Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

TĂNG CƯỜNG VẬN DỤNG CÁC BÀI TOÁN CÓ NỘI DUNG THỰC TIỄN VÀO DẠY HỌC MÔN TOÁN ĐẠI SỐ NÂNG CAO 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.48 KB, 73 trang )

1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÊ THỊ THANH PHƯƠNG

TĂNG CƯỜNG VẬN DỤNG CÁC BÀI TỐN CĨ NỘI DUNG THỰC TIỄN
VÀO DẠY HỌC MƠN TỐN
ĐẠI SỐ NÂNG CAO 10 - THPT

2

Công trình đ-ợc hoàn thành tại:
Tr-ờng đại học SƯ PHạM

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS NGUYN NGC UY

Phản biện 1:............................................................................
.............................................................................
Ph¶n biƯn 2:............................................................................
.............................................................................

Chun ngành: Lý luận và phương pháp dạy hc
Mó S: 60.14.10
Luận văn sẽ đ-ợc bảo vệ tr-ớc Hội đồng chấm Luận văn:

...............................................................................................

TểM TT LUN VN THC S GIO DC


Vào hồi:

giờ

ngày .... tháng .... năm 2008

Có thể tìm hiểu Luận văn tại:
Th- viện tr-ờng Đại học S- phạm

THI NGUYấN - 2008


3

4

PHẦN MỞ ĐẦU

cuộc đời. Chế Lan Viên thể hiện sự phấn đấu vươn lên “từ thung lũng đau

1. Lí do chọn đề tài

thương ra cánh đồng vui” trong Ánh sáng và phù sa. Tế Hanh xúc động cao

Nền thơ cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 trải qua nhiều chặng

độ và xót xa thương nhớ đối với Miền Nam, tin tưởng ở miền Bắc: Gửi miền

đường khác nhau, mỗi chặng đường thơ đều gắn liền với những sự kiện


Bắc, Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương. Các nhà thơ khác như Nguyễn Bính,

chính trị lớn, chi phối tồn diện đời sống xã hội và đã đạt được những

Lưu Trọng Lư, Hoàng Trung Thơng… đều có những tập thơ của riêng mình

thành tựu đáng ghi nhận.

được bạn đọc u thích.

Nhìn lại chặng đường thơ hơn nửa thế kỷ qua, có thể nói thời kì 1954 -

Thực tế sáng tác, số lượng và chất lượng thơ thời kỳ 1954 – 1964 đã

1964 được đánh giá là giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề” giữa thơ ca

tạo nên phẩm chất mới cho thơ: cảm xúc thơ phong phú, nhuần nhị, nghệ

thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Sau những năm kháng chiến chống Pháp,

thuật thơ có nhiều tìm tịi khám phá, đội ngũ sáng tác đơng, có trình độ vốn

thơ viết về đất nước mở ra nhiều hướng khai thác và có nhiều sáng tạo mới

sống vững vàng.

mẻ. Đây là giai đoạn mà thơ ca có nhiều mùa gặt bội thu. Nhiều nhà thơ tìm

Qua tìm hiểu thơ Việt Nam 1954 - 1964 chúng tôi nhận thấy thơ ca thời


được cảm hứng từ hiện thực và vẻ đẹp của con người hăng say xây dựng cuộc

kì này từ trước tới nay đã được giới chun mơn quan tâm, nhưng nhìn chung

sống mới. Thơ ca giai đoạn này là mối duyên đầu của tấm lòng nhà thơ với
chủ nghĩa xã hội. Những đổi thay tốt đẹp từng ngày trong cuộc sống cùng với
những tưởng tượng về cuộc sống ngày mai tươi sáng, gần gũi đã tạo nên
những tứ thơ đẹp giàu ước mơ và chân thực. Hai miền Nam Bắc tuy có những
yêu cầu khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Có thể nói thơ ca thời kỳ này phát triển cao ở nhiều phương diện, từ lực
lượng sáng tác đến sự ra đời của ý thức nghệ thuật mới, cảm hứng mới. Đa
dạng về sự tìm tịi, về cá tính sáng tạo và định hình nhiều phong cách nghệ
thuật, tạo nên sự khởi sắc cho cả một giai đoạn thơ. Hầu hết các nhà thơ đều
xuất bản những tập thơ riêng có giá trị.
Tố Hữu, lá cờ đầu của thơ ca cách mạng cho ra đời tập thơ Gió Lộng,

chưa được nghiên cứu một cách tồn diện về thành tựu, chất lượng chung cả
phong trào cũng như những đặc điểm nổi bật của nó. Luận văn Đặc điểm thơ
Việt Nam thời kỳ 1954 - 1964 của chúng tôi mong muốn bổ khuyết phần nào
sự thiếu hụt đó, góp phần đưa ra một cách nhìn có hệ thống và đầy đủ hơn về
thơ Việt Nam thời kì 1954 - 1964.
Đây cũng là thời kì có nhiều bài thơ được giảng ở trường phổ thông các
cấp, các trường đại học, cao đẳng. Việc chọn đề tài này giúp cho người viết có
cái nhìn sâu rộng hơn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy của mình đồng thời
cũng qua đây hy vọng đóng góp phần nào cho q trình tiếp cận giảng dạy
văn học sử trong nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ ca giai đoạn 1954 - 1964 là một bộ phận cấu thành nên thơ ca hiện
đại Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay. Bởi vậy, việc


Xuân Diệu giải quyết vấn đề “riêng - chung” qua ba tập thơ: Riêng chung,

nghiên cứu đặc điểm của thơ ca giai đoạn này gắn liền với việc nghiên cứu

Mũi Cà Mau - Cầm tay, Một khối hồng. Huy Cận ngợi ca đất nước đổi mới

quá trình hình thành và phát triển của cả nền thơ Việt Nam sau Cách mạng

và dựng xây bằng ba tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài ca


5

6

tháng Tám. Nhìn chung, có thể chia lịch sử nghiên cứu thơ thời kỳ 1954 -

đạo trong thơ ca suốt một giai đoạn mới. Trong thơ ca có tiếng nói da diết nhớ

1964 theo những mảng chính như sau:

thương về tình cảnh đất nước cịn bị chia cắt hai miền. Nhưng trước hết bài ca

2.1. Những cơng trình bàn trực tiếp về thơ thời kỳ 1954 - 1964

về đất nước là bài ca thắng lợi, bài ca xây dựng”.

Trước hết là các cơng trình nghiên cứu thể hiện trong các giáo trình Đại


Năm 2003, trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại mới, PGS.

học ngành Ngữ văn. Ngay từ năm 1961, GS. Hoàng Như Mai đã dành

Nguyễn Văn Long cũng đưa ra những nhận định của mình về thơ trong 10 năm

Chương XXI trong cuốn Văn học Việt Nam thời hiện đại (1945 - 1960) để

hịa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp: “Thơ trong khoảng 10 năm từ

trình bày về “Thơ ca hồ bình lập lại”. Trong khi đánh giá chung về sự phát

1955 - 1964 đã có bước phát triển mới phong phú đa dạng và vững chắc, trên

triển và thành tựu của thơ ca trong vòng 6 năm sau ngày hồ bình (1954),

cơ sở những thành tựu và phương hướng mà thơ ca kháng chiến đã đạt được”.

Giáo sư cũng đã bước đầu chỉ ra một số đóng góp của các nhà thơ tiêu biểu
như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…

Bên cạnh những cơng trình khái qt về một giai đoạn thơ ca nói trên
cịn có nhiều bài viết đánh giá chung về tình hình phát triển của văn học qua

Đồng thời, năm 1962 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng cho ra đời

các chặng đường. Trong đó có thành tựu của giai đoạn 1954 - 1960 hoặc1954

cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập VI (1945- 1960) của PGS


- 1964. Đáng chú ý có bài viết của Xuân Diệu Mười lăm năm thơ Việt Nam

Huỳnh Lý và Trần Văn Hối. Trong đó, các tác giả đã nêu ra ba đặc điểm của

dân chủ cộng hoà. Đây là lời nói đầu của tập Thơ Việt Nam 1954 - 1960.

thơ ca giai đoạn này là: thơ đi vào hai loại đề tài là đấu tranh thống nhất nước

Mặc dù ở điểm nhìn trong khoảng 5 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ

nhà và lao động kiến thiết xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc. Những năm về sau

nhưng Xuân Diệu đã nhận ra rằng: “…thơ của ta, những năm gần đây 1958,

trong các cơng trình nghiên cứu của mình, các tác giả của hai trường Đại học

1959, 1960 có một bước nhảy quan trọng về chất lượng”.

(Sư phạm và Tổng hợp) tiếp tục có Chương, Mục đánh giá về thơ giai đoạn

Nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh (1960), Hồ Tuấn

1954 - 1964 như Văn học Việt Nam 1954 - 1964 của Mã Giang Lân- Lê Đắc

Niêm có bài trên Tạp chí Nghiên cứu văn học “Mười lăm năm văn học Việt

Đô (1990). Văn học Việt Nam 1945 -1975, tập I của GS. Nguyễn Đăng Mạnh

Nam dưới chế độ dân chủ cộng hoà” cũng biểu dương thành tựu của thơ ca


và PGS. Nguyễn Trác, PGS. Trần Hữu Tá. GS. Mã Giang Lân cho rằng: “Thơ

giai đoạn sau 1954 qua một số tác giả tiêu biểu.

giai đoạn này đã vượt qua những kể lể mộc mạc của giai đoạn trước, cố gắng

2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả, tác phẩm

khám phá ra vẻ đẹp bên trong của cuộc sống, khái quát tạo ra những hình

Đánh giá thành tựu về thơ của một giai đoạn, không thể tách rời phong

tượng thơ có tính chất điển hình. Thơ không chịu nằm lỳ trong những thể loại

trào sáng tác nói chung với các đỉnh cao của nó. Rất nhiều các bài nghiên cứu,

đã định hình từ trước mà nó ln tìm tịi sáng tạo”...

phê bình về các tập thơ, bài thơ của các tác giả ra đời trong thời kỳ 1954 -

Năm 1979, trong bộ sách “Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975)” viết
cùng giáo sư Phan Cư Đệ, giáo sư Hà Minh Đức có nhận định về “Thơ ca

1964 đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn diện mạo của thơ Việt Nam
giai đoạn này.

những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội” như sau: “Cảm hứng về đất

Có thể kể đến các bài của Hồi Thanh, Hà Xuân Trường, Bảo Định


nước anh hùng, về tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp vẫn là cảm hứng chủ

Giang, Lê Đình Kỵ viết về tập Gió Lộng (1961) của Tố Hữu. Các bài của Xuân


7

8

Diệu, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức viết về tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960)

phạm vi thơ trẻ nhưng ít nhiều bài viết của Chế Lan Viên đã mang tính chất

của Chế Lan Viên. Các bài của Phan Cự Đệ, Lê Nhuệ Giang, Vũ Đức Phúc viết

đánh giá phong trào của một thời kỳ thơ.

về các tập thơ Riêng chung (1960), Một khối hồng (1964) của Xuân Diệu. Các

2.3. Các cơng trình nghiên cứu tồn bộ sự nghiệp của các nhà thơ, trong đó có

bài của Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ, Đào Xn Q, Nguyễn Hồnh Khung viết

chặng đường 1954 - 1964. Tiêu biểu là các công trình; Nhà thơ Việt Nam

về các tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời

hiện đại [56], Thơ những gương mặt [53], Thơ những cuộc đời [46] Nghệ

(1963) của Huy Cận. Các bài của Lê Đình Kỵ, Đỗ Hữu Tấn, Nguyễn Đình,


Tĩnh gương mặt nhà văn hiện đại [56]… Những cơng trình này thường tập

Hoàng Minh Châu, Thiếu Mai viết về các tập thơ Gửi miền Bắc (1958), Tiếng

chung giới thiệu quá trình sáng tác, những nét riêng trong phong cách, cá tính

sóng (1960), Hai nửa yêu thương (1963) của Tế Hanh…

sáng tạo, sự trưởng thành trên con đường nghệ thuật của các nhà thơ tiêu biểu

Nhìn chung, các bài viết về từng tập thơ thường hướng theo phân tích

trong nền thơ Cách mạng như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,

tác phẩm, nghiêng về khẳng định những thành cơng và đóng góp của tập thơ,

Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Hồng Trung Thơng, Nguyễn Bính, Anh Thơ,

khẳng định vị trí của tập thơ trong quá trình sáng tác của tác giả. Các ý kiến

Nơng Quốc Chấn, Bàn Tài Đồn, Thu Bồn, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật… Ở

đó thường nghiêng về sự biểu dương các thành tựu của cả phong trào cũng

những công trình này, các bài viết chú trọng tới việc dựng chân dung tổng

như đặc điểm phong cách nhà văn. Tuy nhiên nó thường được nhìn nhận một

qt về từng nhà thơ, khẳng định phần đóng góp và vị trí của từng nhà thơ


cách riêng lẻ (nhất là các bài viết về từng tập thơ).
Đó là chưa kể nhiều bài viết giới thiệu các nhà thơ có tác phẩm ra đời

trong nền thơ dân tộc, mà khơng tiếp cận ở góc độ văn học sử - dựng diện
mạo của giai đoạn thơ.

vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, thời điểm được mệnh danh là “mùa

Nhìn lại lịch sử nghiên cứu thơ 1954 - 1964 ta có thể thấy

gặt” của văn học ta nói chung và thơ ca nói riêng.

