu thầu
1.1.1.1. Khái niệm
Về mặt thuật ngữ, từ điển Bách khoa Việt Nam (năm 1995) đĩnh nghĩa:
“Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn xây dựng công trình
(người gọi thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện để xây dựng công trình
(người dự thầu) công bố giá mà mình muốn nhận. Người gọi thầu sẽ lựa chọn người
dự thầu nào phù hợp với điều kiện của mình với giá thấp hơn”. Trong từ điển tiếng
Việt (Năm 1998) định nghĩa “Đấu thầu là độ công khai ai nhận làm, nhận bán với
điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc bán” [3].
Về mặt lý luận, đấu thầu được hiểu là “phạm trù kinh tế tồn tại trong nền
kinh tế thị trường. Trong đó, người mua đóng vai trò tổ chức để các nhà thầu
(những người bán) cạnh tranh nhau. Mục tiêu của người mua là có được hàng hoá

và dịch vụ thoả mãn các yêu cầu của mình về kỹ thuật, chất lượng với chi phí thấp
nhất. Mục tiêu của nhà thầu là giành được quyền cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ
đó với giá cả đủ bù đắp các chi phí đầu vào đồng thời đảm bảo mức lợi nhuận cao
nhất có thể” [13, tr.4].
Trong nền kinh tế thị trường, hầu như không tồn tại sự độc quyền cung cấp
cho bất kỳ một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó (trừ một số loại hàng hoá đặc biệt
dùng cho các dịch vụ công). Có nhiều nhà sản xuất, nhà cung cấp cho cùng một loại
hàng hoá và dịch vụ. Trong cơ chế kinh tế thị trường người tiêu dùng (bao gồm các
nhà đầu tư) luôn mong muốn có được hàng hoá và dịch vụ tốt nhất với chi phí thấp
nhất. Vì vậy, mỗi khi có nhu cầu đối với một hàng hoá hay dịch vụ nào đó, họ
thường tổ chức các cuộc đấu thầu để các nhà thầu (bao gồm các nhà cung cấp hàng
hoá và dịch vụ) cạnh tranh nhau về kỹ thuật, công nghệ, chất lượng và giá cả. Trong

7


đó, nhà thầu nào đưa ra được mẫu hàng hoá và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của
người mua và với giá cả thấp nhất sẽ được người mua chấp nhận trao hợp đồng.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hoạt
động đấu thầu không còn giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà nó được mở
rộng ra ở phạm vi quốc tế. Do vậy, khái niệm đấu thầu quốc tế được đặt ra khi hoạt
động đấu thầu có gắn với yếu tố nước ngoài.
Về mặt pháp lý, theo quy định tại khoản 12, Điều 4 Luật Đấu thầu số
43/2013/QH13 ban hành ngày 26/11/2013 thì “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà
thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn,
mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng
dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở
bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”[12, tr21].
Khoản 13, Điều 4 Luật Đấu thầu nêu trên có quy định cụ thể “Đấu thầu
quốc tế là đấu thầu mà nhà thầu, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài được tham dự

thầu”.[12, tr20]
Đi liền với phạm trù đấu thầu, cần hiểu thêm một số khái niệm có liên quan sau:


Về chủ thể tham gia hoạt động đấu thầu

- Nhà thầu: Tất cả các tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu thầu để giành quyền
ký kết và thực hiện hợp đồng đầu tư, cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho bên mời thầu
hoặc chủ đầu tư đều gọi là nhà thầu. Tuỳ theo tính chất của nguồn vốn, người ta có thể
quy định tư cách hợp lệ của nhà thầu theo các chỉ tiêu cụ thể khác nhau. Nhưng nhà
thầu đều phải đảm bảo đáp ứng các nguyên tắc tối thiểu có tính pháp lý. Nhà thầu có
thể tham gia dự thầu độc lập hoặc liên danh với một hoặc nhiều nhà thầu khác để liên
danh dự thầu. Như vậy, Nhà thầu được hiểu là các tổ chức kinh tế, cá nhân độc lập về
tài chính có năng lực pháp luật dân sự (nếu là tổ chức) hoặc năng lực hành vi dân sự
(nếu là cá nhân) để ký kết và thực hiện hợp đồng theo các quy định của pháp luật.
- Bên mời thầu: Theo nghĩa thông thường, bên mời thầu là bên đứng ra tổ
chức đấu thầu. Các chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện của họ tổ chức đấu thầu để lựa
chọn nhà thầu thực hiện một phần hoặc toàn bộ dự án. Bên mời thầu thường là chủ sở
hữu vốn (nguồn để chi trả cho nhà thầu theo giá trị hợp đồng) và là một bên đứng ra