- Đây là một thời kỳ phát triển mới giàu thành tựu (xét trên nhiều

Với sự xuất hiện của tuyển tập thơ: Tiếng hát miền Nam, Sức mới

phương diện từ đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, phẩm chất thơ, phong

(Tập thơ bạn trẻ)… cũng có những bài phê bình giới thiệu kịp thời. Trong bài

cách sáng tạo…) trong tiến trình của nền thơ Cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên

Tựa tập thơ Sức mới, Chế Lan Viên khẳng định sự phát triển của phong trào

việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá này cịn chưa tương xứng với vị trí, thành

thơ, thành công của một hướng đi: từ cuộc sống gắn bó với cuộc sống “nồng

tựu và những đóng góp của nó. Phần lớn các cơng trình, các bài viết, các bài


ấm hơi thở cuộc sống”, tuy cịn hạn chế khơng nhỏ “còn chọn lọc cuộc sống

nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những tác phẩm, những tác giả riêng lẻ biệt lập

theo một quan niệm “thi vị hoá” khá lỗi thời” “còn lên gân, nhồi nhét các chữ

hoặc được nhắc tới khi nghiên cứu về cả tiến trình chung của thơ Cách mạng

ầm ĩ, ồn ào trong lời văn tụng ca cuộc sống”, phải làm sao cho “ngọn lửa lí
tưởng trong thơ của thế hệ trẻ bừng cháy thêm” “chất thép sắc nhọn thêm”,
“mỗi ngày càng thêm có màu sắc dân tộc”. Dẫu còn sơ lược và chỉ dừng ở

Việt Nam mà chưa xem xét và đặt nó như một đối tượng nghiên cứu riêng
biệt, cũng chưa đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng toàn diện.
Với luận văn này, trên cơ sở tiếp thu kế thừa những giáo trình, những bài viết,
những nhận định, đánh giá mà các nhà nghiên cứu đưa ra thật sự có giá trị. Đó


9

10

là những tư liệu định hướng, gợi ý đối với chúng tơi trong q trình triển khai

Mở rộng phạm vi đề tài, xu hướng khái quát, tổng hợp, triết lí, suy tưởng và

đề tài này.

xu hướng tự do hố hình thức thơ.


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu đặc điểm thơ thời kỳ 1954 1964 trong tiến trình thơ VNHĐ, từ phương diện cảm hứng và các xu hướng
khám phá thể hiện. Trên cơ sở đó đánh giá, khẳng định thành tựu nổi bật của

Qua đó nhằm góp phần khẳng định vai trị - vị trí của giai đoạn thơ
1954 - 1964 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh - lịch sử: phương pháp này nhằm so sánh tìm ra

thơ thời kỳ này.

những đặc điểm tiêu biểu của thơ thời kỳ 1954 - 1964 trong tương quan với

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

đặc điểm thơ các giai đoạn khác.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ thời kỳ 1954 - 1964, chủ yếu
là phong trào sáng tác thơ của ba lực lượng: Thơ của các nhà thơ có sáng tác
từ trước Cách mạng tháng Tám, thơ của các nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Pháp và thơ của các nhà thơ trẻ xuất hiện sau 1954.
Chủ yếu khảo sát những bài thơ có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ
thuật và một số tập thơ của các nhà thơ tiêu biểu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm thơ của các tác giả
tiêu biểu từ 1954 - 1964 với trọng tâm là thơ Cách mạng, thơ kháng chiến.
Luận văn chưa có điều kiện đề cập tới mảng thơ ở các đô thị miền Nam được
sáng tác theo những cảm hứng nội dung tư tưởng khác. Bên cạnh đó để làm rõ
các đặc điểm thơ Việt Nam thời kỳ 1954 - 1964 luận văn lấy các tác phẩm
tiêu biểu trong thơ các giai đoạn khác để tiến hành so sánh.

5. Những đóng góp của luận văn
Luận văn đóng góp một cách nhìn tồn diện, có hệ thống về thơ thời kỳ
1954 - 1964. Nêu lên những nhận định bước đầu, có tính chất khái qt mà trước
đây chỉ mới được phác qua về những tác phẩm cụ thể, những khía cạnh riêng lẻ.
Phác thảo diện mạo chung của đội ngũ, nêu lên những đường nét cơ
bản về sự vận động và phát triển của lực lượng sáng tác, ý thức nghệ thuật,
phong cách nghệ thuật tiêu biểu và các xu hướng vận động phát triển của thơ.

- Phương pháp hệ thống - phân loại: phương pháp này nhằm tìm kiếm
sắp xếp các yếu tố, có cùng tính chất để phân tích, đánh giá, tổng kết vấn đề.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: làm nổi lên giá trị của các tác phẩm
thơ, kết cấu văn bản thơ ở từng đơn vị và trong hệ thống vận động của thể loại.
7. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 3 chương :
- Chương 1: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 trong tiến trình thơ Việt Nam
hiện đại.
- Chương 2: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 nhìn từ phương diện cảm hứng
nghệ thuật.
- Chương 3: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 nhìn từ các xu hướng khám phá,
thể hiện.
Phần kết luận
Thư mục tài liệu tham khảo


11

12

Chương 1

THƠ THỜI KÌ 1954 - 1964 TRONG TIẾN TRÌNH THƠ
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

mới chất đời mới. “Ơng khơng chịu chung quy luật chín lại với thực tế mới
của một số nhà thơ lớp trước và đã vượt qua được bước sơi nổi ban đầu nhưng
cịn chưa vững chắc của lớp nhà thơ mới lớn lên với cách mạng tháng Tám”
[22, 134]. Là người cùng thế hệ với nhiều nhà Thơ mới, Tố Hữu trước khi

1.1. ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA Ý THỨC NGHỆ
THUẬT MỚI

1.1.1. Đội ngũ các nhà thơ
Như một sự tất yếu của mỗi thời kì lịch sử, mỗi giai đoạn văn học, đều
cần có một đội ngũ sáng tác văn học của mình.
Hợp thành đội ngũ thơ 1954 - 1964 là ba lực lượng chính: Thế hệ các
nhà thơ tiền chiến được rèn luyện thử thách và “lột xác” từ trong lò lửa của
cuộc kháng chiến chín năm, những nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ
ca kháng chiến chống Pháp và đáng chú ý là lớp nhà thơ mới xuất hiện, được
nuôi dưỡng và trưởng thành sau hồ bình (1954).
Đối với các thế hệ nhà thơ có q trình sáng tạo nghệ thuật trước cách
mạng tháng Tám: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Bính, Anh Thơ… đội ngũ ấy bao gồm những nhà thơ đã
trải qua cuộc đời nô lệ của người dân mất nước, hồ hởi đến với cách mạng
“Như chờ vang tiếng sét giữa trời mây” (Chế Lan Viên), đây là giai đoạn
phát triển đến đỉnh cao trên nhiều phương diện: Ý thức nghệ thuật, cá tính
sáng tạo và thành tựu thơ.
Đến với Tố Hữu - một thi sĩ có “tầm cỡ khai sáng cho cả nền thơ trữ
tình cách mạng” [45,280], con chim đầu đàn vạch hướng cho cả một nền
thơ, là người “mở đường” và tiêu biểu nhất cho nền thơ cách mạng. Ngay từ
tiếng nói thơ ca đầu (trước cách mạng), Tố Hữu đã thể hiện rõ một con đường

đi, một hướng sáng tạo. Bởi vậy ngay từ đầu Tố Hữu đã chín với chất sống

giác ngộ lí tưởng cách mạng cũng tìm thấy ở họ những tâm trạng gần gũi với
mình trong lúc đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Nhưng con đường thơ
Tố Hữu đã khác hẳn những con đường của các nhà thơ mới, vì nó gắn liền với
lí tưởng cộng sản và cuộc đấu tranh cách mạng. Sau chặng đường 10 năm
hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của
người thanh niên cách mạng qua tập thơ Từ ấy. Tập thơ Việt Bắc bản hùng ca
của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao, anh
dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Đến
Gió lộng ra đời đánh dấu bước tiến mới của thơ Tố Hữu, ghi nhận thành tựu
đáng kể của thơ ông: một tâm hồn thơ lớn, một nghệ thuật biểu hiện “già dặn”
và “nhuần nhị” hơn. Trong thơ ở chặng đường này đáng chú ý nhất về mặt đội
ngũ tác giả là sự tự khẳng định trở lại của nhiều nhà thơ thuộc thế hệ Thơ
mới. Qua mười năm đến với cách mạng, với nhân dân và kinh qua cuộc kháng
chiến đầy gian lao thử thách, nhiều nhà thơ của thế hệ thơ này đã thực sự đổi
mới tư tưởng và cảm xúc. Họ đã vượt qua được những khó khăn của cuộc
“nhận đường”, “lột xác”, trải qua cuộc đời nô lệ của người dân mất nước, hồ
hởi đến với cách mạng như từ Thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, trải
qua một cuộc đấu tranh để “…phá cơ đơn - Ta hồ hợp với người” tìm ra mái
ấm cho tâm hồn mình: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi - Cùng đổ mồ
hôi, cùng sôi giọt máu”. Các nhà Thơ mới đã xác định được con đường nghệ
thuật mới và tìm được tiếng nói nghệ thuật của mình, phù hợp với yêu cầu của
thời đại. Nhà thơ Tế Hanh đã Tâm sự :


13

14


Hỡi người bạn! Hãy nhập vào đại chúng

mới trong kháng chiến chống Pháp cịn rất hạn chế. Cái tơi trữ tình của nhà

Cuộc đời riêng hồ với cuộc đời chung.

thơ thường vẫn bị khuất lấp sau hiện thực và đối tượng miêu tả. Thành quả

Như con sơng dặm ngàn tìm lẽ sống

chưa nhiều nhưng mỗi nhà thơ đều có những bài thơ ý nghĩa “đánh dấu” sự

Vào đại dương cho thoả chí vơ cùng

chuyển biến của nhận thức, xúc cảm và bút pháp góp phần vào thành tựu

Ta là một, ta vừa là tất cả

và “lột xác” từ trong lò lửa của cuộc kháng chiến chín năm. Giờ đây sau

chung. Chỉ từ sau hồ bình (1954) các nhà thơ mới được rèn luyện, thử thách

Nhập vào đời, ta ấy “Tôi” hơn.
(Tâm sự - Tế Hanh)
Sự chuyển hướng của nhà thơ lãng mạn sang thơ hiện thực, lấy sự gắn
bó với cuộc sống, cuộc kháng chiến cứu nước làm cốt lõi của thơ, là đáp ứng
một địi hỏi có tính quy luật, một điều không cưỡng lại được. Con đường đi
đến với cách mạng của những nhà thơ lớp trước khá vất vả, không phải là một
vài năm mà hàng chục năm. Đó khơng chỉ là sự giác ngộ về lí trí mà quan
trọng là ở sự rung động thực sự về tình cảm. Một cuộc tìm đường “trầy trật”

để đến với phương hướng mới, từ một cái tôi cá nhân cô đơn luôn ước ao
“vun hết là vàng để chắn nẻo xn sang”(Chế Lan Viên). Ln cho mình là
“Ta là một, là riêng là thứ nhất”(Xuân Diệu), luôn bơ vơ rợn ngợp giữa cô
đơn “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” đến với cái tôi công dân, cái ta chung
rộng lớn của cả cộng đồng, hướng về những tình cảm những ý nguyện của cả
cộng đồng, hướng vào khai thác những chất thơ của đời sống kháng chiến.
Các nhà thơ của thế hệ Thơ mới phải trải qua hàng chục năm đi với cách
mạng và nhân dân. Đến thời kì này thực sự tìm lại được cái “tơi” của mình
trong sự hoà hợp, thống nhất với cuộc đời chung với nhân dân và xã hội, niềm
hạnh phúc trong sự hoà hợp giữa cái riêng và cái chung: “Bốn mùa vây quanh,
Con người ở giữa, Tôi ở giữa người”. Nhờ thế, các nhà Thơ mới bước đầu đã
có những đóng góp quý vào nền thơ kháng chiến. Do vậy, xét về mặt hiệu quả
nghệ thuật, q trình đóng góp, tìm tịi để đổi mới hồn thơ của các nhà Thơ

những ngày bám rễ vào cuộc sống thực tế, họ càng trở nên chín chắn, đồng
thời lại có điều kiện đi sâu thâm nhập vào đời sống, đã “chín” lại với thực tế
đời sống chiến đấu, lao động đông đảo của quần chúng - đã “chín” lại trong
một quan niệm nghệ thuật mới - nghệ thuật gắn bó với đời sống phục vụ cuộc
sống và con người. Các nhà thơ mới bước vào một giai đoạn sáng tác mới, với
tâm thế thanh thản, tự tin, mạnh dạn tìm tịi khám phá và sáng tạo. Mảnh đất
màu mỡ đã làm nảy nở những hạt giống mới một cách nhiệm màu, tâm hồn
các nhà thơ như trẻ lại, tài năng như thực sự được hồi sinh họ như tìm thấy
chính mình giữa cuộc đời rộng lớn, cuộc đời cách mạng, hoà nhịp đập trái tim
nhiệt huyết của mình vào trong niềm vui xây dựng cuộc sống. Chặng đường
thơ từ sau 1954, đã đem lại cho phong cách nghệ thuật của các nhà thơ những
nét mới, những biến đổi mà nguồn gốc sâu xa là từ sự biến đổi trong tư tưởng
và cảm xúc cùng với sự trải nghiệm đời sống của họ đã tạo nên cái nhìn và
giọng điệu riêng của mỗi nhà thơ.
Người đọc có thể nhận ra sức mạnh của cảm xúc, những cảm giác tinh
tế tạo nên cách cảm nhận thế giới nghiêng về trực giác, trực cảm của Xuân

Diệu qua: Riêng chung (1960), Mũi cà mau - Cầm tay (1962), Một khối
hồng (1964); sức mạnh trí tuệ trong những suy tưởng triết lí qua Gửi các anh (1955),
Ánh sáng và phù sa (1960) của Chế Lan Viên, liên tiếp ngợi ca đất nước Trời
mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963) của
Huy Cận, xúc động cao độ và thực tế nỗi xót xa, lịng thương nhớ, niềm tin


15

16

tưởng của miền Bắc đối với Lòng miền Nam (1956), Gửi miền Bắc (1958),

về (1961). Nông Quốc Chấn nhà thơ Tày, năm 1943 đã kể chuyện Việt Bắc

Nhân dân một lịng (1960), Tiếng sóng (1960) Hai nửa u thương (1963)