8


ký kết hợp đồng với nhà thầu. Tuy nhiên, trong trường hợp đại diện của chủ dự án,
chủ đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu, thì họ có thể không phải là một bên đứng ra ký
kết hợp đồng với nhà thầu. Trong trường hợp đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư, bên
mời thầu chỉ đóng vai trò chủ dự án, khi đó nhà thầu trúng thầu sẽ là chủ đầu tư. Như
vậy, Bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ
đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu.
Bên cạnh 2 nhóm chủ thể chính tham gia trực tiếp này, trong hoạt động đấu

thầu còn có sự tham gia của các chủ thể gián tiếp, bao gồm: Cơ quan thanh tra, kiểm
tra, giám sát; Tổ chức, công ty kiểm toán độc lập; Các cơ quan báo chí, truyền thông,
ngôn luận; cộng đồng nói chung - tham gia với vai trò giám sát.


Về thủ tục, tài liệu

- Hồ sơ mời thầu: Trước khi tổ chức đấu thầu, bên mời thầu phải tập hợp toàn
bộ các yêu cầu của gói thầu (về chất lượng, số lượng, kỹ thuật, các điều kiện hợp
đồng, tài chính, thương mại...) thành một bộ tài liệu thống nhất và không thay đổi
trong suốt quá trình đấu thầu để làm căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, đồng
thời làm cơ sở để bên mời thầu đánh giá các hồ sơ dự thầu và xem xét, quyết định nhà
thầu trúng thầu. Có thể khái quát hóa, hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do bên mời
thầu lập, bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu
chuẩn bị hồ sơ dự thầu và bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu.
- Hồ sơ dự thầu: Trên cơ sở nghiên cứu các yêu cầu của bên mời thầu nêu
trong hồ sơ mời thầu, cũng như kết quả khảo sát thực địa và các thông tin liên quan
khác, nhà thầu lập bộ hồ sơ dự thầu bao gồm toàn bộ các tài liệu về kỹ thuật, tài chính,
thương mại liên quan đến gói thầu để nộp cho bên mời thầu trong thời gian có hiệu
lực (trước thời điểm đóng thầu). Nhà thầu có hồ sơ dự thầu hợp lệ, đáp ứng các yêu
cầu của hồ sơ mời thầu và có giá đánh giá thấp nhất sẽ được xem xét, đề nghị trúng
thầu. Như vậy, Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ
mời thầu.
1.1.1.2. Đặc điểm đấu thầu quốc tế
Mỗi phương thức giao dịch trên thị trường đều có các đặc điểm riêng khác
nhau. Những đặc điểm riêng đó sẽ tạo nên những nét đặc trưng, quyết định đến quy

9



trình tổ chức ký kết, thực hiện các hợp đồng có liên quan. Vì vậy, cũng như các lĩnh
vực khác việc nghiên cứu đặc điểm pháp luật về đấu thầu nói một cách thấu đáo là
một công việc không thể thiếu. Hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế
nói riêng có một số đặc điểm sau đây:


Trên thị trường chỉ một người mua và nhiều người bán

Người mua trên thị trường phần lớn thường là những tổ chức, cơ quan, các
chủ đầu tư được Chính phủ cấp tài chính mua sắm hàng hoá, dịch vụ, xây dựng
công trình thường. Nhưng cũng có những trường hợp người mua thiếu vốn phải đi
vay mà điều kiện đòi hỏi phải mở thầu. do có khó khăn về mặt nghiệp vụ, kinh
nghiệm kinh doanh cho nên họ phải lợi dụng sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để từ
đó lựa chon được người bán thích hợp nhất và có các điều kiện giao dịch tối ưu nhất.
Ngược lại, các nhà thầu cung cấp hàng hoá, dịch vụ… được tự do cạnh tranh với
nhau để giành quyền cung cấp và kết quả của sự cạnh tranh đó đã làm cho giá cả
tiến gần lại với giá thực trên thị trường, điều mà bất cứ người mua nào cũng mong
đợi.