đánh giặc nay hồ bình được hân hoan với Tiếng ca người Việt Bắc (1962)

của Tế Hanh, Đồng tháp mười (1955), Gửi người vợ Miền Nam (1955),

và Người núi hoa (1961)…

Đêm sao sáng (1962) của Nguyễn Bính…

Sự bổ sung, tiếp nối các thế hệ nhà thơ là quy luật tự nhiên, tất yếu của

Bên cạnh đội ngũ sáng tác có tên tuổi trước cách mạng, là lớp nhà thơ

mỗi nền thơ. Đến giai đoạn thơ 1954 - 1964, cùng với hai lực lượng chủ đạo:


trưởng thành trong phong trào thơ ca kháng chiến chống Pháp, đến đây vẫn

các nhà thơ trước cách mạng tháng Tám và các nhà thơ xuất hiện trưởng

tiếp tục phát huy tài năng của mình. Mặc dù ở họ có những thành cơng khác

thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã có sự bổ sung đáng quý của một

nhau, nhưng ở mỗi nhà thơ có những nét riêng với những vần thơ giản dị chân

lực lượng sáng tác trẻ xuất hiện từ sau hồ bình: Nguyễn Bao, Xuân Quỳnh,

thành, hồn hậu, đậm đà tình cảm thực của quần chúng. Họ đã hợp thành

Bằng Việt, Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), Bùi

khuôn mặt chung của lớp người cầm bút, khoẻ khoắn và nồng nhiệt: Nguyễn

Minh Quốc, Phạm Tiến Duật, Vân Long… Lực lượng thơ trẻ dào dạt bay

Đình Thi, Chính Hữu, Vũ Cao, Hồng Trung Thơng, Quang Dũng, Hồng

bổng trong cảm hứng về cuộc sống mới, họ nói được một cách tự nhiên, đằm

Cầm, Nơng Quốc Chấn, Bàn Tài Đồn, Trần Hữu Thung…
Những con người này họ được rèn luyện và trưởng thành từ những
công tác kháng chiến, từ phong trào văn nghệ quần chúng. Thực tế lớn lao của
kháng chiến, đã thôi thúc họ cầm bút, họ tạc được những nét chắc khoẻ của
hình ảnh kháng chiến, dồi dào những cảm xúc tươi mới của đời sống. Nếu

như chín năm kháng chiến chống Pháp đã tạo sự quyết định trong tư tưởng
tình cảm của các nhà thơ, thì hiện thực những năm xây dựng hồ bình và đấu
tranh thống nhất đã bồi đắp vững chắc cho tư tưởng, tình cảm và mở rộng
nguồn cảm xúc. Họ đạt đến một độ “chín” thực sự xét trên cả hai phương

thắm lí tưởng mới con người mới, họ mang đến cho thơ hơi thở nồng ấm của
của cuộc sống dựng xây náo nức trên miền Bắc sau hồ bình. “Họ ở trong
nhiều ngành nghề, địa phương khác nhau, đứng từ nhiều góc độ khác nhau để
nhìn cuộc sống. Do đó, gộp tất cả các cái nhìn riêng của họ lại, ta có một số
thành khơng đơn điệu, một cái nhìn chung khá phong phú về cuộc đời [59,6]. Và
đây, chính là đội ngũ chủ lực của thơ chống Mỹ. Thời kì này, thơ cịn được tiếp
sức bằng một đội ngũ các nhà thơ trực tiếp sống trong cuộc chiến đấu gian khổ ở
miền Nam. Lực lượng này sẽ mang đến cho thơ những Tiếng hát miền Nam với
âm hưởng riêng, đau thương nhưng vô cùng anh dũng, thuỷ chung.
Sự phát triển vững chãi về lực lượng sáng tác này là cơ sở chắc chắn để

diện: cảm hứng sáng tạo và nghệ thuật thơ, đặc biệt đạt đến sự hài hoà, nhuần

tạo nên những thành tựu xuất sắc của thơ giai đoạn 1954 - 1964.

nhị giữa hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng, một số nhà thơ đã xuất

1.1.2. Sự trưởng thành của ý thức nghệ thuật mới

bản những tập thơ có giá trị riêng, tiêu biểu như: Nguyễn Đình Thi với Người

Năm 1954, miền Bắc được hồn tồn giải phóng đem lại sự biến đổi kì

chiến sĩ (1956) và Bài thơ Hắc Hải (1959), Hồng Trung Thơng với Q


diệu cho con người. Các nhà thơ hồ nhịp đập của trái tim mình trước hiện

hương chiến đấu (1955), Những cánh buồm (1964), Trần Hữu Thung có liên

thực cuộc sống mới. Khi mà tình cảm thẩm mĩ đã cùng nhịp đập với lí tưởng

tục ba tập thơ: Đồng tháng tám (1955), Ngày thu ấy (1957), Gió nam (1962),

cách mạng, họ đi sâu xâm nhập vào đời sống lao động sản xuất và chiến đấu,

Nguyễn Xuân Sanh hết nghe Tiếng quê ta (1955) lại Lắng nghe bước xuân

họ đã tìm thấy cho mình một mảnh đất riêng để khám phá, để bộc lộ.


17

1.1.2.1. Trưởng thành trong nhận thức về bản chất chức năng của thơ ca

18

một mức độ cao, đặt cho thơ một nhiệm vụ lớn và sâu, đòi hỏi các thi sĩ phải

Có thể nói, thơ ca thời kì 1954 - 1964 đã mang những dấu ấn đặc sắc

làm thơ hay hơn nữa, “tức là đưa thêm cái phần lãng mạn bay bổng kết bạn

riêng của nó khó trộn lẫn với bất cứ giai đoạn nào khác trong lịch sử thơ ca

khăng khít với cái phần hiện thực vững vàng…tăng cường chất thơ, chất suy


hiện đại. Trước hết, đó là sự đổi mới trong quan niệm về bản chất và chức

nghĩ hình tượng, chất cảm xúc, chất nhạc điệu” [13.172]. “Những con ong hút

năng thơ ca. “Thơ lúc này khơng cịn là ngôi đền thiêng cách biệt của cái tôi

nhuỵ từ những bông hoa của đời sống” [20,169] đã ý thức rõ ràng và sâu sắc

cô đơn, thu về trong cái vỏ cá nhân với nỗi buồn uỷ mị chán chường mà chỉ

hơn về tính chất “chuyên nghiệp” của cả một nền thơ. “Nói cho cùng thơ là

các thi nhân bước vào mà thơ thuộc về quần chúng, về mọi người cả trong

kết quả của sự nhập tâm” đời sống trí tuệ, tài năng của nhân dân, nhập tâm

sáng tác cũng như tiếp nhận” [61] Nếu như thơ ca giai đoạn kháng chiến

được bao nhiêu là nhờ ở cuộc đời của mình gắn bó được bao nhiêu với nhân

chống Pháp, nằm trong yêu cầu phục vụ kháng chiến đã xác định được nhiệm

dân mình. Nhập tâm từ tâm hồn, tình cảm, đến dáng đi, giọng nói, tiếng khóc,

vụ chức năng thơ ca “Thơ ca phải thể hiện tính chiến đấu cách mạng, trở

tiếng cười. Nhập tâm đến một mức độ nào đó thì thơ ấy hình thành. Có thể

thành một vũ khí tinh thần góp phần giáo dục động viên quần chúng kháng


nói thơ chỉ tràn ra khi con tim ta cuộc sống đã thật đầy [42,439].

chiến” [61,162), “Thơ ca phải phục vụ trực tiếp cơng cuộc cách mạng và

Có thể nói đến giai đoạn thơ này những vấn đề rất cơ bản: Tính dân tộc

kháng chiến, vai trị cơng dân - chiến sĩ - nghệ sĩ của nhà thơ, thơ phải bám

và hiện đại, hiện thực và lãng mạn, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức

chắc đời sống hiện thực, phải trả về cho quần chúng và hướng tới quần

đã được đặt ra khẩn thiết và nghiêm túc. Trên định hướng lớn về đường lối và

chúng”. Vì vậy, thơ ca giai đoạn chống Pháp không quan tâm nhiều đến sự

văn nghệ mà Đại hội Đảng Việt Nam lần thứ ba (1960) đã vạch ra: “Phát triển

tìm tịi hình thức thể hiện ngoại trừ mối quan tâm lớn là “hình thức ấy phải

nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng

rộng rãi và đại chúng” [68,28]. Thơ phải nói tiếng nói đại chúng, thơ phải dễ

và tính nhân dân sâu sắc. Nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa,

đọc dễ nhớ, dễ thuộc, dễ phổ biến. Với quá trình tìm tịi, mị mẫm từ bước

phấn đấu để có thêm nhiều tác phẩm phản ánh chân thật cuộc sống mới, con


nhận đường qua chặng quá độ để đến được sự định hình khn mặt nền thơ ca

người mới góp phần giáo dục và động viên nhân dân đấu tranh cho cách mạng

mới, để đạt tới sự chân thực nghệ thuật. Như giáo sư Hà Minh Đức đã nhận

xã hội chủ nghĩa và cho sự nghiệp thống nhất nước nhà”. Các văn nghệ sĩ đã

xét: Thơ ca kháng chiến có một vẻ đẹp chân thực, giản dị, hồn nhiên, nhưng

nỗ lực không ngừng “đi lên hàng đầu của cuộc sống, học tập và sáng tạo

chưa phong phú, đa dạng. Phong trào thơ có chiều rộng nhưng chưa có chiều
sâu, có thành tựu đáng kể nhưng chưa đều. Hình thức trong thơ nhiều lúc còn
đơn giản sơ lược [22.144] Đến giai đoạn này (Giai đoạn 1954 - 1964) cùng
với những chuyển đổi nội dung, các nhà thơ đã thật sự quan tâm tìm đến một
hướng tìm tịi hình thức vận động nội tại của thơ. Cùng với cuộc sống xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà tiến khơng ngừng lên

khơng ngừng để có nhiều hơn nữa những tác phẩm sâu sắc về nội dung đẹp đẽ
về nghệ thuật nhằm đưa mức tư tưởng của thơ cao hơn nữa” [52, 409]. Thư
của ban chấp hành Trung ương gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai
(1957) cũng nhấn mạnh: “Giá trị của tác phẩm không phải chỉ ở nội dung tư
tưởng mà còn ở phẩm chất nghệ thuật”. Đến giai đoạn này vấn đề cơ bản
được đặt ra: Các văn nghệ sỹ cần chú trọng nâng cao chất lượng nghệ thuật.


19


Khi thơ mở rộng hướng cảm xúc ôm trùm mọi vấn đề trong cuộc sống
hiện thực thì tất yếu phải mở rộng khả năng diễn đạt biểu hiện của thơ. Thơ
phải vừa hiện thực vừa hàm súc, vừa bao quát cụ thể, vừa “thực” lại cũng phải
“say”, phải huyền ảo, trữ tình. Và Chế Lan Viên đã đưa ra quan niệm về sự
chuyển đổi tính chất của thơ:

20

phần cao đẹp của tâm hồn và kết tinh lại ở những cảm xúc trong sáng, những
suy nghĩ cao đẹp tích cực nhất của người nghệ sĩ.
Tế Hanh cũng đã nêu cho mình phương châm sáng tạo qua suy nghĩ:
“Câu thơ đẹp là câu thơ có ích - Uống tự nguồn những suối ban mai”.
Câu thơ “đẹp”, những câu thơ “có ích” với cuộc sống cũng đã được đặt

Thơ xưa hát mà bây giờ tập nói

ra từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Đến thời kì này thơ với cuộc sống lại

Chỉ nói thơi mới nói hết được đời

được quan niệm một cách rõ ràng và sâu sắc hơn, gắn với yêu cầu hết sức lớn

Thơ xưa “hát” nhưng thơ nay phải “nói”, phải “nói” mới mong “nói hết

lao của thời đại, thơ đã được mở rộng cảm xúc theo hướng phong phú, đa

được đời”. Nói như Xuân Diệu: “Nói bao nhiêu cũng cịn chưa đủ, Nói mãi

dạng để có thể bao qt được từ những vấn đề chung lớn lao để hoà với


mãi vẫn là chưa hết, Nói đến chết cũng hãy đang còn”. Trên con đường lớn đi

những nhịp sống chung gần gặn nhất của mỗi con người. Thơ không thể

sâu vào hiện thực, thơ cũng trăn trở tìm một tiếng nói một giọng điệu phù

khơng đi vào cuộc sống, sống trong cuộc sống bởi nếu tách khỏi nó thì thơ ca

hợp, địi hỏi những cách nhìn cách nghe và những cách biểu hiện mới. Cách

sẽ như “cây nhổ khỏi đất ”, “cá ra ngoài nước”. “Thơ là sự thể hiện con người

biểu hiện ở đây khơng chỉ có một cách nói, mà trái lại tìm về cuộc sống thực

và thời đại một cách cao đẹp. Thơ khơng chỉ nói lên tình cảm riêng của nhà

thơ cũng tìm ra nhiều cách nói của cuộc đời. Ở Tố Hữu, ngày càng quan tâm

thơ mà nhiều khi thơng qua tình cảm đó nói lên… ước mơ của nhân dân, vẽ

sâu sắc hơn đến nghệ thuật thơ. Ơng địi hỏi tình cảm trong thơ phải bộc lộ

lên những nhịp đập của trái tim quần chúng”(Sóng Hồng).Các nhà thơ quan

hết vẻ đẹp của nó. “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn trước cuộc
đời nhưng không phải lẽ tự nhiên”: “Thơ ta cần “say”mới thích… Tơi rất
thèm trong thơ một chất lãng mạn mới, một chất men mới làm sao cho thơ
bay bay”. Cái “chất mem mới” là những cảm xúc chín ngọt đủ sức để “đốt
cháy hiện thực thành những vần thơ óng ánh” (Tế Hanh). Những phẩm chất
trên của thơ cũng đòi hỏi một tư duy thơ ca phù hợp. Thơ vẫn đi theo đường

lối văn nghệ cách mạng của Đảng “Nền văn nghệ ta là nền văn nghệ của nhân
dân lao động. Văn nghệ sĩ chúng ta phải là người nói lên cuộc đời và tâm
trạng của cơng nơng, trả lời được những vấn đề của cuộc sống cách mạng đặt
ra” [42.31]. Bởi, “Văn học là cuộc đời”… “Cuộc đời ấy là trái tim của mình
của người nghệ sĩ”. Trái tim ấy nó gắn liền với với tiếng nói yêu thương, với
lời ca tranh đấu, giàu ước mơ và khát vọng, gắn liền với lí tưởng bay bổng,

niệm thơ khơng chỉ là những “hầm chơng giết giặc”, “những dịng thơ lửa
cháy” mà thơ còn là những “dòng thơ tươi xanh” là “nhành hoa mát mặt cho
đời” như “thơ giữa cuộc đời” như “hoa giữa nắng”, làm sao cho “Mỗi câu thơ
che một trận tuyến tâm tình”. Nhà thơ phải làm sao cho thơ mình thật sự
“mang cánh lửa” bay hồ vào cuộc sống chung.
Các nhà thơ đã suy nghĩ và thể hiện một cách nghiêm túc và sâu sắc
nhất về mục đích và nhiệm vụ của thơ ca thời kì này. Với suy nghĩ đó, đã
khiến cho hồn thơ ảo não bậc nhất thơ mới của Huy Cận đã nhìn thấy Trời
mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời. Chế Lan Viên sau bao năm
vật lộn chuyển đổi bản thân thấy Ánh sáng và phù sa kết tụ. Xuận Diệu thấy
sự hài hoà Riêng chung trong nhịp đập Một khối hồng của trái tim dân tộc.
Tố Hữu thênh thang trong Gió lộng với cảm xúc “Gió lộng đường khơi rộng