Đấu thầu tiến hành theo những điều kiện quy định trước

Mặc dù được tự do cạnh tranh giành quyền cung cấp nhưng các nhà thầu
phải thực hiện theo những điều kiện mà Bên mở thầu đã quy định trước. Hay nói
một cách khác, người mua chỉ có một nhưng họ đã nêu ra những điều kiện ràng
buộc rất chặt chẽ, buộc các nhà thầu phải tuân theo. Trong đấu thầu, các điều kiện
tài chính, các điều kiện kỹ thuật… thường được thể hiện trong hồ sơ mời thầu. Các
nhà thầu một khi thoả mãn tốt nhất các điều kiện mà Bên mời thầu đưa ra mới mong
có hy vọng trúng thầu, cá biệt có những trường hợp các nhà thầu đã thoả mãn đầy
đủ các điều kiện kỹ thuật, tài chính và uy tín, nhưng vì không tìm được đối tác liên

doanh, liên kết nên đã không giành được hợp đồng. Và cũng có những nhà thầu
không tìm được nhà thầu theo quy định nên cũng không trúng thầu. Chính vì những
lý do nói trên trong đấu thầu thì thị trường thuộc về phía mời thầu, họ “vừa là người
bị động, vừa là người chủ động” là như vậy.


Chủ động trong việc xác định thời gian và địa điểm mở thầu

Thời gian mở thầu phải được quy định trước, thông thường nó được thực

10


hiện sau khi thông báo mời thầu một số ngày nhất định. Khoảng thời gian này tuy
ước tính nhưng người ta phải tính toán sao cho hợp lý. Ngày giờ, địa điểm sẽ được
xác định cụ thể trong hồ sơ mở thầu. Khi mở thầu các nhà thầu thường phải có mặt
nghe công bố tính hợp lệ của đơn chào và ký vào một biên bản đã được chuẩn bị
trước. Bên mời thầu sẽ công bố công khai một số chỉ tiêu cơ bản của hồ sơ dự thầu.


Vai trò của người tư vấn

Trong đấu thầu, ngoài bên mời thầu, nhà thầu, còn có sự hiện diện của
người tư vấn. Quan điểm của hầu hết các nước trên thế giới đều cho rằng người tư
vấn là người đảm bảo hạn chế tới mức tối đa các tiêu cực phát sinh. Những thông
đồng thoả hiệp làm cho chủ dự án bị thiệt hại, vì vậy người tư vấn phải có trình độ,
năng lực chuyên môn để giúp chủ dự án (Bên mời thầu) giải quyết các vấn đề kỹ
thuật với các nhà thầu. Dịch vụ tư vấn có thể chia thành:
- Làm báo cáo trước khi đầu tư
- Các dịch vụ chuẩn bị để xác định và thực hiện dự án

- Các dịch vụ giám sát, quản lý dự án
- Giúp đỡ kỹ thuật (dịch vụ cố vấn, phát triển và lập kế hoạch, xây dựng, tổ
chức, đào tạo…).
1.1.1.3. Các hình thức đầu thầu
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau thì hình thức đấu thầu được phân loại
khác nhau, cụ thể như sau:
Căn cứ vào đặc thù về hàng hoá và dịch vụ cần mua, hoạt động đấu thầu
được chia thành 3 lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực có quy trình tổ chức đấu thầu riêng phù hợp
với đối tượng hàng hoá hoặc dịch vụ cần mua đó.
 Đấu thầu tuyển chọn tư vấn (Tender for consulting services)
Đối với các nước đang phát triển, nhu cầu về đầu tư xây dựng mới các công
trình hạ tầng cơ sở hoặc nhà xưởng, máy móc phục vụ sản xuất thường rất lớn. Để
thực hiện tốt quá trình đầu tư từ bước xác định dự án, chuẩn bị báo cáo tiền khả thi,
báo cáo nghiên cứu khả thi đến tổ chức thực hiện, giám sát quá trình xây dựng... cần
có đội ngũ chuyên gia lành nghề, có kinh nghiệm và đã có điều kiện tiếp cận với công
nghệ tiên tiến và khoa học hiện đại trên thế giới để thực hiện các dịch vụ tư vấn phục