21

22

đất trời”. Tế Hanh đau đáu Nhớ con sông quê hương xanh biếc. Hoàng

chúng cách mạng, nhà thơ đã xác định được chỗ đứng vững chắc của mình

Trung Thơng thì tự hào: Bàn tay ta làm nên tất cả…Và cũng chính vì thế ở


trong lịng quần chúng:

giai đoạn này mỗi nhà thơ đều có chung tâm sự:

Tơi cùng xương thịt với nhân dân của tôi

Tôi đâu dám tủi buồn quên nhiệm vụ

Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu,

Mỗi câu thơ đều phải vượt lên mình

Tơi sống với cuộc đời chiến đấu

(Chế Lan Viên)
Sau hồ bình, miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội nhà thơ

Của triệu người yêu dấu gian lao
Cùng yêu thương, gắn bó với con người như “ruột thịt”:
Những người ấy với tôi là ruột thịt

Tố Hữu đã đặt nhiệm vụ cho thơ ca:
Thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hót

Trong lời thơ tơi gửi hết yêu thương
(Tiếng sóng - Tế Hanh)

Ca ngợi trăm lần tổ quốc chúng ta
Phải ngợi ca những thành quả tổ quốc ta, nhân dân ta đã đạt được. Để


Vấn đề đặt ra ở đây là thơ ở đây không chỉ đơn thuần là miêu tả tâm tư

cất cao được những tiếng hát ngợi ca mỗi người nghệ sĩ phải gắn mình với

tình cảm mà cịn muốn qua thơ ca thấy một cách đặt và giải quyết những vấn

cuộc đời, với con người và đó cũng là cái đích hướng tới:

đề căn bản, lớn lao, bức thiết của đời sống xã hội, đời sống cá nhân con người:

Bốn mùa vây quanh

“Thơ xưa chỉ hay than mà không biết hỏi

Con người ở giữa

Đảng dạy ta: Thơ phải trả lời”
(Nghĩ về thơ - Chế Lan Viên)

Tơi ở giữa người
(Chế Lan Viên)
Có lẽ vì thế mà về với Tây Bắc về với nhân dân, Chế Lan Viên mới tìm

Xác định được mục đích và nhiệm vụ cho thơ ca thời kì này các nhà
thơ đã hát lên tiếng lịng của mình với cuộc sống với thái độ chân tình, thấm

thấy niềm tin nhân hậu, mới bắt gặp niềm vui mới được hưởng hạnh phúc và

thía, với những suy tư đầy trăn trở sâu sắc và trách nhiệm. Một khi người


đón nhận sự chở che nâng cánh của con người:

nghệ sĩ đã có được quan niệm rõ ràng về thơ ca, có được sự chín muồi trong ý

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

thức nghệ thuật là cơ sở để đánh dấu sự trưởng thành của một nền thơ.

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa

1.1.2.2. Đổi mới trong ý thức nghệ thuật

Như đứa trẻ thơ đói lịng gặp sữa
Chiếc nơi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

Đất nước hồi sinh đã tạo ra nguồn cảm hứng lớn cho thơ, quyết định
đến sự chuyển biến tư tưởng của nhà thơ. Khơi gợi những tình cảm tốt đẹp,
những nhận thúc đúng đắn và cách cảm cách nghĩ về đối tượng của văn học.

Với nhà thơ Xuân Diệu bằng nỗ lực của tinh thần chủ động sáng tạo lại
luôn được sự cổ vũ của đường lối văn nghệ của Đảng và nhiệt tình của quần

Thực tế, ngay sau Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, hiện thực cuộc sống đã cuốn hút các nhà thơ, thực sự đã đưa các nhà


23

24


thơ nói chung và thơ nói riêng vào quỹ đạo mới của đời sống xã hội, của sáng

“Từ cuộc sống ngày trước như dịng sơng lờ đờ chảy, cuộc cách mạng và

tạo nghệ thuật. “Từ chân trời của một người đến chân trời của mọi người” là

kháng chiến, đời sống của dân tộc thay đổi nhanh chóng đến nỗi người nghệ

con đường phải trải qua nhiền gian khổ của nhiều nhà thơ. Không phải là một

sĩ cảm thấy như “không sống kịp” và “bỡ ngỡ”, hoặc không viết nổi, hoặc viết

vài năm mà hàng chục năm. Không phải là sự giác ngộ lí trí mà quan trọng

mà khơng cảm thấy hài lòng” [29]. “Trong cái thế giới xúc cảm của tôi lúc

hơn là ở sự rung động thực sự về tình cảm. Nhà thơ bắt đầu cuộc hành trình

bấy giờ chưa thật nảy nở những yếu tố cảm xúc mới. Mà trong việc sáng tác

ấy khi tiếp nhận ánh sáng Cách mạng. Thật may mắn cho những ai giác ngộ

thơ thì tư tưởng phải nhào nặn với cảm xúc thành một trạng thái tâm hồn duy

được chân lý đó ngay từ thời điểm bắt đầu cuộc đời sáng tạo, còn với những

nhất, thơi thúc thì mới sinh ra tác phẩm được [29]. Chính vì vậy khi đi vào

tiếng nói thơ ca đã một lần chín trong thế giới riêng tư, cuộc đời thơ đã trải


cuộc kháng chiến chống Pháp, hoà nhập vào dòng thác cách mạng các nhà thơ

qua một “mùa gặt” với nhiều ấn tượng và nhiều kỉ niệm thì với họ sự đổi thay

“tiền chiến” cịn khơng ít những điều “bất ổn”, kìm hãm sức sáng tạo nghệ

khơng hề đơn giản. Sự đổi thay của một cách nhìn cách cảm trong sáng tạo

thuật. Ở họ đã mang khuynh hướng nghệ thuật khác nhau, quan niệm thơ khác

nghệ thuật là quá trình nhiều trăn trở, đấu tranh nhưng cuộc đời mới đang dần

nhau thậm chí đối lập nhau. Nếu như các nhà thơ cách mạng quan niệm: “Thơ

thay da đổi thịt, những tấm gương những hành động, những tâm trạng mà nhà

và cách mạng không thể tách rời”, “thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng”, thì

thơ bắt gặp trong hiện thực tươi mới, quyết liệt sẽ dần dà làm chín lại cảm

các nhà thơ mới lại quan niệm cực đoan “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, nhà thơ

hứng sáng tạo. Cách mạng tạo nên một sự đổi thay kì diệu với sức mạnh tái

chỉ “Là con chim đến từ núi lạ - Ngứa cổ hót chơi” (Xuân Diệu). Dường như

tạo hồi sinh, đã mở rộng cánh của căn phòng cá nhân để đón lấy ngọn gió của

họ chưa thốt ra khỏi quỹ đạo của cái tôi, bởi cái tôi xưa cũ đã trở thành một


thời đại “mỗi người không cịn là một cái buồng kín” như Pie Rêvecđi quan

thói quen, một vật sở hữu riêng tư, gạt bỏ nó quả là điều không dễ dàng. Bởi,

niệm mà mở ra một thời đại “lộng hương, lộng sắc” chắp cánh cho những ước

“Cái chất hưởng thụ cầu an tích luỹ trong thể xác và tâm trí… hàng mấy chục

mơ của tâm hồn nghệ sĩ. Một thời đại mà “dưới thời Pháp thuộc đau thương

năm, nay làm thành sức ỳ khó lay chuyển” [71,72]. Chịu đựng, thử thách và

có thừa, nước mắt có thừa, thậm chí nỗi đau thắt ruột nước mắt tràn mi mà họ

vượt qua những trạng thái tình cảm đó sẽ tiếp cận và gặp gỡ được với niềm

khơng khóc nổi, khóc khơng ra tiếng thậm chí cịn đâu nữa nước mắt mà

vui rộng rãi, bao la, ấm áp nồng hậu của tập thể. Tế Hanh đã nói lên cảnh

khóc. Đơi lúc họ lại cười gượng, nhưng rồi họ đến với chân trời của niềm vui

phân li với con người cũ:

thật sự niềm vui cách mạng, họ đến với cách mạng bằng cả tấm lịng, khơng

Sang bờ tư tưởng ta lìa ta

hề gượng cười, gượng vui mà là cười thật sự” [71,164].


Một tiếng gà lên tiễn nguyệt tà

Từ quỹ đạo nghệ thuật cũ đến với một quỹ đạo nghệ thuật mới, các nhà

Bước chuyển biến ấy diễn ra và kéo dài suốt thời kỳ kháng chiến chống

thơ mới chưa kịp chuyển phương pháp sáng tác cũng chưa đủ thời gian và

Pháp. Phải làm sao để có sự ăn nhập với cuộc sống mới, tâm tình chung của

điều kiện để có được sự chuyển đổi “nhuần nhị” trong ý thức nghệ thuật của

nhà thơ phù hợp với tâm tình chung của quần chúng cách mạng. Chế Lan Viên

mình để cất cao tiếng nói trữ tình của thời đại mới. Nói như nhà thơ Tế Hanh:

đã nói lên chân thực những băn khoăn của lớp nhà thơ lớp trước khi đi theo


25

26

cách mạng: “Nhớ những ngày mới cách mạng rồi trải qua những năm tháng

tưởng tình cảm, trong quan niệm nghệ thuật của buổi đầu đi với Cách mạng.

đầu kháng chiến nữa, gần như có một sự chuệch choạc, một khoảng cách gần


“Như một lữ hành đơn độc, Chế Lan Viên đã lầm lũi vượt qua sa mạc siêu

không ra gần, xa chẳng ra xa giữa bạn đọc với tâm hồn tác giả và ngay trong

hình, đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui. Ra đến cánh đồng vui rồi,

tâm hồn tác giả giữa cái phần này và phần khác của mình” [21,100].

sao đơi lúc gương mặt ơng vẫn đầm đìa giọt khóc. Và thơ ơng, kì lạ thay vẫn

Nhưng cuộc sống đã giúp họ “trồng cây thơ vào đất”, giúp họ diễn đạt

bàng bạc một nỗi đau” [60,215,214]. Bước đường “nhận đường” và bước

hiện thực cuộc sống với những màu tươi sáng những âm thanh tưng bừng

chuyển cơ bản trong ý thức nghệ thuật, trong quan niệm thơ ca trước một thực

hứng khởi hơn. Hiện thực đời sống đã cho họ có điều kiện nhìn lại “Bước

tế lớn lao, phức tạp không phải là dễ dàng, nhất là những nhà thơ có nhiều

đường tư tưởng” của mình, các nhà thơ mới với nhận thức khá rõ và đã lí giải

“dun nợ” với cuộc sống cũ, thì lại là những gian khổ của một quá trình đấu

một cách sâu sắc, thấm thía những hạn hẹp thơ sượng trong ý thức của họ thời

tranh, đầy day dứt và cũng đầy quyết tâm. Sau cách mạng kháng chiến chống


thơ chống Pháp. Nhà thơ Xuân Diệu đã thành thực trong suốt quá trình

Pháp, Chế Lan Viên đã hỏi một bạn thơ trẻ hơn mình: “Ơng đọc thơ mình

chuyển đổi dai dẳng, vật vã của mình: “Cái đau trong cõi tinh thần - Đã đau

xem mình có viết được nữa khơng?”. Điều đó cho thấy Chế Lan Viên đã

một lúc dần dần lại đau”. Ơng nhận thấy: “Tơi rộng mở bước vào kháng

chuyển mình từ biển thơ siêu hình sang thơ cách mạng khó khăn và vất vả

chiến trường kỳ và tư tưởng của tơi cịn gặp gỡ, trải qua nhiều chặng lên

biết nhường nào.Bởi, “Muốn đến được nắng vàng đất mật - Phải trên lịng

xuống khơng phải là đơn giản” [71,71]. Ơng tự ý thức “Con đường có rất

bao trận gió mưa qua”. Cách mạng đến “Dĩ vãng đau thương” vẫn trở về

nhiều đau đớn, nhưng khơng qua đó thì khơng đi được tới đâu”. Vì vậy, ơng

“cắm lá cờ đen”, vẫn ám ảnh nhà thơ suốt chặng đường dài hoà nhập với cách

đến với cách mạng đến với kháng chiến bằng một niềm vui lớn, đó là “tự nhấc

mạng, với dịng thơ cách mạng. Ơng hiểu rõ lắm tâm hồn mình: “Hồn tôi là

ra được khỏi một hệ thống chết, mà vào hệ thống sống, nghĩa là tự cứu được


một cánh đồng lẩn khuất - Đau bên Đồi nên gió thổi bên Đơng”. Nhìn lại

mình” [71,71]. Tuy nhiên, ơng “cũng mới chỉ giác ngộ trên lí thuyết” ở “một

quá khứ nhà thơ đã phân tích một cách sâu sắc bằng một cái nhìn sáng tỏ, triệt

mặt khác nữa, càng đi sâu vào cách mạng sự sáng tác càng gian nan… Sáng

để, “ngoảnh lại mười lăm năm” nhà thơ đã tâm sự:

tác cái mới thường thường bị thất bại, tôi quay về tựa lưng với thứ “của

Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy

chìm”: tác phẩm ngày trước của mình. Kỳ tình tơi vẫn biết đứng chỗ cũ khơng

Tổ quốc trong lịng ta mà có cũng như khơng

thể được nữa, tuy nhiên, lại ngại sang đứng chỗ mới; tâm trạng tôi như người

Nhân dân ở quanh ta mà chẳng thấy

bị chẹt, tinh thần bất ổn, vẫn gần với quá khứ, vẫn xa vợi với tương lai. Cứ

Thơ xuôi tay như nước chảy xi dịng!

chạy sang bên này rồi chạy sang bên kia, thật là đau đớn”[71,72]. Những năm
đầu đi với cách mạng, tâm trạng của nhà thơ là thế.

(Người thay đổi thơ tơi, Người thay đổi đời tơi)

Đó là thời điểm mà nhà thơ “…Đi giữa lịng mình, mà mình khơng

Từ dĩ vãng trở về hiện tại, từ mộng ảo trở về hiện thực, từ chán nản rã

hiểu nữa”. Và nhà thơ Tế Hanh cũng không tránh khỏi cái khơng khí chung

rời đi đến niềm tin và ý chí chiến đấu, Chế Lan Viên tự nhận định: “Đi xa về

ấy: “Tôi đi từ lệch lạc này qua lệch lạc khác”. Từ chỗ chỉ nói đến tâm tình

hố chậm - Biết bao là nhiêu khê” đó là những trăn trở trong đời sống tư

mình, đến cái “Tơi” của mình, đến chỗ chỉ nói đến người việc chung quanh


27

28

và cho đó là khách quan, là có cái nhìn hiện thực hơn… Khi lịng ta hồ hợp,

thơ “Trước hết vượt qua cái tôi cá nhân để xây dựng một nhân vật trữ tình

gắn bó ước mơ với quảng đại quần chúng thì có nói đến lịng mình cũng

mới mang tinh thần quần chúng tập thể và thời đại đậm đà sắc thái dân tộc.

ngân vang trong lòng mọi người và có nói đến người khác thì cũng có lịng

Thứ hai, nền thơ này hướng về học tập và các giá trị truyền thống. Thứ ba,


mình trong đó” [30,7]. Nhà thơ Tế Hanh phản ảnh hiện thực thông qua tâm

nền thơ này hướng về hiện thực đời sống xã hội và chiến đấu”. Các nhà thơ đã

trạng cảm xúc của mình: “Cái lịng say mê sự sống cái nhiệt tình cách mạng

trả lời, đã dứt khoát trong sự lựa chọn và đã xác định: Sứ mệnh thiêng liêng

của tôi nhiều khi không đủ lửa để đốt cháy cảm xúc của mình thành những

của thơ ca vời đời sống. Thơ trước hết phải hướng về đời sống phục vụ quần

câu thơ óng ánh. Nhiều khi tôi đã làm thơ, làm cho có, làm thơ khơng thấy

chúng cách mạng:

thiết tha và cần cho lắm” [30.7].
Phải sau 1954 - thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ bình

Tơi viết cho ai? Cho cả mọi người
Nhưng rất gần cho những đứa em tôi

lập lại tạo nên một sự thay đổi kì diệu đã thổi một luồng gió mới tràn đầy hào

Cho ai cũ thơ tơi làm ướt áo

khí cách mạng thổi vào những trang thơ, làm chín lại những cảm hứng sáng

Nay họ về sưởi ấm dưới thơ tôi


tạo. Từ chỗ là những thi sĩ say sưa trong Đài thơ riêng biệt, họ lại trở thành
chiến sĩ đam mê trên mặt trận văn hóa, mang ba lơ đi theo các đồn dân cơng,

(Chế Lan Viên)
Để xây dựng nền văn nghệ nói chung và nền thơ Cách mạng nói riêng,

bộ đội ra tiền phương. Có khi theo sát từng chiến dịch lớn, từng trận công đồn

mỗi người nghệ sĩ phải biết “Nối cuộc đời mình với những đau khổ, vui

nhỏ, quan sát từng chiếc lơ cốt, từng ụ súng đơn sơ, thì giờ đây họ lại được

sướng, căm thù mong ước của nhân dân” [42,31] để hồ vào dịng đời và sống

hồ mình vào cuộc sống mới, gắn bó thiết tha với cuộc sống mới, con người

hết lòng với cuộc sống bởi: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta khi cuộc sống đã

mới được thâm nhập vào đời sống, lao động sản xuất làm cho nhà thơ thấy rõ

thật đầy”(Tố Hữu) và biết “nhìn đời bằng đơi mắt xanh non”, biết “Hái những

hơn bước đi của lịch sử, sức mạnh của quần chúng. Đi lâu dài kiên nhẫn với

sắc trời xa viễn vọng - Những biển cồn hãy mang đến cho thơ” để “Dịng

nhân dân, với kháng chiến, các nhà thơ mới có được sự chín muồi thực sự

thơ… lấp lánh những ánh trời hi vọng” (Chế Lan Viên). Có thể nói, các nhà


trong ý thức nghệ thuật. Các nhà thơ sau bước đường tư tưởng đã nhìn nhận

thơ qua thơ đã thể hiện sâu sắc quan niệm cách mạng của mình về thơ. Hiện

lại một cách nghiêm túc một thời thơ, buồn chán, cô đơn xa cách với cuộc

thực của cuộc đời mới với sự phong phú và hấp dẫn riêng của nó đã thu hút

đời, nay đã xác định chỗ đứng và hướng đi trong cả đời và trong thơ. “Khi

các nhà thơ.Và đến lúc này, “Từ sự hoà tan vào cộng đồng, chủ thể trữ tình đã

cuộc đời rõ hướng… Khi mặt trời tư tưởng rọi hang sâu” các nhà thơ đã

trở về với chính nó, xác định lại vị thế của nó như khởi nguyên của tồn tại và

khẳng định lại một lần nữa quyết tâm, quyết liệt dứt bỏ ám ảnh: “Cắt cái bùi
ngùi, Vứt nó xuống sơng. Chặt cái bùi ngùi, Ném nó dưới chân” (Xuân Diệu),
để gắn bó với Đảng, với dân tộc xây dựng một nền thơ cách mạng. Một nền

sáng tạo để từ đó, đủ bản lĩnh và tư thế đi vào cuộc sống với tinh thần nhập
cuộc tích cực. Sau lần nhập cuộc thứ nhất với tư cách cái tôi công dân đây là
sự hồ nhập mới của cái tơi - nghệ sĩ vào thực tiễn cách mạng” [2.90]. Qua đi
trình độ trữ tình hồn nhiên, tự ca hát để đến với giai đoạn sáng tạo, có ý thức,


29

dựa trên nền tảng của mỗi cá nhân - nghệ sĩ, dựa trên sự thống nhất cộng


30

Với đội ngũ nhà thơ đơng đảo, trưởng thành nhanh chóng với ba thế hệ

hưởng thực sự trong một quan niệm chín muồi về nghệ thuật, về thơ. Đó cũng

nối tiếp nhau: Thế hệ nhà thơ Tiền chiến được rèn luyện, thử thách nay như

chính là cơ sở để tạo nên sự biến đổi cơ bản về “chất” trong sáng tạo thơ ca và

được “hồi xuân” sung sức, sáng tác nhiều, đều và có chất lượng cao. Lớp nhà

cũng là vấn đề cơ bản trong ý thức nghệ thuật.

thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã định hình, tiếp tục

1.2. THÀNH TỰU THƠ CA THỜI KÌ 1954 - 1964

phát huy tài năng. Hai lớp nhà thơ này đã tạo nên những phong cách và là lực

Nếu như thành tựu của thơ ca kháng chiến chống Pháp khơng được tính

lượng nịng cốt của phong trào sáng tác thơ ca và sẽ tạo nên gương mặt mới

bằng những tập thơ, sự độc đáo của nhiều phong cách, của nhiều cá tính sáng

của thơ. Lớp nhà thơ trẻ mới hình thành được ni dưỡng và trưởng thành

tạo. Khuôn mặt các tác giả chưa đủ thời gian định hình, đang chuyển đổi đang


trong hồ bình, họ xơng xáo, tươi trẻ họ là những cây bút có khả năng, nhạy

trong quá trình tìm ra mình. Mặc dù thành tựu của thơ kháng chiến khơng ít

bén với những vấn đề của cuộc sống hiện tại và sẽ tạo nên những gương mặt

nhưng được ghép lại bởi thành công của những bài riêng lẻ. Phần lớn các tác

mới của thơ ca thời kì chống Mĩ sau này.

giả chỉ ghi nhận những thành công trên đôi ba bài thơ thậm chí tên mỗi tác giả

Đề tài chủ đề thơ phong phú đa dạng, “Chủ nghĩa xã hội đã mở ra cho

chỉ gắn với một bài thơ được ghi nhớ. Đến giai đoạn này, sau những năm tháng

thơ một đối tượng và khả năng phản ánh rộng hơn, dồi dào, không chỉ quẩn

chiến tranh đất nước hồi sinh, chan hoà với cuộc đời mới, cảm hứng đẹp đẽ về

quanh hạn chế trong một dải đất, một quê hương quen thuộc mà đưa thơ đến

chủ nghĩa xã hội đã mở ra cho thơ thời kì này những dáng vẻ phong phú và

mọi chân trời” [47,83]. Thơ viết về kháng chiến chống thực dân Pháp, về lao

chiều sâu của nó. Từ cuộc sống mới, thơ đã phát triển, nảy nở nhiều hương sắc,

động xây dựng cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Những bài thơ hay ở thời kì này


nhiều cách biểu hiện đa dạng về sự tìm tịi và định hình nhiều phong cách.

nằm trong mạch thơ ca ngợi đất nước giàu đẹp sau những năm tháng vất vả

Trong cuốn Dao có mài mới sắc nhà thơ Xuân Diệu đã nhận định:

gian nan. Song niềm vui chưa trọn vẹn, đất nước chưa thống nhất, miền Nam

“Giữa cái đà thơ của kháng chiến và phấn đấu lao động liên tục, thơ của ta

còn trong tình trạng nước sơi lửa bỏng dưới ách bọn Mĩ - Nguỵ. Có thơ viết

những năm gần đây có một bước nhảy quan trọng về chất lượng. Các thi sĩ đã

về đất nước về Đảng, Bác về tình cảm bạn bè quốc tế, có thơ viết về niềm vui

thấy trong tài thơ của mình, cái kết quả của sự tích luỹ tư tưởng, tình cảm

nỗi buồn, những ăn năn sám hối rất chân tình.

cách mạng trong hơn 10 năm. Chế độ ta giúp các nhà thơ tích luỹ và đi đến

Bên cạnh việc coi trọng những chất liệu, hình ảnh được khai thác trực

thành tựu. Sự tiến bộ chung của cả một phong trào thơ, đến một lúc nào đó

tiếp từ đời sống hiện thực. Các nhà thơ ở thời kì này cịn chú ý đến việc sáng

cũng tích luỹ, kết lại trong một số nhà thơ. Các hiện tượng sáng tác tập trung


tạo những hình ảnh khái quát, tượng trưng, hình ảnh kì ảo được sáng tạo bằng

và với nhiều thành tựu của một số thi sĩ hiện nay là chứng tỏ thơ ta trưởng

tưởng tượng phong phú táo bạo. Cùng với việc coi trọng vai trò của xúc cảm,

thành và nảy nở rỡ ràng vì có cái rộng của nhiều người và có cái sâu của

tình cảm thì khái quát, suy tưởng, liên tưởng, tưởng tượng đã có vị trí trong

những cá thể thi sĩ. Thơ đạt đến mức độ nhuần nhuyễn: đó là sự thoải mái như

thơ ca thời kì này.

cuộc sống cách mạng đã thành xương thành thịt của thi nhân” [13,166].


31

Thơ giai đoạn này vừa coi trọng việc kế thừa những kinh nghiệm nghệ

32

mới: phá thể. Có nhiều bài thơ phóng túng mà nhuần nhị, có chất lượng cao:

thuật của thơ ca giai đoạn trước, vừa có những tìm tịi, sáng tạo theo hướng

Với Lênin, Tiếng chổi tre (Tố Hữu), Sóng Vỗ Cửa Tùng (Lưu Trọng Lư),


mở rộng sự tự do hố hình thức thơ. Về thể loại cũng có nhiều cách tân táo

Hoa lúa (Hữa Loan), 728 (Trinh Đường), Lại về tỉnh nhỏ (Yến Lan)…

bạo, các thể thơ dân tộc được sử dụng và có những đổi mới. Thơ tự do phát

Một số bài thơ văn xuôi xuất hiện: Lúa mới, Irắc ơi!, Gửi người bạn

triển mạnh tiến đến thơ văn xuôi. Và thơ dài đều được nhiều nhà thơ sử dụng:

thơ Irắc (Huy Cận). Trong tập Ánh sáng và phù sa, Chế Lan Viên giới thiệu

Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng - 1960; Huy Cận, Người thợ ảnh -

ba bài thơ: Cành phong lan bể, Tàu đến, Tàu đi gọi chung là văn xuôi về

1962; Tế Hanh, Câu chuyện quê hương - 1963.

một vùng thơ… Và thơ dài đã bộc lộ được nhiều vấn đề ôm chứa được nhiều

Trong mười năm này, thơ đã có những biến đổi rõ rệt. Người sáng tác

mặt cuộc sống, thể hiện khả năng bao quát và tài nghệ vững vàng của các nhà

có nhu cầu đổi mới nâng cao chất lượng thơ, vừa đáp ứng được yêu cầu khách

thơ: Ba mươi năm đời ta có Đảng (Tố Hữu), Người thợ ảnh (Huy Cận), Đi

quan vừa làm cho thơ hoà vào mặt bằng thơ thế giới. Người đọc cũng muốn


ra ngoại ô (Chế Lan Viên).

thơ, không phải chỉ đúng mà còn phải hay, phải mới mẻ độc đáo. Thơ đã vượt

Cùng với việc đổi mới thể loại, ngôn ngữ thơ thực sự là tiếng nói đời sống

qua những kể lể mộc mạc, những chi tiết bề bộn của giai đoạn trước, cố gắng

khoẻ khoắn, sinh động. Những bài thơ của Tố Hữu khẳng định bước phát triển

khám phá vẻ đẹp bên trong của cuộc sống, tăng thêm tính khái quát tạo ra

mới của ngôn ngữ thơ ca dân tộc. Ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sắc sảo trong

những hình tượng thơ cơ đúc có sức lay động mạnh. Các nhà thơ ra đời và lớn

cách vận dụng liên tưởng so sánh. Huy Cận sâu lắng, đậm đà. Xuân Diệu sống

lên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp như: Nguyễn Đình Thi ,

động nhiều biến hố. Ngơn ngữ thơ Nguyễn Đình Thi tự nhiên, gần với tiếng nói

Hồng Trung Thơng, Trần Hữu Thung, Trinh Đường, Phạm Hổ, các nhà thơ

hàng ngày. Các nhà thơ trẻ có ngơn ngữ thơ góc cạnh hơn, với nhiều màu sắc và

trẻ xuất hiện trong những năm hồ bình như Nguyễn Bao, Xn Quỳnh, Bằng

khả năng tạo hình, liên tưởng phóng túng. Trên cơ sở truyền thống thơ trẻ luôn


Việt, Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân)… đưa vào thơ

có ý thức tìm tịi, hiện đại hố ngơn ngữ thơ. Tính đa dạng của ngơn ngữ thơ đủ

chất khoẻ khoắn, tươi vui cho cuộc sống. Các nhà thơ có quá trình sáng tác từ

sức để tâm tình, trị chuyện, sơi nổi chính luận hay trầm tư triết lý.