11


vụ cho quá trình này. Vì vậy, trong quá trình đầu tư nhà tài trợ thường yêu cầu chủ
đầu tư tổ chức đấu thầu tuyển chọn tư vấn để thực hiện các dịch vụ khảo sát, thiết kế,
lập hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám
sát quá trình xây dựng đáp ứng các yêu cầu của dự án. Do đối tượng lựa chọn để mua
ở đây là các dịch vụ tư vấn của chuyên gia, nên quy trình đấu thầu không thể giống
với việc mua sắm hàng hoá hay dịch vụ xây lắp.
Trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, các nhà thầu (nhà tư vấn) cạnh tranh nhau
thông qua việc cung cấp các chuyên gia có nhiều kiến thức và kinh nghiệm chuyên
môn với một mục tiêu để thực hiện tốt nhất, chất lượng nhất các yêu cầu của bên mua.
Trách nhiệm đối với công việc gắn liền với uy tín của nhà tư vấn đã làm cho các nhà

tư vấn khi tham gia dự thầu thường không phải nộp bảo lãnh dự thầu như đối với các
lĩnh vực mua sắm khác. Bên cạnh đó, tính độc lập, khách quan, trung thực, kiên quyết
luôn là những yếu tố không thể thiếu đối với những nhà tư vấn đích thực.


Đấu thầu mua sắm hàng hoá (Tender for procurement goods)

Trong đấu thầu mua sắm hàng hoá, các nhà thầu cạnh tranh nhau thông qua
việc đảm bảo cung cấp hàng hoá có đủ chất lượng theo yêu cầu của cơ quan mua sắm
nhưng với chi phí hợp lý nhất cùng với các dịch vụ bảo hành, bảo trì, dịch vụ sau bán
hàng thuận lợi đối với người mua. Sự cạnh tranh trong cung cấp hàng hoá còn thể
hiện ở chỗ nhà thầu đưa ra những hàng hoá (đặc biệt là thiết bị) với công nghệ mới,
đem lại nhiều lợi thế trong sử dụng. Cũng tương tự như trong cung cấp dịch vụ tư vấn,
các nhà thầu cung cấp hàng hoá luôn cạnh tranh nhau bằng uy tín của mình.


Đấu thầu xây lắp (Tender for works)

Trong lĩnh vực xây lắp, các nhà thầu xây dựng luôn cạnh tranh nhau về giải
pháp để thực hiện thiết kế nêu trong hồ sơ mời thầu sao cho đáp ứng yêu cầu về chất
lượng với chi phí thấp nhất. Giải pháp thực hiện của nhà thầu xây dựng gắn liền với
kinh nghiệm đã đúc kết, gắn với việc áp dụng công nghệ mới và không bỏ qua các
biện pháp thực hiện phù hợp với điều kiện thi công thực tế. Trong đấu thầu xây lắp,
giải pháp thực hiện luôn là yếu tố quan trọng để giành thắng lợi trong cuộc đấu thầu.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp không yêu cầu kỹ thuật cao thì việc đưa ra các
đơn giá cạnh tranh lại là cơ sở giúp các nhà thầu thắng thầu.

12



Tuy tính chất cạnh tranh trong 3 lĩnh vực nêu trên khác nhau, song đều có
chung mục đích là thoả mãn các yêu cầu của bên mua với chi phí thấp nhất. Nhờ sự
cạnh tranh giữa các nhà thầu, bên mua luôn có cơ hội tìm được một dịch vụ theo ý
muốn với chi phí hợp lý. Mặt khác nhờ có sự cạnh tranh mà các nhà thầu phải luôn
luôn phải tự hoàn thiện mình để tồn tại và vươn lên. Như vậy, cạnh tranh chẳng những
đem lại lợi ích cho người mua, cho các nhà thầu, mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã
hội. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với Nhà nước là phải tạo ra môi trường và thúc đẩy sự
cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu.
Ngoài 3 loại lĩnh vực trên, nhiều nước trên thế giới còn có loại đấu thầu lựa
chọn đối tác thực hiện dự án (Tender for Project). Đây là hình thức phổ biến được
áp dụng khi một dự án có từ hai đối tác trở lên.
Căn cứ vào hình thức lựa chọn nhà thầu, có thể phân loại đấu thầu thành
các hình thức sau:


Đấu thầu mở rộng (open bidding hay international competitive)

Đấu thầu rộng rãi là hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong đó không
hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự (Khoản 1, Điều 20 Luật Đấu thầu
2013). Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu
trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu
thầu và trang web để đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành, địa phương tối thiểu
một thời gian xác định trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là
hình thức chủ yếu áp dụng trong đấu thầu.
Hình thức này này có ưu điểm là khuyến khích tính cạnh tranh giữa các nhà
thầu. Các nhà thầu luôn đưa ra các giải pháp tiêu chuẩn đạt chất lượng cao với chi
phí tài chính thấp nhất. Tuy nhiên do số lượng nhà thầu không hạn chế nên có thể có
nhà thầu chưa đủ năng lực vẫn tham gia dự thầu. Đồng thời, do số lượng nhà thầu
lớn nên mất nhiều thời gian và chi phí cho việc tổ chức đấu thầu.



Đấu thầu hạn chế (limited bidding)

Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp gói thầu có yêu cầu cao
về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà thầu đáp ứng yêu
cầu của gói thầu.

13


Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
(i)Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu; (ii)Theo
yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn sử dụng cho gói thầu và (iii)Gói
thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù, gói thầu có tính chất
nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu
của gói thầu.
Hình thức này có ưu điểm là các nhà thầu tham gia đấu thầu là những người
thực sự có đủ năng lực về mọi mặt, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chủ đầu tư.
Công tác tổ chức đấu thầu cũng tốn ít thời gian và chi phí hơn so với tổ chức đấu
thầu rộng rãi. Tuy nhiên, do hạn chế số lượng nhà thầu nên cũng hạn chế một phần
sự đa dạng trong cạnh tranh giữa các nhà thầu. Đây là hình thức được áp dụng ở
nhiều ngành, địa phương do vậy hiệu quả đạt được không cao, đây cũng là kẽ hở dễ
tạo ra hiện tượng tiêu cực.


Chỉ định thầu (Single bidding)

Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để thương thảo hợp đồng. Điều 22 Luật Đấu thầu 2013, chỉ định thầu đối với
nhà thầu được áp dụng trong các trường hợp sau đây [12].

- Gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả
gây ra do sự cố bất khả kháng; gói thầu cần thực hiện để bảo đảm bí mật nhà nước;
gói thầu cần triển khai ngay để tránh gây nguy hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe
và tài sản của cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc để không ảnh hưởng nghiêm
trọng đến công trình liền kề; gói thầu mua thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế để
triển khai công tác phòng, chống dịch bệnh trong trường hợp cấp bách;
- Gói thầu cấp bách cần triển khai nhằm mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc
gia, biên giới quốc gia, hải đảo;
- Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa
phải mua từ nhà thầu đã thực hiện trước đó do phải bảo đảm tính tương thích về
công nghệ, bản quyền mà không thể mua được từ nhà thầu khác; gói thầu có tính
chất nghiên cứu, thử nghiệm; mua bản quyền sở hữu trí tuệ;
- Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế

14


xây dựng được chỉ định cho tác giả của thiết kế kiến trúc công trình trúng tuyển
hoặc được tuyển chọn khi tác giả có đủ điều kiện năng lực theo quy định; gói thầu
thi công xây dựng tượng đài, phù điêu, tranh hoành tráng, tác phẩm nghệ thuật gắn
với quyền tác giả từ khâu sáng tác đến thi công công trình;
- Gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên
ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng; gói thầu rà phá
bom, mìn, vật nổ để chuẩn bị mặt bằng thi công xây dựng công trình;
- Gói thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công, gói thầu có giá gói thầu trong
hạn mức được áp dụng chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.


Chào hàng cạnh tranh


Hình thức này thường được áp dụng cho các gói thầu mua sắm hàng hoá có
giá trị không quá lớn. Mỗi gói thầu thường phải có ít nhất 3 chào hàng của 3 nhà
thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của bên mời thầu. Việc gửi chào hàng
có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc
bằng các phương tiện khác.