trước Cách mạng tháng Tám đến lúc này lại sung sức, mở rộng đề tài, tìm tịi

Đặc biệt trong thơ thời kì này đã định hình nhiều phong cách sáng tạo.

cách thể hiện. Ngay cả ở các bài thơ sử dụng thể cách luật dân tộc, cũng đã

Những năm kháng chiến trước đây thơ có phong trào, có mặt bằng, nhưng ít

biến hố đi nhiều nhất là trong cách nhắt câu, ngắt nhịp, tạo khơng khí cho

có đỉnh, có phong cách. Lúc này phong trào thơ sôi nổi, rộng khắp và trên nền

phù hợp với hiện thực cuộc sống. Thơ tự do lại tiếp tục “phá” để chứa đựng

thơ ấy đã in dấu ấn những cá tính sáng tạo độc đáo tạo nên những nét riêng cơ

được nhiều chi tiết, ôm sát thực tại hơn và nhờ vậy thơ cũng thực hơn. Trước

bản nhất ở mỗi nhà thơ. Hầu hết các nhà thơ đều xuất bản những tập thơ riêng

đấy thơ tự do dù phát triển mạnh, phù hợp với việc thể hiện nội dung, nhưng


của mình có những tác giả in hai đến ba tập.

thành cơng và được quần chúng u thích là những bài thơ ở dạng hợp thể và

Từ thực tế sáng tác, với số lượng lớn tác phẩm có nội dung phong phú,

biến thể. Đến giai đoạn này (1954-1964) thơ tự do lại tiến thêm một bước

có cách nắm bắt thực tế khác nhau, cách tư duy nghệ thuật và phương pháp


33

34

xây dựng hình tượng thơ khơng giống nhau, mức độ cảm xúc khơng đồng

đời ta có Đảng, Bài ca mùa xuân 1961… Tố Hữu có những câu thơ hay khái

đều… đã làm nên phong cách riêng của nhà văn. Vì vậy trong dàn hợp xướng

quát về dân tộc, về Tổ quốc, về lẽ sống chết, về nhân tình, về thời đại:

thơ ca 1954 - 1964, chúng tôi muốn nêu lên một số gương mặt, giọng điệu của

Một ngôi sao, chẳng sáng đêm

một số nhà thơ đã tạo cho mình những nét riêng độc đáo đồng thời cũng góp

Một thân lúa chín, chẳng nên mùa vàng


phần làm nên thành tựu thơ ca thời kì này.

Một người - đâu phải nhân gian?

Từ tập Việt Bắc (1954) đến tập thơ Gió lộng (1961), cho thấy thơ Tố

Sống chăng, một đốm lửa tàn mà thơi!

Hữu có bước phát triển quan trọng, chứng tỏ nhà thơ vẫn sáng tạo không

(Tiếng ru)

ngừng. Ở Việt Bắc cuộc sống trở lên phong phú, dựng cảnh, dựng người, tả
tình tinh tế, tình cảm dần dần đa tuyến. Các bài thơ cuối tập như Việt Bắc, Ta

Sống trong cát, chết vùi trong cát

đi tới… đã báo hiệu khả năng khái quát tổng hợp. Ở Gió lộng cảm hứng chủ

Những trái tim như ngọc sáng ngời!

đạo gắn liền với sự kiện tiêu biểu trong đời sống dân tộc. Tập thơ phản ánh
cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân ta để xây dựng miền Bắc, giải phóng
miền Nam và biểu hiện một cách sâu sắc chủ nghĩa yêu nước, anh hùng của
dân tộc ta trong thời kỳ mới.
Tố Hữu đề cập đến hầu hết những vấn đề lớn của thời đại trên tinh thần
trách nhiện và bản lĩnh nghệ thuật vững vàng. Mở đầu thời giai đoạn mới của
đất nước “Xưa là rừng núi là đêm - giờ thêm sông biển lại thêm ban ngày”.
Nhiều bài thơ vươn tới chiều cao của niềm vui của nhà thơ và cũng là của

nhân dân ta trong khơng khí nhộn nhịp bước đầu cơng nghiệp hoá xã hội chủ

(Mẹ Tơm)
Những khái quát ở đây được trình bày thơng qua những chi tiết cụ thể
sinh động, những hình ảnh, hình tượng thơ đầy xúc động và suy nghĩ. Sự
phong phú dồi dào về cuộc sống và tình cảm chân thành đã đem lại hiệu quả
nghệ thuật. Khái quát phải thông qua rất nhiều cái cụ thể và cái cụ thể “sống”
được phải nằm trong khái quát. Đó là yêu cầu cao mà Tố Hữu đã đạt được
trong giai đoạn này.
Âm điệu chủ đạo của thơ Tố Hữu là tâm tình, tha thiết. Có khi tố cáo tội

nghĩa, có khó khăn nhưng hào hứng. Những bài thơ nói đến miền Nam thực

ác của giặc, có lúc ca ngợi chiến cơng… tâm tình vẫn nhất qn trong phong

sự da diết: có đau xót căm thù bọn giặc, có tự hào khâm phục nhân dân.

cách thơ Tố Hữu. Rõ nhất là bài Người con gái Việt Nam: “Em là ai? Cô gái

Những vấn đề của dân tộc, của thời đại được cảm nhận, đúc kết bình giá

hay nàng tiên - Em có tuổi hay khơng có tuổi?”. Vạch trần những hành động dã

và nâng lên thành tư tưởng, vì vậy nét đặc sắc trong phong cách thơ Tố Hữu là

man của kẻ thù, nhà thơ dùng hình thức như người vợ gửi chồng “Anh ạ, từ

có thiên hướng khái quát tổng hợp những sự kiện lớn của hiện thực cách mạng.

hôm Tết tới nay - Giặc đi ruồng bố suốt đêm ngày” (Lá thư Bến Tre). Nhớ


Khái quát, tổng hợp thể hiện ở cách xây dựng hình tượng thơ, ở câu chữ,

Huế, nhớ mẹ, xót xa vời vợi giọng thơ bùi ngùi: “Mây núi hiu hiu, chiều lặng

hình ảnh và âm hưởng chung của toàn bài. Trường hợp này tạo nên những bài

lặng - Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi…” mà vượt nghìn dặm đến bạn bè,

thơ có dáng dấp sử thi như Thù mn đời mn kiếp không tan, Ba mươi năm

tiếng thơ vẫn là tiếng nhạc du dương: “Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan - Đường
bạch dương sương trắng nắng tràn” giàu yêu thương, tình nghĩa, ngọt ngào.


35

36

Cho nên cái căm thù được dồn nén lại ở bên trong khơng ồn ào nhưng day dứt,

ơng muốn nói lên mối thống nhất giữa cái riêng của tác giả và những cái

giục giã hành động, cái nhiệt tình sơi nổi lại hiện ra ở giọng trầm, dõng dạc,

chung của chế độ. Cá nhân hoà nhập với tập thể, tập thể tạo điều kiện cho cá

Trong cuộc sống nhiều điều sâu sắc chỉ có thể nói bằng giọng tâm tình, ân

nhân phát triển. Mũi Cà Mau - Cầm tay hai chùm thơ đấu tranh thống nhất


nghĩa. Nhớ ơn người làm đẹp cuộc sống cho mình, Tố Hữu nhắc nhở: “Nhớ

đất nước và tình yêu nối liền với nhau trên một cơ sở tư tưởng căm thù và tràn

nghe hoa”, “nhớ nghe em”… cái ý này nhà thơ nhắc đi nhắc lại nhiều lần:

ngập yêu thương. Và Một khối hồng viết về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sơng nhớ suối, có ngày nhớ đêm

miền Bắc. Thơ có lời thơ khoẻ khoắn của lao động đấu tranh và bóng dáng
con người mới, xã hội mới khẩn trương nhộn nhịp:
Khắp nơi trên những đường tơi đi,

Đó là những lời tâm tình chứa chan tình nghĩa. Giọng tâm tình này có liên

Tơi đã nghe xao xuyến rì rầm

quan đến quan niệm của Tố Hữu về thơ: “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng

Ngói mới

nói của một người nào đó đến với những người nào đó có sự cảm thông chung

Trên những đường tôi dạo, tôi qua

dựa trên cơ sở đồng ý đồng tình (…) thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình, tiếng nói


Tơi đã nghe nhiều, những khúc ca
Ngói mới

đồng chí” (Trả lời phỏng vấn về thơ. Tạp chí Văn nghệ số 48 tháng 5 năm 1961).

(Ngói mới)

Tố Hữu có nhiều bài thơ hay theo thể thơ 7 chữ: Quê mẹ, Mẹ Tơm, Em
ơi… Ba Lan, Lá thư Bến Tre, Miền Nam… Ở đây từ ngữ và lối nói quen
thuộc với dân tộc, những so sánh ví von truyền thống nhưng lại có khả năng
biểu hiện nội dung mới của thời đại. Các từ láy, cách phối hợp âm thanh, nhịp
điệu, vần, tạo nên chất nhạc phong phú chứa đựng được cảm xúc dân tộc, tâm
hồn dân tộc.
Như vậy, phong cách thơ Tố Hữu rất đa dạng, kế thừa được truyền

Trong những năm này, Xuân Diệu đi nhiều, chịu khó quan sát lắng
nghe. Thơ ơng giàu chất sống, qua cái cảm, cái nghe, cái thấy và muốn chiếm
lĩnh thực tại rộng lớn. Trong nhiều bài thơ ông muốn đưa cái hàng ngày vào
làm cho lời thơ gần gũi với tiếng nói hàng ngày. Năng lực quan sát, lắng
nghe, đi sâu vào quần chúng, hoà nhập với cuộc sống, lấy hiện thực là thước
đo giá trị tác phẩm, nhà thơ tạo nên những hình tượng thơ độc đáo, mà hình
ảnh nhịp điệu có sẵn trong thực tế:

thống thơ ca dân tộc, kết hợp một cách nhuần nhị hai yếu tố cách mạng và dân

Lối cũ ngựa thồ đường tức ngực

tộc trong nghệ thuật. Sức thu hút của thơ Tố Hữu chính là ở niềm say mê lý

Mười một chữ chi quanh quất liền


tưởng và bản sắc dân tộc đậm đà.

Được một đoạn bằng chưa kịp thở

Từ năm 1960 đến 1964, Xuân Diệu xuất bản liên tiếp 3 tập thơ Riêng
chung (1960) Mũi Cà Mau - Cầm tay (1962) và Một khối hồng (1964).
Nét xuyên suốt trong cả q trình sáng tạo của Xn Diệu là sơi nổi,
bộc trực, trẻ trung, một năng lực cảm thụ tinh tế dồi dào. Với Riêng chung

Mười một chữ chi quần, lại lên.
(Mã Pí Lèng - Xuân Diệu )
Xuân Diệu là nhà thơ có ý thức đổi mới câu thơ, thể thơ nhất là trong
cách ngắt câu, hiệp vần. Nhiều trường hợp thú vị biến hố tài tình. Ơng tiếp


37

38

thu sáng tạo nghệ thuật dân gian, nâng tiếng nói nhân dân thành tiếng nói thơ

dịng người, Chặt cái bùi ngùi…). Tuy vậy, Xuân Diệu, một nhà thơ “mới

ca mộc mạc mà tinh tế:

nhất trong các nhà thơ mới”, một nhà thơ ham sống, ham yêu, sống và yêu đều

Ai làm cách trở đơi ta


sơi nổi mãnh liệt thì đề tài tình u khơng dễ gì sao nhãng. Sau cách mạng,

Vì anh vụng ngượng, hay là vì em?
Trăng cịn đợi gió chưa lên

kháng chiến chống thực dân Pháp, nhất là đến những ngày miền Bắc hồ bình,
xây dựng cuộc sống mới, tình yêu vẫn là một thi đề đắc địa trong thơ Xuân

Hay là trăng đã tròn trên mái rồi?
(Hỏi)
Nhưng thơ lục bát vẫn có những tung phá, những câu thơ lục bát chen
một câu bốn chữ:

Diệu. Và thực sự Xuân Diệu đã viết nhiều bài thơ hay về tình yêu (Hỏi, Tình
yêu san sẻ, Mưa, Hoa nở sớm, Tình u muốn hố vơ biên, Nguyện, Áo em,
Biển…) nhưng là tình yêu trên nền tư tưởng mới, tình yêu lứa đơi hồ cùng
niềm vui, lo toan của xã hội, có ý thức trước cuộc đấu tranh của xã hội, tình yêu

Đỉnh non cao vút em ơi

hoà với mọi người chứ không phải chỉ của hai cá thể.

Cao vút em ơi

Cũng có thể thấy rõ khi đi vào cuộc sống lớn, cảm hứng chủ đạo của nhà

Là trên đỉnh chót tình người yêu nhau
(Trên đỉnh non cao)
Cách chọn chữ gieo vần trong thơ Xn Diệu có nhiều tìm tịi, và sự


thơ thay đổi thì ngơn ngữ là ngơn ngữ quần chúng khoẻ khoắn, sống động:
Anh lên lần trước, uống nước sông xanh
Anh lên lần này, nấu cơm nước đỏ
(Trên bến phà Thia)

tìm tịi đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật:
Khách nghỉ mát về rồi

Cùng với thời gian, phong cách thơ Xuân Diệu có những phần ổn định,

Anh vẫn ngồi trên bãi

có những nét biến đổi. Thơ Xuân Diệu muốn miêu tả cái phong phú của cuộc

Gió vơ hạn, vơ hồi

sống đời thường từ nhiều phía, nhiều góc độ khác nhau. Để bộc lộ mình, khẳng

Tự trên trời xuống mãi
(Trên bãi biển Trà Cổ)

định mình, ơng đã có mặt tại mọi nơi, mọi lúc trong thời điểm khi cả đất nước
đang náo nức lao động xây dựng và miền Nam đang trực tiếp chống Mỹ nguỵ.

Thực ra phong cách thơ Xuân Diệu lúc này so với trước đây, đặc biệt là

Ánh sáng và phù sa (1960) của nhà thơ Chế Lan Viên biểu hiện cuộc

những năm trước cách mạng tháng Tám đã có nhiều biến đổi. Về thi đề, những


hành trình tâm trạng của nhà thơ để hồ vào cuộc hành trình chung của cả dân

mơ mộng, tình yêu cá nhân, thiên nhiên đẹp, buồn được thay bằng cuộc sống

tộc trong quá trình phát triển đi lên. Nhờ vậy nghệ thuật cũng trở nên phóng

lớn của nhân dân lao động, đất nước dựng xây (Ngói mới, Cao, Ba năm cửa

khống, đa dạng. Câu thơ có thêm cái gân guốc, xốc vác của cuộc đời thực,

sổ, Mã Pí Lèng…), những vấn đề thời sự (Phú Lợi, Thép cứng nhất là thép

ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ quần chúng, hồn nhiên trong sáng hơn. Đề tài

người, Tội ác phá rừng…), những suy nghĩ về Đảng, về cách mạng và thái độ

thơ được mở mang đến nhiều vấn đề của cuộc sống đang đặt ra. Tình yêu đất

của nhà thơ trước cuộc sống (Gánh, Đầu tranh, Lệ, Mười lăm năm, Đi với

nước có khi là cảm xúc mạnh mẽ toát lên từ những tứ thơ phóng khống,


39

40

dịng thơ trải rộng (Văn xi về một vùng thơ) có lúc là tiếng nói thầm thì

hết, chất thơ và hình thức thích hợp để chứa đựng tư tưởng triết lý. Từ đó đưa


quyến luyến (Kết nạp Đảng trên quê mẹ, Tiếng hát con tàu). Đất nước được

lại cho người đọc rung động và suy nghĩa một cách say mê.

nhìn nhận ở nhiều khía cạnh: từ những cơn đá cộc, cây cằn đến những nơi hoa

Chế Lan Viên có nhiều suy nghĩ sâu sắc và khái quát lên thành những

lá xanh tươi, rừng vàng biển bạc, từ những cảnh quen thuộc đến những ước

vấn đề có ý nghĩa đối với cuộc sống hiện tại. Ông ca ngợi quần chúng anh

mơ về chốn xa xôi. Những kỉ niệm sâu sắc của những ngày kháng chiến: từ

hùng đã làm nên sự nghiệp lớn lao của dân tộc “Thần chiến thắng là những

hình ảnh người du kích rất cảm mến đến hình ảnh bà mế già… Đó là một tâm

người áo vải”, ơng vạch mặt kẻ thù ở phần bản chất nhất của sự giả dối: “Mặt

hồm thơ đa dạng, giàu liên tưởng, kết hợp nhiều hình thức biểu hiện tứ thơ

kẻ thù là gương mặt hay cười”, ông khẳng định cuộc chiến đấu của nhân dân

phong phú, hình ảnh đẹp, hình tượng thơ nhiều tầng, nhiều ý nghĩa, câu thơ

ta là con đường tìm ra lẽ sống, từ xiềng xích nơ lệ giành lấy tự do, từ đau

nhiều màu sắc. Có bài cổ kính cả tứ lẫn lời như Thư mùa nước lũ, Nhớ Việt


thương làm nên chiến thắng diệu kỳ:

Bắc, Lá nguỵ trang, Ngủ rừng Lào 1952. Có những bài thơ mới lạ như Tàu

Ở đâu? Ở đâu? Có sự diệu kỳ

đến, Tàu đi… Có những bài nhẹ nhàng thanh thốt như Đêm tập kết, Mẹ và

Ta xé vải chôn ta để may cờ chiến thắng?

có những bài chở nặng tâm tư như Nhật ký một người chữa bệnh, Ngoảnh

Những vết thương đỏ chói sắc quân kỳ

lại mười lăm năm, Hai câu hỏi, Nhớ Bế Văn Đàn...

Ta nấu xích xiềng ta làm súng đạn

Thơ Chế Lan Viên nghiêng về thế giới nội tâm, có chút ngậm ngùi, xót
xa ân hận nhưng khẳng định cái mới, cái thực tại rộn ràng nhiều mơ ước,

(Ở đâu? Ở đâu? Ở đất anh hùng )
Trong thơ Chế Lan Viên chú ý đến nhiều yếu tố trí tuệ, trữ tình, triết

đồng thời đấu tranh đẩy lùi cái cũ, cái “dĩ vãng buồn thương” vẫn quẩn quanh

học, cùng với yếu tố đời sống, hàng ngày như ông đã từng tâm sự. Thơ ơng

ám ảnh. Đó là một nỗ lực vượt qua bản thân mình để tìm đến chân lý, khép lại


không tả, không kể, mà là nghĩ, là luận, là phát hiện.. Từ những tâm trạng cảm

quá khứ hướng tới tương lai, đưa thơ ca “từ thung lũng đau thương ra cánh

xúc thật ban đầu, ông liên tưởng, suy tưởng thấm sâu mở ra những triết lý về

đồng vui”. Trên cơ sở một phong cách - phong cách triết lý, thể hiện nhiều

những vấn đề phong phú của cuộc sống và cũng chính từ đó quy định sự lựa

khía cạnh tìm tịi. Và đến lúc này tài năng thơ ơng bộc lộ ra nhiều vẻ đẹp.

chọn hình ảnh, từ ngữ, sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ, xây dựng ý thơ.

Trong thơ Chế Lan Viên, tính triết lý nổi bật tạo ra vẻ riêng của ông.

Thơ Chế Lan Viên mang đậm phong cách triết lý độc đáo. Nhiều câu

Nhà thơ chủ yếu là con người của tình cảm và tưởng tượng. Gọi là nhà thơ

thơ, hình ảnh thơ có giá trị như những định nghĩa, châm ngôn về cuộc đời,

triết lý, bởi bằng những tổ chức ngơn ngữ những biện pháp nghệ thuật tu từ,

tình yêu, nghệ thuật… được khái quát cô đúc từ những vấn đề mà mọi người

Chế Lan Viên đã làm hiện lên những triết lý gợi trí tị mị ở người đọc để thoả

đã quen thuộc, có khi là những phát hiện mới lạ của nhà thơ trong quá trình


mãn nhận thức. Ơng kết hợp tình cảm và lý trí để xây dựng những hình ảnh,

sống, lao động và chiêm nghiệm. Tất nhiên, triết lý trong thơ Chế Lan Viên

những tâm trạng chân thật của cuộc sống có tính triết lý, nhưng yếu tố trữ tình

nhiều khi là những điều bất khả giải, phi lý nhưng vẫn hấp dẫn bởi cách nói,

gợi cảm vẫn là nền tảng. Đó là thi pháp riêng của ơng. Ơng chú trọng, trước


41

42

cách dùng hình ảnh buộc người đọc phải suy nghĩ, liên hệ, tưởng tượng, suy

thật của chi tiết, thêm vào đó là nghệ thuật kể tự nhiên dung dị mà hấp dẫn, ngơn

đốn, có khi lại phải biện luận, suy nghĩ và tìm lời giải đáp.

ngữ trong sáng, lớp lang rõ ràng… Anh Tài Lạc, Chuyện anh Phòng đấu

Huy Cận thành cơng nhiều trong chủ đề lao động. Ơng đến với cuộc

tranh, Sập lị cái Đá… Đó là những bài thơ hay chứng tỏ sự lao động nghệ thuật

đời mới bằng niềm vui và tin tưởng: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở


công phu, nghiêm túc. Thế nhưng, cái mạch ngầm tạo nên ấn tượng ở người đọc

hoa (1960) và Bài thơ cuộc đời (1963) là ba tập thơ nói lên nhiều ý nghĩa:

xuyên suốt thơ Huy Cận là tư thế, giọng điệu trữ tình trầm tư, suy tưởng

ơng viết nhiều, viết khỏe, có thành tựu. Và cũng chứng tỏ ơng gắn bó với

Mạch suy tưởng trong thơ Huy Cận phong phú, khi lộ, khi chìm, lúc dữ

người với đời thắm thiết. Trong thơ Huy Cận cảm hứng nổi bật là lạc quan

dội lúc bình dị yên ả. Cuộc sống thanh bình cứ chìm khuất trong màn mưa
giăng mắc thơ mộng. Cả bài thơ tĩnh lặng mà không buồn bởi những nét động

phơi phới. Hiện thực cuộc sống được miêu tả chi tiết nhưng tinh tế. Đặc biệt
cái hiện thực ấy thường được chắp đôi cánh lãng mạn, nên thơ ông gần gũi
với đời mà lại giàu ước mơ. Thơ có xu hướng chan hồ tâm hồn và cảnh vật,
hình ảnh thơ mộng, lộng lẫy, mầu sắc, gợi cảm. Cuộc sống lao động và thiên
nhiên đẹp, hùng vĩ đã gây nhiều cảm hứng cho thơ ông: Mưa xuân trên biển,
Đồn thuyền đánh cá… Ơng vận dụng liên tưởng, so sánh với quá khứ đau
buồn, cơ cực thì cũng là một cách tơ đậm lịng u đời, u cuộc sống mới.
Đến Bài thơ cuộc đời, tâm tư, nội cảm càng lộ rõ trong thơ Huy Cận. Ông
chú ý khai thác và nghĩ về con người, về cuộc đời xưa và nay, về thế kỷ, vũ
trụ… Tạo nên một mạch trầm tư suy tưởng trong thơ, nhiều vấn đề được đặt
ra và giải quyết trong cách nhìn nhận mới. Các vị la hán chùa Tây Phương
kích thích nhiều suy nghĩ. Cha ông xưa đau khổ tưởng thoát ra khỏi trầm luân
tục luỵ, nhưng với trĩu nặng tâm tư: “Một câu hỏi lớn không lời đáp - Cho đến
bây giờ mặt vẫn chau”. Trò chuyện với Kim tự tháp, nhà thơ nêu lên vấn đề
muôn thủa của cuộc đời: cái sống và cái chết. Giải quyết vấn đề trên quan

điểm nhân dân nhưng theo cách riêng của Huy Cận.
Trước cách mạng, thơ Huy Cận hướng vào nội tâm, bộc lộ tâm trạng cá
nhân mình. Đến lúc này thơ ơng mở rộng cảm xúc hoà vào cuộc sống khách
quan vừa sâu lắng biểu hiện vừa miêu tả thực tế. Kết hợp cả hai phương thức tự
sự và trữ tình, đó là nét mới trong phong cách thơ Huy Cận. Thơ ơng có sự chân

chấm phá, gợi suy nghĩ:
Em bé thuyền ai ra dỡn nước
Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm
(Mưa xuân trên biển)
Huy cận đã khẳng định: “Cảm xúc thơ bao gồm cả cảm và nghĩ. Cố
nhiên sự suy nghĩ mà xã hội nói ở đây là suy nghĩ thực sự bắt nguồn từ cuộc
sống sống động dào dạt và suy nghĩ bằng cảm xúc, bằng hình tượng, suy nghĩ
ở đây như hoa thắm lá tươi, nở ra từ nhựa sống, khác hẳn với lối suy nghĩ trên
sách, tách rời cuộc sống. Vì thế hướng suy nghĩ trong thơ phải gắn chặt với
cảm xúc và xuất phát từ sự thực của đời sống”. Đúng là như thế, những suy
nghĩ, suy tưởng trong thơ Huy Cận đều thấm đẫm cảm xúc và được gợi hứng
từ sự thực của đời sống sinh động, Nhà thơ nhớ lại, ngày nhỏ, cùng bạn lên
chùa, vào phía trong hậu tự xem cảnh thiên đường, địa ngục. Đằng sau những
triết lý cao siêu có phần huyễn hoặc là suy tưởng của nhà thơ mang nặng tấm
lòng nhân hậu ấm áp, cảm thông sâu sắc với nhân dân lao động:
Bạn tơi nhìn kỹ mới hay rằng
Họ giống bà con trong xóm làng
Cũng áo quần nâu, gầy guộc mặt
Ở đây khơng thấy kể giàu sang
(Cảnh địa ngục)


43


44

Huy Cận đã sáng tạo nhiều câu thơ theo lối thơ văn xuôi. Câu thơ kéo

Gửi miền Bắc (1958), Tiếng sóng (1960) và Hai nửa yêu thương (1963)

dài theo chiều ngang mở rộng khả năng biểu cảm, gợi ra những liên tưởng

là ba tập thơ được sáng tác từ sau hồ bình 1954, đã kết hợp được một cách

rộng dài. Chính cái giọng thơ, dịng thơ như thế rất thích hợp cho nhà thơ suy

thuần thục giữa chất tự sự và chất trữ tình. Thể hiện một hồn thơ chân tình,

tưởng. Câu thơ giàu hình tượng, ngơn ngữ nhuần nhị, có chọn lọc.

trong sáng, giản dị mà rung động tinh tế. Nhiều bài thơ hay của Tế Hanh là

Và mắt của anh - tơi nhìn trong ảnh - vẫn chưa ngi

nhờ sự việc, câu chuyện được dẫn dắt bằng tình cảm tha thiết dưới ánh sáng

Đau, ôi thật đau những hồi vọng của con người

của trí tuệ, là sự hài hồ giữa mơ tả và biểu hiện, giữa kể và tâm tình.

Chưa nói hết.

Ở ba tập thơ này, chủ đề trung tâm, nổi trội là chủ để đấu tranh thống


Trong sâu lắng của đất, trong sâu thẳm của lòng người, cuộc sống vẫn
cuộn trào sức sống bất diệt:

nhất đất nước. Tế Hanh tìm được sự hồ hợp của hồn mình với chất thơ của
đời sống. Chiêm bao, Nhớ con sông quê hương, Vườn xưa, Em chờ anh…

Trong lòng sâu của đất mặt trời triệu năm đã lắng đọng
thành dầu trong tinh khiết

chứa chan tình cảm nhớ thương thấm thía đến xót xa.
Và như vậy, hồi tưởng là âm điệu chủ đạo. Hồi tưởng về miền Nam xa

Trong sâu thẳm của anh, Irắc ơi!... cuộc sống đang ủ mầm
bất diệt

cách, về những con người và cảnh vật quê hương. Ông chú ý nhiều đến những
người lao động miền biển, những con người đã “lớn lên cùng cách mạng”,

(Irắc ơi!)
Từ sự quan sát tỉ mỉ và xuất phát từ những cảm xúc về cuộc sống, Huy
Cận viết bài thơ Lúa mới với nhiều suy tưởng. Cấu trúc câu thơ mở rộng, tầng
tầng lớp lớp đầy sức gợi về cuộc đời đầm ấm:
Như cánh mũi em bé phập phồng thở sữa mẹ khi bình minh ngủ dậy

quả cảm “xây cái sống nơi đầu gềnh cuối bãi”, những bà con dân chài vật lộn
sinh tử với thiên nhiên và quân thù để giành giật sự sống (Ngoài khơi trong
lộng), những em thiếu nhi thà hi sinh, không chịu đầu hàng giặc (Cái chết
của em Ái)… Đó là những con người mà ơng hết sức yêu mến:
Những người ấy với tôi là ruột thịt



Lúa lao xao như nói chuyện thì thầm, lúa như đàn ong vàng đậu thành
từng cụm
Lúa, hay chính là “những hạt đời, những ngón tay người nhuần nhị”
đang góp phần xây dựng cuộc sống mới.