Mua sắm trực tiếp

Hình thức mua sắm trực tiếp được áp dụng trong các trường hợp bổ sung
hợp đồng cũ đã thực hiện xong (dưới một năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với
điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc khối lượng công
việc mà trước đó đã được tiến hành đấu thầu, nhưng phải đảm bảo không được vượt
mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã kí trước đó. Trước khi kí hợp đồng, nhà
thầu phải chứng minh có đủ năng lực về kĩ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu.


Tự thực hiện (tự thầu)

Hình thức này chỉ áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng
lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước.


Mua sắm đặc biệt

Hình thức này được áp dụng đối với các ngành đặc thù mà nếu không có
những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Cơ quan quản lí ngành phải xây
dựng được quy trình thực hiện đảm bảo các mục tiêu của Quy chế đấu thầu và có ý


15


kiến thống nhất của Cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
Căn cứ vào phƣơng thức áp dụng, hoạt động đấu thầu có thể được phân
loại thành 3 phương thức
 Đấu thầu 1 túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần
nộp các đề xuất về kỹ thuật, tài chính, giá bỏ thầu và những điều kiện khác trong
một túi hồ sơ chung. Phương thức này được áp dụng với đấu thầu mua sắm hàng
hoá và xây lắp.
 Đấu thầu 2 túi hồ sơ: Khi dự thầu theo phương thức này, nhà thầu cần
nộp những đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng vào
cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh
giá, xếp hạng. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi
hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này chỉ áp dụng đối với đấu thầu
tuyển chọn tư vấn.
 Đấu thầu 2 giai đoạn: Phương thức này áp dụng cho các gói thầu xây lắp
và mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về
công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp hoặc đối với các dự
án thực hiện theo hợp đồng “chìa khoá trao tay”.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển lý luận về đấu thầu
Đấu thầu là một trong những phương thức mua sắm hàng hoá, dịch vụ được
ra đời và phát triển cùng với phương thức sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và
các cuộc khủng hoảng đã dẫn đến sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và Chủ
nghĩa tư bản Nhà nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Độc quyền ra đời từ tự
do cạnh tranh, sau đó đối lập với tự do cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu tự do cạnh
tranh mà làm cho cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Nhà nước tư bản vừa là người
đại diện, người bảo vệ cho giai cấp tư sản và vừa là người điều tiết quá trình sản
xuất, đồng thời cũng là người cung cấp vốn để nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu

khoa học - kỹ thuật. Nhà nước điều tiết các chương trình, các mục tiêu phát triển
kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, các chính sách kinh tế… Ngoài ra, nhà nước
còn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, phát triển các ngành

16


kinh tế cần thiết cho xã hội, nhưng lại có hiệu quả kinh tế thấp, lâu hoàn vốn…,
những mua sắm chi tiêu đó của Chính phủ đã trở thành mục tiêu cạnh tranh gay gắt
giữa các tổ chức kinh tế tài chính. Do vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên ở hầu
hết các nước tư bản đều có những luật mua sắm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hoạt động đấu thầu xuất hiện từ rất sớm nhưng các quy định của pháp luật
liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và xuất hiện đầu tiên ở Anh. Cho đến khi
Hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế thành lập thì quy trình đấu thầu ngày càng được hoàn
thiện hơn. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy các quy định về đấu thầu ở các tổ
chức quốc tế và ở các quốc gia khắp trên thế giới. Các quy định này ngày càng được
kiện toàn và thích nghi với các quốc gia và thông lệ quốc tế là cơ sở để Hội nhập
kinh tế toàn cầu.
Trong tương lai, khi xã hội càng phát triển, nền kinh tế càng giàu mạnh, đấu
thầu sẽ càng được sử dụng rộng rãi hơn. thị trường đấu thầu là nơi diễn ra sự mua
bán hàng hoá, dịch vụ, là sự tổng hợp các mối quan hệ, các thành viên tham gia vào
thị trường này đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích kinh tế của mình. Xuất phát từ
những đặc trưng riêng hoạt động đấu thầu giúp tận dụng lợi thế của các quy luật kinh
tế khách quan trong cơ chế kinh tế thị trường mang lại lợi ích cho các chủ thể tham
gia và cho cả nền kinh tế thúc đẩy xã hội phát triển.
Ở Việt Nam, hoạt động đấu thầu được áp dụng trong khoảng thời gian trên
10 năm trở lại đây, đặc biệt kể từ khi hoạt động viện trợ của các định chế tài chính,
tổ chức tài trợ, cho vay quốc tế được nối lại thì hoạt động đấu thầu ngày càng được
chú trọng nghiên cứu và hoàn thiện. Thông qua đấu thầu, việc thực hiện sử dụng
ngân sách nhà nước minh bạch, công bằng hơn, các chủ đầu tư, đơn vị có chức năng

thực hiện, đơn vị được cho phép sử dụng nguồn vốn, ngân sách đã lựa chọn được
những nhà thầu đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện các dự án, gói thầu làm thay
đổi diện mạo kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước. Hàng loạt các công trình
lớn đã được xây dựng, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế đất nước
phát triển. Thông qua đấu thầu, các nhà thầu trong nước từ khi chỉ làm thầu phụ cho
các nhà thầu nước ngoài đến nay đã lớn mạnh có thể tham gia đấu thầu cạnh tranh
bình đẳng với nhà thầu nước ngoài để dành được các hợp đồng lớn. Ngoài ra, các

17


chủ đầu tư, bên mời thầu đã được tăng cường rất nhiều về năng lực, từ chỗ hiểu đấu
thầu còn mơ hồ đến nay đã có thể thực hiện công tác đấu thầu thuần thục.
1.1.3. Nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu
Dù thuộc hình thức hay lĩnh vực nào, hoạt động đấu thầu nói chung và đấu
thầu quốc tế nói riêng đều phải đảm đảo đúng và đầy đủ các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc hiệu quả về tài chính và hiệu quả về thời gian.
- Nguyên tắc cạnh tranh: nguyên tắc cạnh tranh tạo điều kiện cho các nhà
thầu cạnh tranh với nhau ở phạm vi rộng nhất có thể.
- Nguyên tắc công bằng: nguyên tắc này đảm bảo đối xử như nhau đối với các
nhà thầu tham gia dự thầu.
- Nguyên tắc minh bạch: đây là nguyên tắc quan trọng nhất nhưng khó thực
hiện và khó kiểm tra nhất. Nguyên tắc này yêu cầu trong quá trình thực hiện đấu
thầu thì các hoạt động diễn ra không được gây nghi ngờ cho các nhà thầu, Bên mời
thầu và cơ quan quản lý.
1.1.4. Khung pháp lý về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam
Với chủ trương tích cực và chủ động trong tiến trình đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế, trong những năm vừa qua, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi nhiều chính
sách về quản lý kinh tế liên quan đến đầu tư nói chung và đấu thầu nói riêng. Bảng
thống kê hệ thống hóa các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý đấu thầu được thể

hiện tại Phụ lục 1 - Danh mục văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu hiện hành.
Kể từ khi Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 được ban hành ngày 29 tháng 11
năm 2005, có thể nói hệ thống các văn bản luật, nghị định, thông tư và các văn bản
quy phạm pháp luật khác về đấu thầu đã có xu hướng ngày càng trở nên rõ ràng, đơn
giản, gần với quy định của các tổ chức quốc tế và dễ thực hiện hơn. Công việc đấu
thầu đã dần đi vào nề nếp và trở nên cần thiết đối với xã hội, đồng thời là công cụ
không thể thiếu góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trước áp lực của
tiến trình hội nhập, cơ chế thị trường ngày càng hoàn thiện, yêu cầu về tính minh bạch
và công bằng trong hoạt động mua sắm ở các nước trên thế giới ngày càng đòi hỏi
mức độ cao hơn. Vì vậy, chính sách về đấu thầu cũng cần được luật hoá ở mức độ
ngày càng cao, sát với thực tế hơn và hoàn thiện hơn về nội dung.