Trong lời thơ tôi gửi hết yêu thương
Đến những ai không quen không biết
Cũng gần tôi trong hai tiếng quê hương
(Tiếng sóng)

Từ thế giới thơ Huy Cận, ta thấy hiện lên hình ảnh một con người bằng

Viết về đất nước, Tế Hanh viết nhiều về thiên nhiên. Đó là sở trường là

vốn văn hoá, bằng sự tinh nhạy cảm xúc, bằng năng lực tư duy dồi dào đang

điểm mạnh của thơ ông. Phong cảnh thiên nhiên được nhà thơ miêu tả bằng

trầm tư suy tưởng, đang sống hết mình với cuộc sống nhân dân.

một sự trìu mến đặc biệt với những nét đẹp tinh tế. Thơ ông tràn ngập những
trời biển, mây gió, trăng hoa, chim cá… Tế Hanh nói đến mùa thu, mùa thu


45

46

trên đất khách, trong tâm tình “Anh xa nước nên yêu thêm nước - Anh xa em


Hình ảnh bên Cái giếng đầu làng

càng nhớ thêm em”. Mùa thu qua những hình ảnh tượng trưng của gió, của

… Em đi gánh nước đơi vai mịn

mây, của nắng… có gì xao xuyến tận bên trong:

Đôi gánh cong cong uốn dẻo mềm
… Em múc trao anh gầu nước mát

Mùa thu đã đi qua cịn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây

Mặt nước hồ đơi bóng chúng mình
Những hình ảnh tài hoa và tinh tế ấy đã góp phần tạo nên phong cách

Một ít buồn trong gió trong mây

nghệ thuật của Tế Hanh - phong cách trữ tình trong trẻo giãy bày đến tận cùng

Một ít vui trên mơi người thiếu nữ

lịng mình trên trang thơ. Chủ thể trữ tình ln hiện diện như ở giữa mọi

(Bài thơ tình ở Hàng Châu)

người trực tiếp tâm sự:
- Q hương tơi có con sơng xanh biếc


Một mùa thu ở nông trường những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội

- Tôi thấy đời tôi gắn liền với biển

ở miền Bắc - một mùa thu không uỷ mị mà êm đềm duyên dáng trong những

- Tôi làm sao quên được điệu quê hương

nét mới của cuộc sống:

- Tôi không muốn ngủ núi đồi trắng trong
Mùa thu đã đến nơng trường
Se se gió trở, hơi sương dịu trời
Nắng vàng mây lững lờ trơi

Ngay cả những khi nói tới những đau thương mất mát, cắt chia, uất
hận, căm thù, Tế Hanh vẫn tâm tình thầm thì như trị chuyện với mọi người
một cách chân tình:
Tơi chảy ngày đêm khơng ngủ

Nét xanh sóng lượn lưng đồi uốn cong
(Mùa thu ở nơng trường)
Từ đó rất dễ nhận ra trong thơ Tế Hanh cảm xúc chân tình, trong trẻo,
dịu dàng. Cái cảm xúc ấy hiện ra những hình ảnh dung dị, nồng nàn hơi thở

Hai bờ Nam Bắc nhìn nhau
Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có chia đâu
(Nói chuyện với Hiền Lương)

Phong cách một thời của Tế Hanh, thực ra là phong cách cả đời thơ ơng

cuộc đời:
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông

từ cuối những năm 30 đến những năm cuối thể kỉ XX này. Tức là một phong
cách thơ tương đối bền vững đã làm nên một đời thơ, một nhà thơ trong
những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam.
Ngồi những phong cách sáng tạo trên, chúng ta có thể kể thêm những
thành công mới những nét riêng đặc sắc của Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân

(Nhớ con sông quê hương)

Sanh, Anh Thơ, Trinh Đường, Phạm Hổ, Trần Hữu Thung. Đặc biệt Hồng
Trung Thơng trong Đường chúng ta đi (1960), Những cánh buồm (1964)


47

giữ được hơi thơ trẻ, khỏe, giàu chất sống. Cuộc sống được chú ý khắc hoạ
trong quá trình vận động để trưởng thành. Tâm hồn đôn hậu mực thước, nghệ
thuật vững vàng, chặt chẽ. Và, cũng có nghĩa là ít biến hố. Nguyễn Đình Thi

48

Chương 2


THƠ THỜI KỲ 1954 - 1964 NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN
CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT

từ Người chiến sĩ (1955) đến Bài thơ Hắc Hải (1959) có biến đổi: cách diễn
đạt giản dị hơn. Cố gắng đưa cuộc sống bình thường vào thơ, dùng tiếng nói

Sự hài hồ về lí tưởng và hiện thực trên cảm hứng sáng tạo luôn vượt

hàng ngày. Vẫn là phong cách sắc sảo, cảm xúc thơng minh, hình ảnh chọn

lên phía trước cùng với năng lực nhận thức và đoán định tương lai một cách

lọc, câu thơ ít vần.

sáng suốt, phải là phẩm chất hàng đầu của nền thơ ca cách mạng. Một tương

Thời kì 1954-1964 đánh dấu sự trưởng thành của một giai đoạn thơ. Đó

lai tốt đẹp được nói đến trong thơ như một cảm hứng quen thuộc nhưng vẫn

là kết quả của một q trình tích luỹ chuyển biến trong mười năm cách mạng.

ln mới mẻ vì đó khơng phải là một ước lệ trang sức, mà là quy luật vận

Và sự trưởng thành này cũng chứng tỏ các nhà thơ đã có sự thay đổi về chất,

động thực tế được nhận thức trong thơ ca. Thơ ca phải phản ánh được niềm

có trình độ tư tưởng cao, nghệ thuật độc đáo, có bản lĩnh trong một đội ngũ


tin và lòng quyết tâm giành lấy tương lai, phải làm sao thể hiện được sự vận

đông đảo. Một đội ngũ bao gồm các nhà thơ đã sáng tác từ trước cách mạng

động biện chứng của tâm hồn phù hợp với sự vận động biện chứngcủa quy

tháng Tám, các nhà thơ ra đời và lớn lên trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Các nhà thơ trẻ xuất hiện trong những năm này như: Nguyễn Bao,
Xuân Quỳnh, Ngô văn Phú, Võ Văn Trực, Ca Lê Hiến (Lê Xuân Anh)… báo
hiệu nhiều hứa hẹn nhưng chưa được khẳng định. Lớp trẻ này thực sự nổi lên
và có đóng góp tích cực là khi đất nước bước vào thời kì mới: chống Mỹ cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trên đây chúng tôi đã tiếp cận, tìm hiểu từ những góc độ: Đội ngũ sáng

luật phát triển cách mạng đang từng ngày giành được thắng lợi. Nền thơ xã
hội chủ nghĩa là khúc ca mới ca ngợi chế độ xã hội mới kiến lập, nhân dân
làm chủ vận mệnh của mình, đang từng ngày sáng tạo ra những kì cơng mới
từ trong những sự kiện long trời lở đất và cả trong những cơng việc ngỡ như
bình thường, quen thuộc. Trong thời điểm đó cảm hứng sáng tạo trở nên rộng
mở khi trực tiếp gắn chặt với hiện thực cuộc sống, hồ mình vào cuộc sống

tác, bản chất chức năng thơ ca, ý thức nghệ thuật chín muồi, và một số phong

của tập thể của cộng đồng một cách tự nguyện, tự giác, cảm hứng thơ trước

cách nghệ thuật định hình góp phần làm nên thành tựu thơ ca thời kỳ này. Với

hết là những rung động, những cảm xúc có tính chất cộng đồng. Nhà thơ trở

một đội ngũ thơ đông đảo sống và viết trên mọi vùng miền của Tổ quốc, có sự


thành người cất cao tiếng nói của quần chúng nhân dân. Nền thơ xã hội chủ

bổ sung của các thế hệ nhà thơ. Họ đã xác định được bản chất chức năng thơ

nghĩa đi trên con đường lớn của cách mạng, lấy cảm hứng từ trong những sự

ca, có được sự chín muồi trong ý thức nghệ thuật, đưa thơ về với đời sống,

kiện lịch sử và chính trị. Tuỳ theo từng giai đoạn cách mạng với những nhiệm

gắn bó và trực tiếp “tham dự”, vào đời sống, đồng thời nỗ lực mở rộng các

vụ lịch sử khác nhau cảm hứng thơ cũng có sự thay đổi. Phong trào Thơ Mới

khả năng biểu hiện, nâng cao chất lượng sáng tạo thơ. Đánh dấu sự trưởng

nói nhiều đến quá khứ với cảm hứng lãng mạn khi tha thiết khi đắm say, khi

thành của một giai đoạn thơ, báo hiệu nhiều hứa hẹn trong tiến trình của nền

ngậm ngùi luyến tiếc. Họ phủ nhận, thoát li thực tại và đồng thời đánh mất

thơ Cách mạng Việt Nam.

tương lai. Ngược lại, trong cảnh sống ngột ngạt tù đày nhiều nhà thơ cách
mạng được vũ trang bằng “Đôi mắt thần chủ nghĩa” lại dự cảm về tương lai


49


50

với niềm tin lạc quan và đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng. Đến 1954, sau

tranh hoạ đồ” cho đến “Nam quốc sơn hà”, “Bạch Đằng Giang Phú”… tới thơ

“Chín năm làm một Điện Biên - Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”, miền

hiện đại đều là niềm rung cảm tự hào của mỗi nhà thơ. Đất nước là nguồn

Bắc đã hồn tồn giải phóng. Đất nước ta bước vào giai đoạn khẩn trương hàn

cảm hứng lớn nhất mà bất kì một thi sĩ ở một thời đại nào khai thác và hoà

gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa. Theo

nhập được là đã tạo cho thơ mình một giá trị cao đẹp. Bao nhiêu nhà thơ say

hiệp nghị Giơnevơ, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Cả dân tộc lại

sưa về đất nước. Nó trở thành hình tượng tập trung cảm xúc của các nhà thơ.

tiếp tục đấu tranh giành thống nhất trọn vẹn non sông Tổ quốc. Nhiệm vụ cách

Nguyễn Khuyến thường được xem là nhà thơ của làng quê nhưng trong chiều

mạng mới đặt ra cho văn học nghệ thuật nói chung và thơ nói riêng những

sâu chính là với non sơng đất nước. Những câu thơ chan chứa niềm đau


nhiệm vụ và những yêu cầu mới. Trên nền hiện thực đó, để góp phần “trả lời

thương với non sông đất nước:

những nhu cầu cấp thiết của cuộc sống” thơ đã có những bước phát triển và

Trơng vời non nước cũ thật ảm đạm…

mở rộng rõ rệt. Cảm hứng sáng tạo của nhà thơ đã bung mở về nhiều chiều

Ngước nhìn non sơng khơn xiết buồn đau

hướng, phản ánh hiện thực đời sống đa dạng và nóng bỏng của dân tộc của thời
đại. Cảm hứng thơ ca những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội là “Cảm hứng
về đất nước anh hùng, về tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp là cảm hứng chủ
đạo… Trong thơ ca có tiếng nói da diết nhớ thương về tình cảnh đất nước cịn

Trần Tuấn Khải, từ một cảm thương về thân phận phù sinh đã khát
khao cảm hứng với non sơng:
Sống khơng dun nợ thà khơng sống
Văn có nước sơng mới có hồn.

bị chia cắt hai miền. Nhưng trước hết bài ca về đất nước là bài ca thắng lợi, bài

Và cách mạng đã thu về một giang sơn đất nước do nhân dân làm chủ

ca xây dựng ”(Hà Minh Đức). Ở chương này chúng tôi muốn đi sâu vào một số

vận mệnh của mình. “Hãy bay lên sông núi của ta rồi” niềm vui ấy không


cảm hứng sáng tạo chính.

riêng gì ở Tố Hữu mà là của cả một thế hệ. Xuân Diệu viết Ngọn quốc kỳ và

2.1. CẢM HỨNG VỀ ĐẤT NƯỚC, VỀ TỔ QUỐC THÂN YÊU

Hội nghị non sông với cảm hứng công dân sâu sắc với cảm hứng thi sĩ nồng

Nhìn vào tiến trình lịch sử của văn học dân tộc, văn học dân gian với

nàn. Tình sơng núi của Trần Mai Ninh ca ngợi vẻ đẹp của Tổ quốc và từng

những thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao - dân ca cho tới văn học thành

miền đất quê hương một vẻ đẹp như chưa bao giờ từng được thấy. Đất nước

văn qua suốt hàng nghìn năm, người đọc khơng thể khơng quan tâm tới một

của Nguyễn Đình Thi, Bên kia sơng Đuống của Hồng Cầm, Tây Tiến của

dịng chảy hết sức mạnh mẽ nhiều lúc gợi lên thành những thác ghềnh, những

Quang Dũng… là những tác phẩm viết về tình yêu quê hương đất nước. Theo

khúc ngoặt của lịch sử dân tộc, dòng chảy của cảm hứng về đất nước, của

sự phát triển của thời gian và qua nhiều thử thách lớn lao của lịch sử, đất

mạch cảm xúc dồi dào mãnh liệt về đất nước. Viết về đất nước, trong trái tim


nước mang tầm vóc mới. Từ hình ảnh đất nước còn nghèo khổ “Dân tộc rớt

mỗi nhà thơ đều rung động một cách hết sức chân thực sâu xa mãnh liệt. Từ

mồ hơi thấm đất” và kiên trì trong lao động “Nhìn quanh là cả bốn bề cần

những câu ca dao “Đồng Đăng có phố kì lừa - Có nàng Tơ Thị có chùa Tam

lao” (Trần Mai Ninh). Sau bao nhiêu năm “Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm

Thanh” hay “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh - Non xanh nước biếc như

cơm vắt - Màu trộn bùn non, gan không núng, chí khơng mịn”, một đất nước


×