18


Với chính sách đổi mới, kinh tế Việt Nam đã được định hướng phát triển theo
cơ chế thị trường và ngày càng vận hành tiếp cận đầy đủ hơn với các quy luật điều
chỉnh đó. Để đảm bảo phát triển thực chất, ba quy luật căn bản điều chỉnh nền kinh tế
thị trường cần phải được hiểu rõ và thực thi tích cực, đó là: Quy luật Cung - Cầu; Quy
luật Giá trị và Quy luật Cạnh tranh.
Trong các quy luật căn bản trên thì quy luật Cạnh tranh là thuộc tính quan
trọng, vừa là công cụ, vừa là đòn bẩy để hai quy luật Cung-Cầu và Giá trị vận hành có
hiệu quả. Tạo dựng được môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch là tiêu chí
hàng đầu để vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phấn đấu, sáng tạo nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình, đồng thời cũng là để tạo dựng niềm tin cho các nhà đầu
tư có chiến lược đầu tư và tạo dựng quan hệ thương mại dài hạn. Ngược lại, nếu môi
trường cạnh tranh không đảm bảo lành mạnh, thiếu minh bạch và tính giải trình thấp
sẽ đánh mất động lực, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp tham gia thị
trường dẫn đến hậu quả là cơ chế thị trường sẽ dần biến mất, động lực phát triển của
nền kinh tế sẽ tàn lụi dần, không thể hội nhập được với thị trường cạnh tranh ta đang

theo đuổi.
Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 ra đời và được
hoàn thiện tại Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 cùng các hướng dẫn về công tác đấu
thầu như Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ, các thông tư
hướng dẫn liên quan đã thể hiện rõ các quan điểm và giải pháp đảm bảo cho việc thực
thi quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường nêu trên. Các mục tiêu chính mà Luật
Đấu thầu hướng tới là:
- Đảm bảo tính hiệu quả tổng thể cao nhất của chi phí bỏ ra.
- Tạo dựng môi trường cạnh tranh công bằng, minh bạch để cơ chế vận hành
ổn định, phát triển bền vững.
- Ứng dụng ngày càng rộng rãi và hiệu quả công nghệ thông tin tiên tiến.
Với các mục tiêu và phương châm để đảm bảo cho quy luật cạnh tranh được
vận hành tốt như nêu trên, Luật Đấu thầu 2013 đã cụ thể hóa thông qua các mảng nội
dung sau:

19


(i) Áp dụng các quy trình lựa chọn nhà thầu khoa học, cập nhật tiên tiến nhất
và phù hợp với thực tiễn.
(ii) Kế hoạch lựa chọn nhà thầu với đầy đủ nội dung được luận chứng khoa
học lựa chọn phương án cho mỗi nội dung và là bước yêu cầu bắt buộc thông qua cấp
cao nhất phê duyệt, bao gồm: phân chia gói thầu, phương thức phân chia và quản lý
rủi ro trong hợp đồng và hình thức lựa chọn nhà thầu.
(iii) Công khai thông tin để đảm bảo tính minh bạch thông qua việc vận hành
trang thông tin điện tử quốc gia và báo giấy.
(iv) Thương mại tự do qua mô hình thương mại điện tử và đấu thầu qua
mạng.
(v) Chuyên nghiệp hóa cao trong đấu thầu thông qua việc xác lập, quy định
về các tổ chức tư vấn đấu thầu chuyên nghiệp và chứng chỉ chuyên môn trong đấu

thầu.
(vi) Hệ thống yêu cầu kiểm soát tính tuân thủ được quy định cụ thể.
Luật Đấu thầu đã quy định chi tiết về thủ tục, quy trình và nội dung từng bước
để thực thi các mục tiêu trên. Có thể nói, Luật Đấu thầu là một trong những công cụ
mẫu mực phục vụ tích cực cho cơ chế thị trường phát triển. Hiện nay, Chính phủ và
Quốc hội đang đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật, đổi mới cơ
chế quản lý trong tiến trình đổi mới thể chế kinh tế với mục tiêu để đảm bảo các điều
kiện để nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật đầy đủ của nó.
Để đảm bảo cho việc tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng cao, Luật Đấu
thầu cũng đã có hệ thống các điều khoản kiểm soát tính tuân thủ, quy định chi tiết cơ
chế kiểm tra giám sát việc tuân thủ đó. Các quy định đó được thể hiện qua một số nội
dung, như:
- Quy định về đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu
- Quy định về các yêu cầu tối thiểu đáp ứng về năng lực, kinh nghiệm, tiêu
chuẩn áp dụng.
- Các nhóm hành vi (9 nhóm) bị cấm trong đấu thầu.
- Cơ chế giải quyết kiến nghị và tranh chấp trong đấu thầu.

20


×